Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Bài tiểu luận đặc điểm chung của các quốc gia cổ đại phương đông 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.5 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM

KHOA LỊCH SỬ
NGÀNH QUỐC TẾ HỌC

TIỂU LUẬN
Đề tài: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI
PHƯƠNG ĐÔNG
GV hướng dẫn: Thầy Nguyễn Văn Sơn
Tiểu luận môn : Lịch sử thế giới cổ
trung đại
Tên sinh viên :
Mã số

:

Lớp

:

Niên khóa

: 2014-2015

TPHCM tháng 12-2014
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM



KHOA LỊCH SỬ
NGÀNH QUỐC TẾ HỌC
TIỂU LUẬN
Đề tài: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI
PHƯƠNG ĐÔNG

GV hướng dẫn: Thầy Nguyễn Văn Sơn

Tiểu luận môn : Lịch sử thế giới cổ trung đại
Tên sinh viên :
Mã số

:

Lớp

:

2


MỤC LỤC
1. Mở đầu............................................................................................................... 4
2. Những đặc điểm chung của các quốc gia cổ đại phương Đông
2.1. Nhà nước hình thành sớm ven lưu vực các con sông lớn.........................5
..................................................................................................................................
2.2. Hoạt đợng kinh tế....................................................................................8
..................................................................................................................................
2.3. Quan hệ xã hợi và chính trị....................................................................11

2.4. Thành tựu rực rỡ về văn hoá..................................................................17
3. Kết luận............................................................................................................. 19
Tài liệu tham khảo................................................................................................ 20

3


1. Mở đầu
Ngay từ khi có xã hợi loài người, phương Đông từng là khu vực sinh tồn của bầy người nguyên thủy.
Rồi theo sự phát triển của lịch sử ở đây dần dần xuất hiện công xã thị tộc bợ lạc và sau đó là nhà nước.
Phương Đơng được coi là cái nôi của nền văn minh nhân loại, nơi mà lần đầu tiên con người sáng tạo
ra chữ viết, văn học nghệ thuật và nhiều tri thức khoa học khác.
Xét về vùng lãnh thổ phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn bộ Châu Á và phần
Đơng Bắc châu Phi. Nói đến phương Đơng cổ đại ta nghĩ ngay đến “tặng phẩm sông Nile”- Ai Cập,
hay quốc gia nằm giữ hai dịng sơng- Lưỡng hà, ngoài ra cịn có Trung Quốc, Ấn Đợ. Mỗi quốc gia
hình thành trên những vùng đất khác nhau, tôn giáo khác nhau, họ nói ngơn ngữ và sử dụng chữ viết
riêng biệt, những di sản văn hóa nghệ thuật kiến trúc khác nhau mang bản sắc riêng của từng quốc gia.
Vậy hãy tìm hiểu xem họ có những đặc điểm chung nào?

Lượt đồ các quốc gia cổ đại phương Đơng
(ghi chú: các quốc gia có màu vàng và màu cam)

4


2. Những đặc điểm chung của các quốc gia cổ đại phương Đông.
2.1.

Nhà nước hình thành sớm ven lưu vực các con sông lớn: Đầu thiên


niên kỉ thứ III TCN những quốc gia cổ đại phương Đông đầu tiên đã hình thành ở lưu vực các
dịng sơng lớn. Cụ thể:

_Ai Cập (sông Nile) : nằm ở Đông Bắc châu Phi, là một vùng thung lũng hẹp và dài nằm dọc theo
lưu vực sơng Nile. Phía tây giáp sa mạc Libya, phía đơng là Hồng Hải, phía bắc là biển Địa Trung Hải,
phía nam giáp sa mạc Nubia và Ethiopia. Địa hình chia ra hai khu vực rõ rệt là vùng Thượng Ai
Cập( dãi thung lũng dài và hẹp có nhiều núi đá) ở phía Nam và Hạ Ai Cập( vùng đồng bằng châu thổ
sông Nile màu mỡ và rộng lớn) ở phía Bắc.
Sơng Nile là mợt trong những con sơng lớn nhất thế giới, dài khoảng 6500km, phần chảy qua
Ai Cập là 700km với bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải có hai nhánh chính quan trọng là sơng Nile Trắng
và sông Nile Xanh. Sông Nile Trắng bắt nguồn từ hồ Victoria nằm giữa Ugana, Kenya, Tanzania. Sông
Nile Xanh bắt nguồn từ hồ Tana trên vùng cao nguyên Ethiopia. Dòng Nile Xanh chảy ngược khoảng
1400km tới Khartoum thì gặp Nile trắng hợp nhất thành sông Nile. Phẩn lớn nguồn nước sông Nile
được cung cấp từ hồ Ethiopia( khoảng 80-85%) nhờ nguồn nước dồi dào đã tạo nên vùng thung lũng
trù phú của “lục địa đen”.
Hằng năm, nước lũ sông Nile dân lên từ tháng 6 đến tháng 10, khiến cho phù sa từ thượng
nguồn tuông xuống gia tăng màu mỡ cho vùng đồng bằng châu thổ, rất thuận lợi cho việc trồng trọt. Sử
gia Hy Lạp cổ đại Herodot từng viết: “ Ai Cập là tặng phẩm của sông Nile”. Ngụ ý nói về vai trị to lớn
của sơng Nile đối với sự phát triển kinh tế văn hóa của người Ai Cập.
Một sự thật đáng buồn rằng sông Nile là dịng sơng ơ
nhiễm nhất vào thời đó do tục ướp xác người chết.
Những người thợ ướp xác rửa xác và nội tạng trên sông
Nile. (Nguồn ảnh: )

Hình thành nhà nước: Do yêu cầu trị thủy
sông Nile các liên minh công xã được hình thành
gọi là “Nom”, do những c̣c tranh chấp đất đai và
thơn tính lẫn nhau, dần dần vào giữa thiên niên kỉ
IV TCN các Nôm miền Bắc thống nhất thành
vương quốc Hạ Ai Cập với trung tâm ở

Bokđót(Đamanhur), các Nơm miền Nam thành
vương quốc Thượng Ai Cập với trung tâm ở
Nebut(Ombos). Bằng con đường chiến tranh thơn
tính Menes đã thống nhất Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập thành nhà nước Ai Cập thống nhất. Tuy còn
5


nhiều nét sơ khai, nhà nước Ai cập hình thành mang đặc điểm của một nhà nước chuyên chế phương
Đông.

_Lưỡng Hà( sông Tigris và Euphrates): là vùng thung lũng giữa hai con sơng Tigris và
Euphrates, phía Tây giáp sa mạc Syria, phía Đơng giáp Ba Tư, phía Nam là vịnh Pecxich.
Sơng Tigris: là con sơng phía Đơng tḥc hai con sông lớn phân định nền văn minh Lưỡng Hà
cùng với sông Euphrates dài khoảng 2000km, bắt nguồn từ dãi núi Taurus phía Đơng Thổ Nhĩ Kì và
chảy theo hướng Đơng Nam đến khi nhập vào Euphrates gần Al Qurna ở phía Nam Iraq. Hai con sơng
này cùng tạo ra đường thủy Shatt al-Arab chảy vào Vịnh Ba Tư. Thành phố cảng Basra nằm ở tuyến
đường thủy Shatta al-Arab. Trong thời kì cổ đại, ở hai bên và
gần sông Tigris đã mọc lên rất nhiều thành phố lớn thời bấy
giờ như Nineveh, Ctesiphon và Seleucia.
Bản đồ sông Tigris và Euphrates.Hiện nay vùng đất này là “điểm
nóng xung đợt qn sự mới tại Trung Đơng” [ trích VOV5-hệ phát
thanh đối ngoại, 17/4/2014].(nguồn ảnh:
/>
Sơng Euphrates: dài khoảng 2.781 km. Nó được tạo
thành bởi hai nhánh chính: Nhánh Kara Su và Nhánh Murat.
Hai nhánh Kara Su và Murat chảy song song về hướng tây
tới khi gặp nhau ở gần thành phố Keban. Từ điểm này, hai dịng chảy tạo thành sơng Euphrates. Dịng
chảy phía trên hòa vào Euphrates qua những rặng đá và những hẻm núi dốc đứng, về phía đơng nam
qua Syria, và xuyên qua Iraq. Sông Khabur và sông Balikh, đều khởi nguồn từ Thổ Nhĩ Kỳ, hịa vào
Euphrates ở phía tây Syria. Sơng Euphrates sau đó chảy qua đồng bằng Syria.Khoảng 885 km kênh đào

nối sông Euphrates với sông Tigres là đường đi quan trọng cho tàu thuyền trong vùng.
Hình thành nhà nước: vào đầu thiên niên kỉ thứ III TCN trên vùng đồng bằng phía Nam Lưỡng Hà đã
hình thành nhiều quốc gia thành thị. Những thành thị ấy kết hợp với vùng đất đai phụ cận xung quanh
trở thành những quốc gia thành thị độc lập buổi ban đẩu: Ur, Eridu, Lagate, Kit, Uruk, chủ nhân của
nhữngg quốc gia thành thị cổ ấy là người Sumer. Mỗi thành thị là một quốc gia độc lập dưới sự cai
quản của Patesi( chức vị cao nhất trong thành bang).

_ Ấn Độ(sông Ấn và Sông Hằng) : là một bán đảo hình tam giác, nằm ở Nam Á, án ngữ phía bắc
là dãy núi cao nhất thế giới Himalaya, hai mặt còn lại giáp biển, nằm giữa đường biển từ Tây sang
Đông ( Hồng Hải và Vịnh Ba Tư sang Biển Đông và Thái Bình Dương).
Sông Ấn Độ : gọi tắt là sơng Ấn (Shindh darya) cịn được gọi là Shindu(tiếng Phạn), Shinthos( tiếng
Hy Lạp), là con sơng chính của Pakistan (phần chảy qua Pakistan 93%, Ấn Độ 5%, Trung Quốc 2%).
Chiều dài sông Ấn tùy theo cách đo đạc dao động từ 2900-3200km. Trước năm 1947 khi xảy ra Ấn Hồi
6


phân chia thành hai quốc gia Ấn Độ và Pakistan thì sông Ấn là con sông lớn thứ nhì của xứ Ấn Độ ở
vùng Nam Á. Địa danh Ấn Độ cũng xuất phát từ con sông này. Sông Ấn bắt nguồn từ Tây Tạng chảy từ
dãy núi Himalaya theo hướng đông nam lên tây bắc qua Kashmir trước khi rẽ về hướng nam chếch
nam tây nam sau khi vào địa phận Pakistan. Vùng tây bắc Ấn Độ-lưu vực của sông Ấn, khí hậu khơ
nóng xê dịch ít nhiều lên trên (trong khoảng vĩ độ 25-30 o) tạo nên sa mạc Thar, rất hiếm mưa và chịu
tác động của sa mạc cát bay dữ dội, hằng năm phủ một lớp dày trên bờ trung lưu sông Ấn.
Sông Hằng: dài khoảng 2580km, diện tích mặt nước 9.050.000km 2 chảy từ vùng núi tuyết
Himalaya chảy suốt không ngừng qua hàng ngàn vùng núi hẻo lánh sau đó đổ ra vịnh Bengal. Sơng có
hai đầu nguồn: sông Jalegienunda vả Pagileti, thượng nguồn hai con sông này nước chảy xiết rất mãnh
liệt. Thủy trình của sông Hằng lúc xuyên qua núi cao lúc ngập chìm vào rừng thẳm, nhìu nhánh sông
dọc hai bên cùng đổ vào sông Hằng nên lượng nước sông rất lớn. Vùng đơng bắc lưu vực sơng Hằng
chịu tác đợng của gió mùa, có mưa nên cây cối tốt tươi. Sơng Hằng cịn là dịng sơng thiêng liêng trong
lịng những tín đồ Phật Giáo.
Hình thành nhà nước: khoảng 2000 năm TCN , công xã nguyên thuỷ tan rã, Ấn Độ bước vào xã

hợi có giai cấp nhà nước, với sự tồn tại của nhiều quốc gia, trong đó vương quốc Magađa đóng vai trò
chủ đạo ở miền bắc Ấn vào thời kì thế kỉ thứ VI TCN.

_Trung Quốc ( sơng Hồng Hà và Trường Giang): là một trong bốn trung tâm văn minh
lớn của phương Đông cổ đại, lãnh thổ trải dài từ trung đến phía đơng châu Á, lãnh thổ Trung Quốc vừa
rợng, vừa có địa hình đa dạng và khá phức tạp: cao ở phía tây, thấp dần về phía Đơng . Miền tây đất
cao, nhiều núi, khí hậu khơ hanh, miền đơng đất thấp hơn gần biển nên khí hậu tương đối ơn hịa.
Trung Quốc có khoảng 5000 con sông lớn nhỏ thuận theo hướng nghiêng của địa hình chảy về hướng
đông. Hai con sông lớn nhất là Hoàng Hà và Trường Giang.
Sông Hoàng Hà: nghĩa là “sông màu vàng” là con sông lớn thứ hai của Trung Quốc sau sơng
Trường Giang có chiều dài 5464km bắt nguồn từ dãy núi Cơn Lơn ở phía tây bắc tỉnh Thanh Hải trên
cao nguyên Thanh Tạng, sông chảy theo hướng nam uốn con về hướng đơng nam và sau đó lại chảy
theo hướng nam đến thành phố Lan Châu . Nhiều lần đổi hướng chảy và cuối cùng đổ ra biển Bợt Hải.
Nước sơng Hoàng Hà có màu vàng bởi do lượng phù sa mà nó mang theo, nguồn phù sa dồi dào trở
thành tài nguyên quan trọng đem lại hạnh phúc cho người dân vùng bình nguyên Hoa Bắc. Theo lịch sử
hàng ngàn năm của Trung Quốc,Hoàng Hà vừa đem lại lợi ích vừa đem lại tai họa cho người dân, vì thế
nó cịn được coi là "Niềm kiêu hãnh của Trung Quốc" (pinyin: Zhōngg de Jiāồo) và "Nỗi buồn của
Trung Quốc" (pinyin:Zhōngg de Tịng). Các ghi chép chỉ ra rằng, từ năm 602 đến ngày nay, con sông
này đã ít nhất 5 lần đổi dòng và các con đê bao bọc đã vỡ không dưới 1.500 lần. Lần thay đổi dòng
năm 1194 đã phá vỡ hệ thống tưới tiêu của sông Hoài trong gần 700 năm sau. Phù sa Hoàng Hà đã
ngăn chặn dịng chảy của sơng Hoài và làm hàng ngàn người mất nhà ở. Mỗi lần đổi dịng nó khi thì đổ
ra Hoàng Hải, khi thì ra vịnh Bợt Hải. Hoàng Hà có dịng chảy như ngày nay từ năm 1897 sau lần đổi
7


dòng cuối cùng năm 1855.Trong suốt thế kỷ 20, Hoàng Hà mang ra biển khoảng 0,9x10⁹ tấn trầm
tích/năm.Hàng thế kỷ của việc bồi đắp và sự bao bọc của các con đê đã làm con sông này chảy ở độ
cao lớn hơn so với đất nông nghiệp hai bên bờ, làm cho việc ngập lụt trở nên nguy hiểm hơn.
Sông Trường Giang: cịn gọi là sơng Dương Tử, là con sông dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên
thế giới sau sông Nin ở Châu Phi, sông Amazon ở Nam Mỹ. Sông Trường Giang dài khoảng 6.385 km,

bắt nguồn từ vùng cao nguyên tỉnh Thanh Hải, chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới cao nguyên Tây
Tạng vào địa phận tỉnh Vân Nam, sau đó rẽ sang hướng đơng bắc vào tỉnh Tứ Xuyên, qua các tỉnh Hồ
Bắc, Giang Tây, An Huy và Giang Tô rồi đổ ra biển ở giữa Hoàng Hải và Nam Hải.Thông thường sông
này được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa Bắc và Hoa Nam Trung Quốc. Trường Giang chảy
qua nhiều hệ sinh thái đa dạng và bản thân nó cũng là nơi sinh sống cho nhiều loài đặc hữu và loài
nguy cấp như Cá sấu Trung Quốc và Cá tầm Dương Tử. Sơng Dương Tử góp phần quan trọng trong
việc hình thành các nguồn gốc văn hóa miền nam Trung Quốc. Hoạt động của con người đã được phát
hiện ở khu vực Tam Hiệp cách đây 27.000 năm.Từ xa xưa con sông này đã là tuyến giao thông huyết
mạch trong lãnh thổ Trung Quốc nối liền phương bắc và phương nam và có ý nghĩa kinh tế đặc biệt
quan trọng.
Hoàng Hà và Trường Giang từ xưa đã gây ra nhiều lũ lụt nhưng khi lũ rút đi đã để lại một lượng
phù sa lớn, bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ thuận lợi cho trồng trọt, phát triển nông nghiệp. Lưu vực
hai dịng sơng này đã phát sinh mợt nền văn minh lớn nhất, có ảnh hưởng sâu rợng trong lịch sử loài
người và còn tiếp tục phát triển đến ngày nay.
Hình thành nhà nước: khoảng 3000 năm TCN, công xã nguyên thuỷ tan rã, Trung quốc bước vào
thời kì dân chủ quân sự, thời kì quá độ từ xã hợi ngun thuỷ lên xã hợi có giai cấp với thủ lĩnh liên
minh các bộ lạc được các thành viên hội đồng bầu cử một cách dân chủ, theo truyền thuyết ở lưu vực
sơng Hoàng Hà có nhiều thủ lĩnh bợ lạc nối tiếp nhau- đó là Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế
Cốc, Đế Chí, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ. Năm 2140 TCN, nhà Hạ ra đời, người sáng lập triều
Hạ là Khải con của Vũ, là triều đại đầu tiên của Trung Quốc.
*Nước ta cũng hình thành nền văn minh lúa nước trên lưu vực sông Hồng, sông Mã*

2.2 Hoạt động kinh tế: chủ yếu là nông nghiệp với cơ sở kinh tế là thôn xa
(công xa nông thôn)
Nguyên nhân: hình thành trên lưu vực các con sơng lớn do đó có điều kiện tự nhiên thuận lợi đó là
đồng bằng rợng lớn, khá bằng phẳng, nguồn nước dồi dào, khí hậu ấm áp, đất đai màu mỡ thuận lợi cho
trồng trọt,… Ngoài ra một trong những điều kiện thuận lợi khác của phương Đơng đó là cư dân đã sớm
bước vào thời đại kim khí, sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim loại đã làm biến đổi to lớn xã
hội loài người. Cụ thể, cư dân phương Đông đã bước vào thời đại đồ đồng rất sớm vào khoảng thiên
niên kỉ thứ IV TCN thời điểm mà các quốc gia cổ đại hình thành, vào khoảng 4000 năm trước đây cư

dân Tây Á và Ai Cập đã biết sử dụng đồng đỏ. Thời đại đồ đồng tại tiểu lục địa Ấn Độ đã bắt đầu
8


khoảng năm 3300 TCN. Các dân cư cổ đại của thung lũng sông Ấn (Indus), người Harappa, đã phát
triển các kỹ thuật mới trong luyện kim và sản xuất đồng, đồng đỏ, chì và thiếc. Đến khoảng 4000 năm
trước đây nhiều cư dân trên trái đất biết sử dụng đồng thau. Từ đồng thau con người đã chế tạo ra nhiều
công cụ như lưỡi rìu, lưỡi cuốc,..phục vụ cho nông nghiệp. Đặc biệt sự xuất hiện của sắt có ý nghĩa vô
cùng to lớn, người Hatti (một tộc người thuộc bán đảo Tiểu Á) là giống người đầu tiên đã chế tạo ra rất
nhiều đồ sắt nên họ đã trở thành một bộ tộc hùng mạnh ở Tiểu Á. Tại Tiểu Á (Anatolia), sắt đã được
sản xuất có hệ thống từ nguồn lớn chứa sắt trong các vẫn thạch, không xa từ các nguồn thời đại đồ
đồng của các kim loại khác. Các nghiên cứu khảo cổ gần đây tại thung lũng sông Hằng, Ấn Độ chỉ ra
rằng công việc luyện sắt sớm nhất tại khu vực này có từ khoảng năm 1800 TCN. F.Engels từng nhận
định: ‘sắt cho phép người ta có thể trờng trọt trên những diện tích rộng lớn hơn, có thể khai hoang
được miền rừng rú rộng lớn hơn, sắt khiến cho người thợ thủ công có được một cơng cụ cứng và sắc
mà khơng có một loại đá nào hay một loại kim khí quen thuộc nào có thể đương đầu với nó được ”. Nhà
học giả người Mỹ: H.Morgan tác giả quyển Xã hội cổ đại, cũng đã từng nói: “ Phát minh ra đờ sắt đó
là việc quan trọng nhất lịch sử lồi người, hết thảy mọi phát minh khác so với nó đều bị liệt vào hàng
thứ yếu hoặc không đáng kể” (Cố nhiên Morgan nói như vậy vì thời ơng sống chưa phát minh ra máy
hơi nước). Nhờ vậy mà nền văn minh nông nghiệp ở phương Đông sớm hình thành và phát triển tới
đỉnh cao.
Bên cạnh đó chăn ni gia súc, gia cầm cũng khá phát triển ở các gia đình nông thôn. Ngoài ra
thủ công nghiệp cũng ra đời với những người thợ chuyên môn tài giỏi sản xuất công cụ, các đồ dùng
đáp ứng cho cuộc sống sinh hoạt, lao động của con người như dệt vải làm đồ gốm, chế tác công cụ
đồng, sắt,..Nhưng nghề thủ công của các quốc gia phương Đông không phát triển thành nền kinh tế
hàng hóa thị trường do sự phân cơng chun mơn hóa giữa các ngành chưa diễn ra sâu sắc, năng xuất
lao động kém, công cụ thô sơ, kỷ thuật sản xuất lạc hậu nên nó chỉ bổ trợ cho nền kinh tế đóng kín của
các làng xã vốn cịn nặng nề tàn dư của xã hợi ngun thủy. Tóm lại kinh tế nơng nghiệp đóng vai trị
chủ yếu của các quốc gia phương Đông cổ đại.


Đặc điểm kinh tế nền nơng nghiệp:
Nền kinh tế nơng nghiệp mang tính chất tự cung, tự cấp và khép kín trong thơn xã, thơn xã rất ít
có liên hệ với thành thị. Kinh tế thủ cơng nghiệp và thương nghiệp có tồn tại nhưng khơng có điều kiện
phát triển, được coi như nghề phụ trong những lúc nông nhàn.
Do hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nên tư liệu sản xuất chính là ṛng đất. Xun
suốt hàng thế kỉ vấn đề ruộng đất là một vấn đề nan giải ở các quốc gia phương Đông. Khi mà sự tồn
tại dai dẳng và ngoan cố của các tổ chức công xã nơng thơn, tàn tích của xã hợi thị tợc thời nguyên thủy
và sự phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về ruột đất trong các xã hội cổ đại phương Đơng. Nói như
C.Mác ( trong thư gửi F.Engel ngày 2/6/1853): “Việc khơng có sở hữu tư nhân về ruộng đất là cơ sở
của tất cả các hiện tượng ở phương Đông”. Nhưng ở những vùng kinh tế phát triển, nó đã dần dần
phân hố, xuất hiện mợt số ruộng đất tư hữu. Nông dân trong thôn xã có hoàn cảnh khơng giống nhau
trong đó hình thái chiếm chủ đạo là nông dân tự do. Người nông dân trong cơng xã có nghĩa vụ cày cấy
9


và nộp thuế là nghĩa vụ mà họ phải gánh vác đối với quốc gia nhưng trong thực tế đó là việc bóc lợc
trắng trợn của vua đối với các thành viên công xã.
Qui mô sản xuất nhỏ và gắn liền với cơng tác thủy lợi. Những khó khăn trong việc trị thủy và công
cuộc chinh phục tự nhiên đã phần nào khiến cho người dân phương Đông qua hàng thế kỉ đã tích lũy
cho mình những kiến thức nơng nghiệp nhất định phục vụ cho sản xuất và đời sống của mình.

Tính chất nơng nghiệp biểu hiện ở: Tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa dân gian rất đợc đáo, phổ
biến là tính ngưỡng sùng bái tự nhiên.

Ai Cập: Sự kết hợp các điều kiện địa lý thuận lợi góp phần vào sự thành cơng của văn hóa Ai Cập cổ
đại, quan trọng nhất trong đó là đất đai có đợ màu mỡ cao, kết quả từ sự ngập lụt hàng năm của sông
Nile. Như vậy, người Ai Cập cổ đại có thể tạo ra mợt nguồn lương thực dồi dào. Các loài thực vật như
tiểu mạch, đại mạch chà là, sen, cây papyrus sinh sôi này nở quanh năm. Quản lý đất đai là rất quan
trọng trong thời Ai Cập cổ đại bởi vì số thuế được thu dựa trên số lượng đất mà một người sở hữu.Công
việc đồng áng ở Ai Cập phụ thuộc vào chu kỳ của sông Nile. Người Ai Cập ghi nhận ba mùa: Akhet (lũ

lụt), Peret (trồng trọt), và Shemu (thu hoạch). Mùa lũ lụt kéo dài từ tháng sáu tới tháng chín, bồi đắp
hai bên bờ sông một lớp phù sa lý tưởng, giàu khoáng chất cho việc trồng trọt. Sau khi nước lũ rút, mùa
gieo trồng kéo dài từ tháng 10 đến tháng 12. Nông dân cày và trồng hạt giống trên các cánh đồng, được
tưới bằng mương, kênh rạch. Ai Cập vốn có lượng mưa hàng năm ít, do đó, nông dân đã dựa vào sông
Nile để tưới nước cho cây trồng của họ. Từ tháng ba tới tháng năm, nông dân sử dụng liềm để thu
hoạch cây trồng của họ, mà sau đó đã đập với mợt cái đập lúa mợt để tách riêng rơm khỏi hạt thóc lúa.
Sàng lọc loại bỏ trấu khỏi thóc, các hạt thóc lúa sau đó được nghiền
thành bợt, ủ làm bia, hoặc được lưu trữ để sử dụng sau này.Người Ai
Cập cổ đại trồng lúa mì và lúa mạch, và một số loại ngũ cốc khác,
tất cả đều được sử dụng để làm cho hai loại thực phẩm chính là
bánh mì và bia. Các cây lanh bị nhổ bật gốc trước khi chúng bắt đầu
ra hoa, vốn được trồng để lấy sợi. Những sợi này được tách dọc theo
chiều dài của nó và xe thành sợi, được sử dụng để dệt vải lanh và
may quần áo. Cây cói mọc trên các bờ của sông Nile đã được sử
dụng để làm giấy. Rau và hoa quả được trồng ở những mảnh đất
vườn, gần các ngôi nhà và trên khu đất cao hơn, và phải được tưới
nước bằng tay. Rau bao gồm tỏi tây, tỏi, dưa hấu, bí, đậu, rau diếp,
và các cây trồng khác, ngoài ra cịn có nho đã được chế biến thành
rượu. Hằng năm lề cúng thần Osiris( được coi là thần nông nghiệp của văn minh sông Nile) kéo dài 18
ngày với lễ cảy ruộng, lễ gieo hạt… Hình trên là cảnh nông nghiệp từ ngôi mộ của Nakht, vương triều thứ 18 tại
Thebes. Trong hình mô tả cảnh nông nhân cày ruộng, thu hoạch các loại cây trồng, và đập các hạt dưới sự chỉ đạo của một
“nomarque”.
Nguồn
ảnh: />%A1i#mediaviewer/File:Tomb_of_Nakht_(2).jpg

Lưỡng Hà: Nguồn cung cấp lương thực tại Lưỡng Hà khá phong phú nhờ vị trí giữa hai con sơng,
cũng là nguồn gốc tên gọi của vùng này, sông Tigris và sông Euphrates. Những vùng đất gần sông màu
10



mỡ hơn và thuận lợi hơn cho trồng cấy, nhiều vùng đất ở xa nguồn nước khô và thường không có
người ở. Điều này giải thích tại sao sự phát triển hệ thống tưới tiêu rất quan trọng đối với những người
dân định cư tại Lưỡng Hà. Những phát kiến mới của Lưỡng Hà cịn bao gồm việc kiểm sốt nước
bằng đập và sử dụng kênh dẫn nước.Những người định cư đầu tiên ở vùng đất màu mỡ Lưỡng Hà đã sử
dụng những chiếc cày gỗ để làm mềm đất trước khi trồng cấy lúa mạch, hành, nho, củ cải, và táo.
Những người dân Lưỡng Hà cũng là một trong những người đầu tiên biết làm bia và nấu rượu.Thời tiết
khó đốn định của Lưỡng Hà là mợt trở ngại đối với những người nông dân; mùa màng thường bị thất
bát vì thế những nguồn lương thực dự trữ như bò và cừu cũng được phát triển.Nhờ khả năng trồng cấy
lương thực tài tình, những người dân Lưỡng Hà không phải phụ thuộc vào nô lệ để làm việc đồng áng,
chỉ trừ mợt số ngoại lệ nhỏ. Cũng có nhiều nguy cơ có thể gặp khi sử dụng nơ lệ (ví dụ bỏ trốn/hay nổi
loạn). Họ sống ở những vùng đất được gọi là vùng đất hình trăng lưỡi liềm màu mỡ.

Ấn Độ: cây lúa nước được xem là cây trồng chính của nhân dân Ấn Đợ. Từ khi cư dân Arya định cư ở
lưu vực sông Hằng , cư dân ở đây đã bắt đầu biết dùng ngựa và trồng lúa. Họ đã biết sử dụng công cụ
bằng đồng. Sang thời trị vì của vương triều Morya, kinh tế nông nghiệp tiếp tục được phát triển, nông
dân tự nhận ruộng đất của làng để cày cấy và phải nộp từ 1/6 đến ¼ sản phẩm, tuỳ theo chất lượng đất
và thuế được tính theo diện tích, căn cứ vào đó mà chính qùn địa phương phải nợp lên triều đình, gắn
liền với nông nghiệp là thuỷ lợi. Một viên quan thời Chandragupta được giao trọng trách đắp đập tạo
nên mợt hồ nước gần Girnar. Đập này vẫn cịn tác dụng đến 800 năm sau. Thuỷ lợi là một nhiệm vụ
quan trọng của quan chức địa phương và cũng là mợt chính sách quan trọng của nhà nước nhằm kiểm
sốt chính trị trên lãnh thổ.

Trung Quốc: nền nơng nghiệp đã rất phát triển mạnh mẽ trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc.
Ngay từ thời nhà Hạ (khoảng thế kỉ XXI-XVI TCN), cư dân Trung Quốc cổ đại đã biết sử dụng đồng
đỏ, sang đến thời nhà Thương đồng thau được sử dụng một cách phổ biến. Các nhà khảo cổ đã phát
hiện một số đồ sắt cuối thời Xuân Thu trong ngôi mộ cổ ở Hồ Nam xưa là nước Sở. Nhờ sử dụng công
cụ bằng kim loại mà sản xuất nơng nghiệp có bước phát triển đáng kể. Nước Ngô thời Phù Sai ( thế kỉ
V TCN) đã có mợt hệ thống kênh nối sơng Trường Giang với sông Hoài. Đến thời Chiến Quốc, các
công trình thuỷ lợi ngày càng nhiều hơn. Quan hệ sỡ hữu ruộng đất cũng có sự thay đổi. Từ thời Xn
Thu, chế đợ ruộng đất của nhà nước dần dần tan rã, ruộng tư xuất hiện ngày càng nhiều.


2.3

Quan hệ xa hội và thể chế chính trị:
 Quan hệ xã hội:

Sự xuất hiện chế đợ tư hữu và xã hợi có giai cấp đã ngấm ngầm vào cuối thời kì công xã thị tộc
phụ hệ khi mà năng suất lao động tăng tạo ra sản phẩm thừa, của cải tích lũy nhiều. Các gia đình tộc
trưởng tù trưởng hay các bô lão thủ lỉnh quân sự lợi dụng chức phận chiếm một phần tài sàn chi cho
các công việc chung. “Đổng thời học cũng tự cho phép mình “lĩnh’ một phần nhiều hơn những người
khác. Chẳng bao lâu học trở thành giàu hơn mọi người. Dần dần xã hợi thị tợc phân hóa thành kẻ giàu
người nghèo. Những người giàu có thì hợp thành tầng lớp q tợc chiếm hữu nhiều ṛng đất của cải,
cịn những người nghèo khó gồm đơng đảo thành viên của thị tộc bộ lạc thì bị mất dần của cải và tư
liệu sản xuất cuối cùng rơi vào tình trạng lệ thuộc tầng lớp trên và bị áp bức bóc lợt khơng khác gì nơ
lệ”[mục 3/trang 30, sách Lịch sử thế giới cổ đại Lương Ninh (Chủ biên)-NXB giáo dục]
Phương Đơng bước vào xã hợi có chế đợ tư hữu giai cấp, giai cấp tương đối sớm. Khoảng 3000
năm TCN các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc đều bước vào xã hợi có giai cấp hoặc là
11


thời kì q đợ lên xã hợi đó. Xã hợi có giai cấp đầu tiên của các nước phương Đơng là xã hội chiếm
hữu nô lệ. Gồm các giai cấp cơ bản :
Giai cấp thống trị: những chủ nô chiếm hữu nhiều tư liệu sản xuất nên trở thành giai cấp thống
trị ( gồm q tợc, vua quan). Thực chất vua chính là mợt chủ nơ lớn. Các nước phương Đơng chỉ có
mợt thành phần kinh tế chính là nơng nghiệp, nên trong giai cấp chủ nơ chỉ có mợt tầng lớp chủ nơ
nơng nghiệp, cịn gọi là q tợc thị tợc. Xu hướng chính trị của giai cấp này là muốn thiết lập chế độ
quân chủ chuyên chế tập qùn.
Giai cấp bị trị:
Nơng dân có mợt số ít tư liệu sản xuất là ruộng đất, sống cố kết trong các công xã nông
thôn( nông dân công xã). Họ là giai cấp được quyền làm người nhưng là đối tượng bóc lợt chính của

nhà nước chủ nơ qua chế đợ lao dịch, thuế khóa,..Họ bị bóc lợt nặng nề mợt bộ phận mất tư liệu sản
xuất và trở thành những người lĩnh canh hoặc làm th cho q tợc, bợ phận khác bị bần cùng hóa trở
thành nơ lệ cho các gia đình chủ nô, đền miếu,… Ngoài nông dân cư dân nghèo khổ cịn có thợ thủ
cơng và thị dân thành thị, số lượng không nhiều chiếm thiểu số trong dân cư. Họ cũng bị nhà nước chủ
nô áp bức bóc lợt.
Nơ lệ: là tầng lớp bị coi là thấp hèn trong xã hợi, thậm chí người Ai Cập cổ đại gọi họ là “Jest”
có nghĩa là con vật. Nguồn gốc của những nô lệ phần lớn là tù binh được bắt trong chiến tranh ví dụ
như ở Ai Cập đa số tù binh là người Nubi, người LiBi và các người thuộc các tộc miền Tiền Á, người
Ai cập thời cổ gọi tù binh là người bị giết cịn sống, tù binh có thể dùng để sản xuất ra sản phẩm thặng
dư khơng bị giết đi. Cịn ở Ấn Độ thời vương triều Môria (321-232 TCN), theo tập Acxactơra, thì thời
bấy giờ có thể có tới 15 loại “đasa” ( khơng những mang nghĩa nơ lệ mà cịn mang nghĩa tôi tớ nữa):
1) Nô lệ do cha mẹ là nô lệ sinh ra; 2) Nô lệ mua về; 3) Nô lệ người khác đem cho; 4) Nô lệ do kế
thừa di sản mà có; 5) Do đói khát mà phải đi làm nô lệ; 6) Do phạm tội mà bị xử phạt làm nô lệ; 7)
Người làm con tin bị xem như nô lệ; 8) Nô lệ chiến tù; 9) Nô lệ được thưởng trong các kì thi đấu; 10)
Nô lệ tự nguyện; 11) Vì bội ước mà phải làm nô lệ; 12) Nô lệ tạm thời; 13) Vì được kẻ khác nuôi nấng
cho mà phải làm nô lệ; 14) Vì lấy nữ nô mà phải làm nô lệ; 15) Bán mình làm nô lệ”. Theo luật pháp
nhà nước nô lệ không được quyền làm người, họ chỉ là một loại tài sản đặc biệt của chủ nô-tài sản biết
nói. Vì thế chủ nơ có qùn giết, đánh đập tàn phế và mua bán nô lệ mà không chịu tội trước pháp
luật. Nô lệ phải lao động khổ sai khơng có giờ giấc, khơng được hưởng mợt chút giá trị nào của cả do
họ làm ra. Đó cũng là đặc điểm chung của nô lệ thế giới cổ đại phương Đông cũng như phương Tây.
Song đặc điểm của xã hội nô lệ phương Đông là xã hội nô lệ khơng điển hình. Các Mác gọi đó là chê
đợ nô lệ gia trưởng (gia đình). Nhưng nô lệ phương Đơng khơng phải là lực lượng chính sản xuất ra
của cải vật chất. Phần lớn nô lệ được sử dụng hầu hạ, phục dịch trong các gia đình quan lại, chủ nơ
qùn q.
Ngoài sự phân hóa xã hợi có giai cấp các quốc gia cổ đại phương Đơng cịn chia cư dân thành
đẳng cấp: giai cấp thống trị là đẳng cấp q tợc cao q, giai cấp nơng dân nghèo và tầng lớp thị dân,
thợ thủ công thuộc những đẳng cấp thấp hèn. Đậm nét về việc phân chia xã hội thành đẳng cấp nhất là
12



ở Ấn Độ. Thư tịch thời sơ sử Ấn Độ( khoảng năm 1000-600TCN) đã nói về việc thần Brahma sinh ra
những tầng lớp người khác nhau, thời này có bốn tầng lớp đó là: Braman( sinh ra từ mồn) đẳng cấp
cao quí nhất được tiếp xúc với thần thánh, phụ trách về tôn giáo giảng kinh, giảng đạo. Kế đến là
Ksatria( sinh ra từ tay) có nhiệm vụ bảo vệ chế độ, thứ ba là Vaisia(sinh ra từ đùi) và cuối cùng là đẳng
cấp Suđra( từ bàn chân thần Brahma) bị khinh rẻ, thấp hèn nhất của xã hội. Ấn Đợ dưới thời vương
triều Mơrya (321-232 TCN) xã hợi cịn được chia làm 7 đẳng cấp (theo Mêgasten): các triết gia, nông
phu, mục đồng thợ thủ công, quan toà và các thành viên hội đồng. Mối quan hệ giữa các tầng lớp
khơng giống như các varna thời Veda đó là việc: “Không ai được phép kết hôn ngoài đẳng cấp hoặc
thực hành nghề nghiệp hay kỉ nghệ khác với nghề nghiệp của mình”.Ở các nước như Ai Cập, Lưỡng
Hà, Trung Quốc đều coi giai cấp thống trị là đẳng cấp cao q cịn giai cấp bị áp bức bót lợt là đằng
cấp dưới. Giai cấp cầm quyền đều đưa ra lời giải thích rằng sự phân chia này thực hiện do ý muốn của
thần thánh. Thực ra nguồn gốc đẳng cấp cũng bắt nguồn từ sự phân chia xã hội thành giai cấp. Chế độ
đẳng cấp chỉ là sự củng cố thêm địa vị và quyền lợi của giai cấp thống trị.
 Chính trị: các quốc gia cổ đại phương Đông đều xây dựng nhà nước theo thể chế “quân
chủ chuyên chế trung ương tập quyền” mọi quyền lực đều tập trung vào tay vua. Cụ thể:
Ai Cập: sau khi thống nhất đất nước đến thời Cổ vương quốc, chính quyền trung ương tập quyền
được củng cố. Đứng đầu bộ máy nhà nước chính là vua. Người Ai cập gọi là: “pharaon” được coi là
một vị thần sống. Quyền lực của pharaon là vô hạn: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp,
quyền chỉ huy quân đội, quyền sở hữu ruộng đất tối cao trong toàn quốc, đứng đầu về vương qùn và
thần qùn. Nhà vua cịn là mợt chủ nô lớn nhất chiếm nhiều ruộng đất nhất. Kẻ bề tôi ở Ai Cập được
hôn miếng đất nơi vua vừa đặt chân tới cũng là một vinh dự suốt đời. Bất cứ thường dân hay q tợc
đều phải quì lạy trước nhà vua. Q tợc muốn tâu với nhà vua điều gì đều phải cúi đầu, úp mặt sát đất
bên cạnh nhà vua chứ không được phép hôn chân nhà vua. Về sau quyền lực của pharaon bị suy yếu,
đã có mợt số q tợc sai người khắc trên mợt tảng đá, nói mợt cách tự hào rằng : khi yết kiến nhà vua y
đã được phép hôn chân vua. Tên vua cũng như tên thần là húy kị không được gọi tới, cho nên phải gọi
vua là “pharaon” nghĩa là kẻ ngự trị trong cung điện . Người ta cũng gọi pharaon là con thần Ra.
Những tên gọi đó phản ánh bản chất giai cấp của tơn giáo Ai Cập , mặt khác cũng phản ánh quyền lực
vô hạn của nhà nước chuyên chế và của nhà vua đã được người Ai Cập cổ thần thánh hóa. Sau khi vua
chết được ướp xác và chơn cất trong lịng các kim tự tháp hùng vĩ cùng hàng nghìn đồ tuỳ táng quí giá
bằng vàng. Giúp việc cho vua là một hệ thống quam lại từ trung ương đến địa phương do một Vizir như

tể tướng điều hành công việc hành chính. Dưới Vizia là mợt bợ máy quan liêu cồng kềnh gồm các quan
lại cao cấp và đông đảo các thư lại gọi là Scribes là tầng lớp người có học vấn thời bấy giờ. Ở địa
phương đơn vị hành chính lớn nhất của Ai Cập là “nom” hay châu do “nomarqu”chúa châu đứng đầu.
Chúa Châu cũng là tăng lữ, thẩm phán, người chỉ huy quân sự cao nhất địa phương. Cuối cùng, đó là
cơ sở và tế bào của xã hội: các công xã nông thôn do trưởng thôn cai quản. Chung qui lại tất cả: vua
cùng bọn q tợc quan lại và q tợc tăng lữ là chính là giai cấp thống trị trong xã hợi.
Lưỡng Hà: lịch sử Lưỡng Hà đầy rẫy những biến động, những cuộc chiến tranh giữa các tộc định cư và
du mục. Những quốc gia tối cổ của người Xume ra đời ở Lưỡng Hà đã xây dựng thiết chế chính trị
13


quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền.. Đứng đầu mỗi quốc gia của người Xume là Patêsi. Thoạt
đầu Patesi do hội đồng bầu ra, là người đại diện của tầng lớp q tợc thị tợc, dần dần Patesi trở thành
mợt chức vị có tính chất cha trùn con nối, thâu tóm trong tay mình mọi chức năng và quyền lợi:
Patesi là tầng lớp tối cao của bọn q tợc tăng lữ, là đại diện của thần dân trước thần thánh. Patêsi nắm
qùn chỉ huy qn đợi, quản lí kinh tế, coi sóc các cơng trình cơng cợng, sở hữu tất cả ruộng đất trong
một quốc gia. Dưới các Patêsi và giúp việc cho Patêsi là một hệ thống quan lại từ trung ương đến địa
phương. Đứng đầu hệ thống quan lại đó la Nubanđa( giống như Vizar ở Ai Cập) trong coi các hoạt
động kinh tế, kho tàng và thuỷ lợi. Tiếp đó là các quan lại đặc trách các công việc khác như thu thuế
các hoạt động thương mại, quân sự, kho tàng, xây dựng các công trình công cộng,..Mặc dù nhà nước
của người Xume đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn còn mang tính chất sơ khai,
những tàn dư của chế đợ dân chủ bợ lạc thị tợc cịn khá phổ biến. Sang thời kì cổ Babilon, xã hội
Lưỡng Hà phát triển thịnh đạt dưới triều vua Hamurabi. Đây là thời kì lãnh thổ vương quốc được mở
rộng nhất, toàn bộ Lưỡng Hà là mợt đơn vị kinh tế chính trị thống nhất. Thời kỳ Babilon là thời kì nhà
nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền được củng cố và phát triển hoàn thiện nhất. Đứng đầu
là vua quyền lực tối cao được nhân dân và tăng lữ thần thánh hoá thể hiện rõ trong bộ luật Hamurabi.
Bộ máy nhà nước được thiết lập đẩy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện nhất. Về hình thức nhà nước Babilon
chia thành hai khu vực khác nhau: vùng Accát và Bắc Xume là một khu vực hành chính, vùng Nam
Xume là khu vực hành chính thứ hai, vua tiếp cử tống đốc tới cai quản. Cùng với việc củng cố bợ máy
chính qùn và chính sách cai trị thích hợp, nhà vua rất quyết tâm xây dựng quân đội. Quân đội

Babilon là quân đội thường trực, do chính nhà vua chỉ huy, tướng lĩnh và quân sĩ đều được ban cấp
ruộng đất. Quân đội Babilon có tinh thần và kỉ luật nghiêm minh, được huấn luyện chiến đấu kĩ càng.
Các thời kì sau đó liịch sử Lưỡng Hà có nhiều biến đợng nhưng về cơ bản mô hình quân chủ chuyên
chế này vẫn được duy trì.
Ấn Độ: dưới chế độ nô lệ Ấn Độ cũng thiết lập nền quân chủ chuyên chế tập quyền như các quốc gia
phương Đông khác. Nhà vua nắm toàn bộ quyền lực. Vua Ấn Độ được coi như một bộ phận của thần
thánh hiện ra giúp đỡ nhân dân. Dưới nhà vua là hội đồng cơ mật “Parisát” gồm đại biểu của những gia
đình quý tộc tiếng tăm nhất. Trong bộ máy nhà nước cồng kềnh, đứng đầu là các thừa Tướng cùng
nhiều chức thượng thư trông coi các bợ. Đơn vị hành chính lớn nhất của Ấn Đợ là một nghìn làng, dưới
một nghìn làng là một trăm làng, dưới một trăm làng là hai mươi làng. Dưới hai mươi làng là mười
làng. Quan cai quản từ một nghìn làng do trung ương bổ nhiệm. Hệ thống quan chức Ấn Độ được nhà
nước trả lương, bổng. Quan cao cấp lương gấp sáu lần quan trung cấp, quan trung cấp lương gấp ba lần
quan sơ cấp. Ngoài lương các quan lại còn được phát gạo, quần áo hằng năm theo qui định. Nhà nước
chủ nô rất chú ý xây dựng lực lượng qn đợi hùng mạnh có nhiều qn binh chủng trong đó có cả
chiến xa và tượng bin, là công cụ để các triều đại Ấn Độ đàn áp nhân dân và chiến tranh thơn tính lẫn
nhau.
Trung Quốc: nhà nước cổ đại Trung Quốc mở đầu là triều nhà Hạ( thế kỉ XXI-XVIII TCN) nó chưa
thực sự vững chắc nhưng vẫn là kiểu nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền. Thủ lĩnh liên minh các
bộ lạc đã trở thành vua, ngơi vua khơng cịn được sự bầu cử của các thành viên bợ lạc mà mang tính
cha truyền con nối. Để bảo vệ địa vị của nhà vua cũng như giai cấp thống trị nhà vua cũng như của giai
14


cấp thống trị nhà Hạ đã tổ chức ra các công cụ bạo lực như quân đội, nhà tù, hệ thống quan lại,.. Bộ
máy nhà nước triều Hạ đơn giản có mợt số quan chức giúp việc cho vua như quan coi kho tàng, quan
trông coi việc chăn nuôi( mục chính), quan trơng coi xe ngựa của vua(xa chính), quan trơng coi thức ăn
cho vua( bào chính). Sau khi nhà Hạ sụp đổ nhà Thương( XVII-XII TCN) lên thay bộ máy nhà nước
quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền được củng cố hoàn thiện và vững chắc hơn. Sang thời nhà
Chu kế thừa thành quả dưới thời Thương, nhà Chu đã tiến hành xây dựng và phát triển mạnh mẽ, là
triều đại lớn nhất của Trung Quốc thời cổ đại. Cùng với việc mở rộng lãnh thổ bộ máy nhà nước được

xây dựng phức tạp. Đứng đầu nhà nước là Thiên Tử( con trời), theo mệnh trời để cai trị nhân dân. Cho
nên ý của vua, mệnh lệnh vua là ý, mệnh lệnh của trời, thần dân phải tuyệt đối phục tùng.Nhà Chu lấy
quan hệ huyết thống làm cơ sở cho việc tổ chức bộ máy nhà nước cai trị, địa vị xã hội, quyển lực quốc
gia. Quan hệ huyết thống quyết định vị trí cao thấp trong bợ máy nhà nước, trong xã hợi. Lịch sử cịn
gọi chế độ này là chế độ Tông Pháp. Dưới thời nhà Chu, dưới vua là quan vu sứ, một chức quan có
qùn lực lớn trơng coi việc bói tốn, chiêm bốc cho nhà vua. Giúp vua hiểu mệnh trời và hành sự. Vu
sứ là sứ giả nối nhà vua với trời. Sau vu sứ cịn có các chức quan khác trơng coi công việc cụ thể: quan
hi hoà trông coi thư pháp, quan quản sách trông coi văn thư, quan thủ tàng thư trong coi hồ sơ, quan đại
lý quản về tố tụng, quan bảo hành trơng coi việc ấn tín và nhiều chức quan khác.. Các triều đại Trung
Quốc đều chia quốc gia thành các đơn vị hành chính để cai trị. Nhà Chu trên cơ sở chế đô Tông Pháp
phân phong cho thân thích họ hàng những vùng đất rộng lớn lập thành những nước chư hầu. Trên toàn
quốc nước chư hầu là đơn vị hành chính lớn nhất, nhưng ở bình diện địa phương, các nước chư hầu là
vua con xưng là vương hoặc công. Các vương công nhận chức tước, ṛng đất từ thiên tử, có nghĩa phụ
phải cống nạp vật phẩm, binh lính ra sức giúp đỡ thiên tử khi có chiến tranh. Thế lực của các vương
cơng rất lớn. Khi chính qùn trung ương vững mạnh thì họ thần phục, khi yếu thì họ thực hiện tham
vọng cát cứ. Khống chế thiên tử để khống chế chư hầu, tiêu diệt lẫn nhau để bá chủ. Đó là cục diện
Xuân Thu, Chiến Quốc thời nhà Chu kéo dài suốt sáu thế kỉ VIII-III TCN.
Thể chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền không chỉ xuất hiện ở bốn trung tâm lớn là Ai Cập,
Ấn Độ, Lưỡng Hà, Trung Quốc mà cịn tại mợt số quốc gia cổ đại khác ở phương Đông.

 Nguyên nhân chế độ quân chủ chuyên chế ở phương Đông :
Ở phương đông với nền kinh tế nông nghiệp thì thuỷ lợi là vấn đề hàng đầu. Muốn như vậy phải tập
trung quyền lực vào trung ương để huy động nhân tài vật lực. Điều này là nhân tố để tạo nên chính thể
quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền.
Do nắm tư liệu sản xuất là ruộng đất nên nhà vua dùng nó ràng ḅc các thần dân và nắm trọn qùn
chính trị.Các nhà nước chiếm hữu nơ lệ phương Đơng cịn có chức năng tiến hành chiếm tranh để bảo
vệ tổ quốc, bành trướng lãnh thổ nên cần phải tập trung quyền lực vào tay vua để huy động sức người
sức của.
Ngoài ra giai cấp chủ nô ở phương Đông chỉ có mợt tầng lớp là chủ nơ nơng nghiệp mà xu hướng chính
trị là thiết lập mợt nền qn chủ chuyên chế nên chúng rất dễ dàng thực hiện điều đó vì khơng vấp phải

các tầng lớp chủ nơ đối lập chống lại như ở Hy Lạp-La Mã phương Tây.
15


Các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông với bộ máy bạo lực to lớn, cùng với việc thần thánh hố
nhà vua và chế đợ đã phục vụ đắt lực cho chủ nô, bảo vệ tài sản cho giai cấp thống trị, đàn áp các cuộc
đấu tranh khởi nghĩa của dân nghèo nô lệ.
 Tác động của nền quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền:
Các nhà nước chiếm hữu nô lệ ở phương Đông đã làm nồng cốt cho nhân dân xây dựng và phát triển
được những nền văn hố đa dạng và đợc đáo, với những thành tựu rực rỡ về chữ viết, văn học nghệ
thuật, khoa học tự nhiên, triết học,…và hàng loạt các công trình văn hố vật chất đồ sợ sống mãi với
thời gian. Những thành tựu ấy đã làm cho các quốc gia cổ đại phương Đông trở thành những trung tâm
văn minh lớn của thế giới cổ đại.
Những mâu thuẩn, bất công trong xã hội nảy sinh gay gắt giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị dẫn
đến nhiều cuộc khởi nghĩa: Trong Kinh Thi của Trung Quốc có những bài thơ miêu tả cảnh bất công
trong xã hội và lịng ốn ghét của nhân dân đối với bọn q tợc thống trị như sau:
“có kẻ thì nghỉ ngơi an nhàn; có kẻ thì suốt ngày vất vả..”
“có kẻ khơng hề nghe những lời than vãn bên ngồi; có kẻ khó nhọc thở khơng ra hơi; “ có kẻ thì nằm
mát thảnh thơ, có kẻ thì việc vua bề bộn; “ có kẻ thì chè chén vui chơi; có kẻ thì hằng buồn rầu lo sợ..”
(Tiều Nhã-Bắc Sơn)
Đời sống khổ cực của quần chúng nhân dân ở Ai Cập vào thời Trung vương quốc cũng chung tình
cảnh. Quảng đại quần chúng nhân dân chịu hai tầng áp bức bóc lợt của các pharaoh và của các chúa
châu. Đời sống khổ cực của họ được phản ánh trong các tác phẩm văn học thời bấy giờ: “Thần đói lảng
vảng quanh túp lều tranh của nông dân, lao động nhọc nhằn vẫn không đảm bảo cho học đủ sống. Mọi
người đều nhằm tước đoạt những sản vật của họ như gạo, thóc, lừa, ngựa. Người ta đánh đập họ
không chút thương tiếc. Người ta cấm họ khóc la, và nếu họ có đi thưa kiện thì họ cũng không đâu tìm
ra công ly”. Mâu thuẩn giai cấp ngày một gay gắt, kết quả là những cuộc khỏi nghĩa nổ ra người ta biết
đến những c̣c khởi nghĩa qua những tài liệu cịn lưu lại, nhưng đa phần những tài liệu này còn rất ít
ỏi.
Vì Ai cập cổ đại chỉ có tầng lớp q tợc quan lại mới biết chữ, mà họ thì khơng muốn ghi lại các c̣c

phản loạn ấy nếu có thì cũng bằng những lời lẽ hằn học và phỉ báng những người khởi nghĩa. Chẳng
hạn như tác phẩm : “lời khuyên bảo của Ipuxe” và “lời tuyên đoán của Nêpéctuy” đã ghi lại rằng: “
người ta phá phách cung điện các cung điện nhà vua, người ta xục xạo vào những nơi bí mật để thiêu
huỷ hồ sơ, sổ sách của các quan tư pháp tài chính, đạc điền”...”những người bạo động thậm chí cịn
bắt trói nhà vua đem đi” và cuối cùng tác giả kết luận: “Những kẻ tôi tớ trở thành những người chủ
nhà”. Ở Lưỡng Hà, bức tranh về phong trào phản kháng của quần chúng lao khổ ở Xume còn mờ nhạt,
chỉ còn sử liệu ghi lại không chi tiết về phong trào đấu tranh của thợ thủ công, nông dân công xã và nô
lệ ở quốc gia thành thị Lagas, lật đổ quyền lực của patêsi tàn bạo, đưa Urucagina lên ngôi, thực hiện
một số cải cách có lợi cho người nghèo khổ. Ở Trung Quốc, nhân dân nước Trịnh lánh đến miền đầm
16


lầy Giai Bộ để tổ chức cuộc phản kháng chống giai cấp thống trị. Binh sĩ nước Sở khởi nghĩa ở biên
giới, đuổi vua Sở vào trong rừng.
Vào những năm cuối cùng trước công nguyên hoặc những năm đầu công nguyên,; nhìn chung các quốc
gia cổ đại phương Đông đều kết thúc hình thái xã hội chiếm hữu nô lệ và lần lượt chuyển sang xã hội
phong kiến.

2.2

Văn hoá:

Chữ viết của các nước phương Đông ra đời sớm đa phần là chữ tượng hình, kí hiệu, có thể cùng
đồng thời với sự ra đời nhà nước. Các nhà Ai Cập học cho rằng chữ viết Ai Cập có từ 4000 năm TCN.
Đó là loại chữ tượng hình viết trên đá, trên xương, trên lá cây, trên các lăng mộ. Người ta tìm được 700
kí hiệu và 24 dấu hiệu phụ âm của chữ Ai Cập cổ. Ở Lưỡng Hà 3000 năm TCN chữ tiết hình ra đời ở
Lưỡng Hà. Chữ cỗ Ấn Độ là chữ Phạn và chữ Pali. Ở Trung Quốc thời Hạ, Thương, Chu đã có chữ
tượng hình giáp cốt, chữ kim văn, chữ tiểu triện là nền tảng của chữ Hán sau này.
Sự ra đời của chữ viết gắn liền với sự ra đời của thành tựu văn học, nghệ thuật như thể loại
truyện kể bằng văn xuôi ở Ai Cập, Lưỡng Hà, sử thi đồ sộ của Ấn Độ: Mahabharata dài 220.000 câu kể

lại cuộc chiến tranh giành quyền lực tàn khốc của dòng họ Bharata. Thơ phương Đông ra đời sớm và
phong phú nhiều thể loại. Các bộ sử thi thật ra cũng là những tập thơ đồ sợ. Đáng chú ý thời này có thơ
ca của Ai Cập hay Kinh Thi của Trung Quốc tổng hợp thơ từ thời Tây Chu đến thời Xuân Thu mà chỉ
có 305 bài chắt lọc tinh hoa của thơ ca cổ đại bao gồm phong( ca dao), nhã( thơ của q tợc, tụng( thơ
ca ngợi các triều đại). Nền nghệ thuật phương Đông thật phong phú với âm nhạc réo rắt mê ly, nhạc cụ
độc đáo phong phú, những điệu múa uyển chuyển rung động trên từng bộ phận cơ thể con người đều
toát lên vẻ đẹp bất tử.
Phương Đơng là nơi phát triển của các mơn tốn học: hình học của người Ai Cập, số học của người Ai
Cập và Ấn Độ. Ấn Độ là quê hương của chín chữ số và chữ số 0. Người Trung Quốc tính được số Pi
chính xác đến số thập phân thứ 106. Với người Ai Cập số pi bằng 3,1418. Người phương Đông đã quan
tâm nghiên cứu đến vũ trụ và đạt được những kiến thức uyên bác về thiên văn học. Người Ấn Đợ nắm
được ngụt thực, biết tính các mùa trong năm,.. Người Trung Quốc còn biết được sự vận hành của sao
chổi, ghi chép được 800 vì tinh tú, trong số đó ngày nay người ta khám phá được 120 ngôi sao. Các
nước phương Đông đạt trình độ cao về giải phẩu cơ thể người, biết châm cứu biết dùng thảo dược để
chữa bệnh. Kỹ thuật ướp xác rất cao của người Ai Cập và người Trung Quốc đã nói lên trình đợ giải
phẩu và sử dụng dược liệu rất cao của người xưa, họ đã tạo ra những xác ướp tồn tại đến hàng nghìn
năm sau.
Có thể nói bao trùm lên đời sống cư dân nơng nghiệp phương Đơng là niềm tin tín ngưỡng và
các sinh hoạt văn hố dân gian. Tín ngưỡng là cợi nguồn của lễ hội. Lễ hội vừa là dịp tiến hành các
nghi lễ có tính ma thuật để cầu xin thần linh giúp đỡ, xua đuổi tà ma, vừa là dịp để người dân vui chơi
giải trí.

17


Trong số các loại tín ngưỡng tồn tại ở phương Đông, phổ biến nhất là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.
Điều này hoàn toàn có cơ sở bởi sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ở thời kì sơ khai khi khoa
học kĩ thuật chưa phát triển, gần như tất cả đều phụ thuộc vào thiên nhiên, vào ý Trời. Vì vậy, ở khắp
nơi, từ Đông Bắc Phi-Tây Á đến lưu vực sông Hoàng Hà rộng lớn v.v. đâu đâu người ta cũng thờ cúng
các vị Thần liên quan đến sản xuất nông nghiệp như: Thần Osiris( Ai Cập), Thẩn Nước, Thần Mặt Trời,

Thần Sơng,..
Gắn liền với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là hàng loạt các lễ hội nông nghiệp như lễ hội té nước, lễ hội
cầu mưa, cầu nắng, hội đua thuyền, lễ tịch điền, lễ hội mừng được mùa...Ngoài tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên là tín ngưỡng phồn thực. Với ý nghĩa phồn là nhiều, thực là nảy nở, tín ngưỡng này mang triết lý
sống điển hình cho cư dân nông nghiệp luôn hướng tới sự sinh sôi nảy nở, ước mong duy trì và phát
triển sự sống.
Tơn giáo giữ vai trị rất quan trọng trong đời sống tin thần của cư dân phương Đơng. Nó cũng là
cơng cụ để thần thánh hố nhà vua và bảo vệ chế độ. Ở Ai Cập, mặc dù hình thành từ rất sớm nhưng
trong một thời gian dài vẫn giữ lại nhiều tín ngưỡng tơn giáo ngun thuỷ. Vì thế họ thờ rất nhiều vị
thần khác nhau: thần Ra, thần Sobek( thần cá sấu), thần Osiris,thần Montou(thần chim ưng), thần
Ptah(thần sáng tạo ra vũ trụ và con người),....Với cư dân Lưỡng Hà, họ theo đa thần giáo. Mỗi quốc gia
đều có thần chủ của mình. Người Uruc thờ thần Anu, Eridu thờ thần Eaua, người Lưỡng Hà còn thờ
nhiều thần khác như: Thần Tammu(vị thần của lòng nhân ái mùa màng), Thần Negan( thần địa ngục),
Nữ Thần Iara-Thần mẹ( thần bảo hộ nông nghiệp và sinh sản). Ấn Độ là quê hương của nhiều tôn giáo:
Bà La Môn, Phật giáo, ngoài ra cịn có đạo Sikh, đạo Jain. Mợt nét đặc sắc của tơn giáo Ấn Đợ đó là sự
kết hợp giữa triết học và tôn giáo, mặt dù đây là hai lĩnh vực khác nhau.
Phương Đông cũng là nơi phát sinh những tư tưởng triết học lớn dù là duy tâm hay duy vật mà
tinh hoa là triết học cổ đại Ấn Độ và Trung Quốc. Triết học duy vật khẳng định thế giới tồn tại bởi:
kim, thuỷ, mộc, hoả, thổ. Thế giới là sự thống nhất giữa hai mặc đối lập âm dương.,..những tư tưởng
triết học cổ đại Trung Hoa thường gắn với những tư tưởng chính trị lớn đương thời như: phái Nho Gia
do Khổng Tử(551-479TCN) sáng lập, là mợt tư tường chính trị nổi bật. Khổng Tử chỉ ra ra rằng quan
hệ chính trị đạo dức là mối quan hệ chính trị cơ bản trong xã hội. Nho giáo là một trong những nguyên
nhân quan trọng khiến chế độ phong kiến Trung Quốc tồn tại lâu dài trong lịch sử. Mặc Gia do Mặc
Tử(479-381 TCN) sáng lập không được giai cấp thống trị sử dụng nhưng tư tưởng này mang đầy tính
nhân văn con người, Pháp Gia do Lão Tử (giữa thời Xuân Thu) sáng lập thiên về triết học duy vật
nhiều hơn, đề cao sự thanh tịnh vơ vị thốt tục để vui thú vui tiên cảnh hơn là gắn với đời sống thực tại
của con người.
Nhà nước ra đời gắn liền với sự ra đời của pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị
được nâng lên thành qui phạm pháp luật, mượn bàn tay cưỡng chế của nhà nước để buộc toàn dân phải
thực hiện. Như vậy pháp luật là nhu cầu của bản thân nhà nước. Những tư tưởng pháp luật xuất chúng

như tư tưởng nhân trị của Khổng Tử, Pháp Trị của Hàn Phi Tử. Đặc biệt là bộ luật Hammurabi là bộ
luật hoàn chỉnh nhất của luật pháp phương Đông cổ đại. Những tư tưởng của các bợ luật trên đã có vai
trị to lớn trong lịch sử pháp chế phương ĐôngCác quốc gia cổ đại phương Đông cũng đã để lại bề dày
18


những giá trị văn hố vật chất, các cơng trình kiến trúc đền đài, lăng miếu chùa, tháp,…như Kim Tự
Tháp( Ai Cập), vườn treo Babilon( Lưỡng Hà), Vạn Lý Trường Thành( Trung Quốc),..
Xuất phát từ đặc điểm riêng vô cùng thuận lợi về địa lý của các nước phương Đông, các quốc
gia cổ đại phương Đơng đã bắt đầu có ý thức về việc mở rộng giao lưu buôn bán với nhau thông qua
đường thuỷ lẫn đường bộ, nổi bật là con đường tơ lụa nối Trung Quốc với Ai Cập và các nước Cận
Đông. Qua việc giao lưu kinh tế, sự giao thoa về văn hoá bắt đầu xuất hiện, những cái hay cái đẹp bắt
đầu triền bá cho nhau và rất nhanh chóng chúng được tiếp nhận và phổ biến ra các khu vực khác. Ví dụ
như Phật Giáo xuất phát ở Ấn Đợ nhưng nó vẫn có mặt ở Trung Quốc, Xrilanka, Đông Nam Á.Nho
giáo không chỉ có mặt ở Trung Quốc mà cịn ở Việt Nam. Những thành tựu về tốn học của người Ấn
Đợ được người Ả-rập học hỏi và tryền bá sang Châu Âu. Trong sự phát triển rực rỡ của văn minh
phương Đông không chỉ là sự tự thân phát triển của mỗi quốc gia mà đó cịn là “ sự giao thoa” giữa các
trung tâm lớn của nhân loại.
“Tóm lại phương Đơng cổ đại có nền văn hố rực rỡ phong phú về giá trị văn hoá tinh thần giá
trị văn hoá vật chất. Các giá trị văn hoá này phát triển đỉnh cao và ảnh hưởng đến các khu vực xung
quanh. Nghĩa là văn hố phương Đơng cổ đại đã đạt đến trình độ văn minh mà bốn trung tâm lớn là Ai
Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ. ”.[trang 37, nguyên văn sách Phác thảo lịch sừ thế giới].

3. Kết luận
Bất kì sự vật hiện tượng nào cũng có cơ sở hình thành, quá trình phát triển rồi sau đó lụi tàn. Có tồn tại
những mâu thuẩn dai dẳng trong xã hội chiếm hữu nô lệ mới xảy ra đấu tranh, có đấu tranh thì mới
xuất hiện mợt hình thái kinh tế xã hội mới. Nhưng chúng ta khẳng định chắc rằng ngay từ thời cổ đại
chính các quốc gia cổ đại ở phương Đông mới là các nôi của nền văn minh nhân loại chứ không phải
phương Tây. Với cơ sở kinh tế là nông nghiệp lúa nước, cư dân phương Đông đã , nhà nước được xây
dựng chế độ quân chủ trung ương tập quyền, bước vào xã hợi có giai cấp từ rất sớm,.. tất những điều

đó đã tạo cơ sở kinh tế chính trị xã hợi vững chắc cho các nước phương Đông. Mặc dù qua bao nhiêu
thăng trầm của lịch sử các quốc gia cổ đại phương Đông như Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc vẫn tồn tại
đến ngày nay, những giá trị văn minh vẫn cịn lưu giữ và lan toả rợng khắp. Điều đó như nhắc nhở con
người về cợi nguồn, q khứ rực rỡ của cha ông.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách :
1. Cao Văn Liên (Biên soạn), 2010 : Phác thảo lịch sử thế giới, NXB Thanh Niên.
2. Chiêm Tế (Biên soạn),2000: Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
3. Đỗ Anh Thơ (Sưu tầm, biên soạn), 2012: Văn minh các dòng sông lớn trên thế giới, NXB
Lao động Xã hội.
4. Thôi Liên Trọng (Chủ biên), 2002: Lịch sử thế giới cổ đại (tập 1), NXB TPHCM.
5. Shijie Congshiu, 2009: Những nền văn minh thế giới, NXB Văn Học.
6. Lương Minh (Chủ biên), 2012: Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục Việt Nam.
7. Lê Phụng Hoàng (Chủ biên), 2011: Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo Dục Việt Nam.
8. Will Durant, 2002: Lịch sử văn minh Trung Hoa, NXB Văn Hố Thơng Tin.
9. Trịnh Huy Triều, 2004: Xác ướp Ai Cập- những bí ẩn của Ai Cập cổ đại-NXB Trẻ.

Website :
1. />2. />3. />
20



×