Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.67 KB, 26 trang )

1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
---o0o---

BÀI THU HOẠCH
MÔN: XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Họ và tên học viên: Đỗ Ngọc Anh
Mã học viên: AF210061
Lớp: A02
Khóa học: K72

HÀ NỘI - 2021


i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
I. Quan điểm về tập trung dân chủ ..................................................................... 2
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tập trung dân chủ.................. 2
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tập trung dân chủ 3
II. Nội dung và bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ .............................. 6
1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ................................. 6
2. Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ ............................................. 7
III. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ của Đảng ............................................................................................. 11


1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng............... 11
2. Nguyên nhân ........................................................................................ 15
3. Một số giải pháp thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
............................................................................................................................. 17
4. Đề xuất một số giải pháp đảm bảo thực hiện tốt công tác tập trung dân
chủ tại Đảng bộ Trường Đại học Mở Hà Nội........................................................ 20
KẾT LUẬN......................................................................................................... 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 24


1
MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trên cơ
sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính đảng kiểu mới của giai
cấp cơng nhân và thực tiễn cách mạng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ thứ X
của Đảng xác định năm nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng: tập trung dân
chủ; tự phê bình và phê bình; đồn kết thống nhất; Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Trong năm nguyên tắc trên, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Cùng với xây dựng Đảng về chính trị và
tư tưởng, nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm tăng cường sự đoàn kết nhất trí
trong nội bộ Đảng, làm cho Đảng trở thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có
sức chiến đấu cao, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức Đảng và
đảng viên.
Vì là nguyên tắc tổ chức cơ bản nên nguyên tắc tập trung dân chủ luôn là
mục tiêu tấn cơng của kẻ thù hịng phá vỡ sự đoàn kết, thống nhất của Đảng.
Chúng cho rằng các Đảng Cộng sản là chuyên quyền, độc tài; ra sức cổ xuý, tán
dương, kích động các đảng thực hiện đa nguyên chính trị, dân chủ cực đoan.

Chúng lên án nguyên tắc tập trung dân chủ, địi xố bỏ ngun tắc này.
Học viên lựa chọn đề tài “Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu với mong muốn tìm hiểu rõ về nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Đảng, phân tích thực trạng và đề xuất một số giải
pháp đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng và
chỉnh đốn Đảng hiện nay.


2
NỘI DUNG
I. Quan điểm về tập trung dân chủ
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tập trung dân chủ
Tư tưởng về xây dựng một đảng vô sản trên cơ sở của nguyên tắc tập
trung dân chủ đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đưa vào Điều lệ Liên đoàn những
người cộng sản. Liên đoàn được xây dựng trên nguyên tắc dân chủ triệt để, các
cơ quan lãnh đạo của Đảng được bầu ra, có thể bị thay thế hoặc bãi miễn; đảng
viên đều được tự do thảo luận những vấn đề sinh hoạt đảng, tranh luận trong
khn khổ tính đảng, …, người vi phạm Điều lệ Đảng sẽ bị khai trừ hoặc đình
chỉ sinh hoạt đảng; kiên quyết chống những phần tử vô tổ chức, những phần tử
cơ hội, xét lại... Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đã nhấn mạnh dân chủ
phải thống nhất với tập trung, bộ phận phải phục tùng toàn thể, thiểu số phải
phục tùng đa số và hai ông chủ trương thực hiện chế độ trung ương tập quyền và
là nhiệm vụ của một Đảng cách mạng.
Trong hoạt động thực tiễn, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu cao tấm gương
đấu tranh có tính nguyên tắc để củng cố sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức
của các tổ chức vô sản, kiên quyết chống bọn cơ hội, xét lại và những người
không tôn trọng, chấp hành kỷ luật của Đảng. Tại Hội nghị Luân Đôn của quốc
tế thứ nhất, hai ông đã khai trừ Bacunin, một kẻ cơ hội, vơ chính phủ, mưu toan
biến Đảng thành một tổ chức bí mật, hẹp hòi của những người đầy âm mưu.
Trong điều kiện lịch sử mới, kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph. Ăngghen
Lênin đã xây dựng, luận chứng và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ làm

nguyên tắc tất yếu trong xây dựng và hoạt động của đảng cách mạng của giai
cấp công nhân. Thuật ngữ “tập trung dân chủ” được nêu lên lần đầu tiên với tích
cách là một nguyên tắc chính thức, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng tại Hội
nghị Tammécpho của những người Bơnsêvích (1905). Nghị quyết nêu rõ: Thừa
nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc không thể tranh cãi được
và cần phải thực hiện nguyên tắc bầu cử rộng rãi các trung tâm lãnh đạo. Các cơ
quan này có đủ mọi quyền hạn trong việc lãnh đạo tư tưởng, thực tiễn. Các cơ


3
quan đó phải báo cáo các hoạt động của mình một cách thật cơng khai, chặt chẽ
và có thể bị bãi miễn. Nguyên tắc tập trung dân chủ được chính thức đưa vào
Điều lệ trong Đại hội IV của Đảng (1906) đã khẳng định: “Tất cả các tổ chức
Đảng đều được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ”. Đến Đại hội VIII
(1919) khẳng định nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo kết cấu tổ
chức của Đảng từ nay về sau.
Tư tưởng về tập trung dân chủ của C. Mác - Ph. Ăngghen và V. I. Lênin
trở thành nguyên tắc nền móng cho việc xây dựng Đảng ở Nga và được các
Đảng trong Quốc tế III thừa nhận. Một điều kiện quan trọng để ra nhập Quốc tế
III là Đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Không tuân
thủ nguyên tắc này thì khơng cịn là một Đảng mácxít.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tập trung dân chủ
Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh ln
trung thành với tư tưởng của C. Mác - Ph. Ăngghen và V. I. Lênin về nguyên tắc
tập trung dân chủ và sáng tạo, bổ sung, phát triển tư tưởng đó trong tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động của Đảng cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trình độ dân trí của Việt Nam.
Khi Đảng ta ra đời, Hồ Chí Minh đã áp dụng ngay nguyên tắc tập trung
dân chủ trong xây dựng Đảng. Trong các Văn kiện được thông qua tại Hội nghị
hợp nhất (2/1930) do Người soạn thảo làm thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng

đã xác định: “Bất cứ về vấn đề nào đảng viên đều phải hết sức thảo luận và phát
biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi
hành”. Mặc dù không sử dụng thuật ngữ “tập trung dân chủ” nhưng đây chính là
nội dung cốt lõi nhất của ngun tắc này.
Trong báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội II của Đảng (2/1951), khi
bàn về các vấn đề cơ bản đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Về tổ chức, Đảng Lao động Việt Nam theo chế
độ dân chủ tập trung”. Nhưng bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ được
Hồ Chí Minh luận giải tồn diện nhất trong cuốn “Thường thức chính trị”


4
(1953). Tại đó, Người dành một mục để nói về chế độ dân chủ tập trung của
Đảng và khẳng định: “Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp, tổ chức thống nhất
lại theo một nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung”. Như
vậy, tập trung dân chủ là ngun tắc chỉ đạo tồn bộ cơng tác tổ chức, sinh hoạt
và hoạt động của Đảng, là ngun tắc cơ bản nhất có ý nghĩa sống cịn của
Đảng.
Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng, từ lịch sử phát triển của phong trào Cộng sản và công
nhân quốc tế đã khẳng định vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ đối
với việc xây dựng và hoạt động của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc tập trung dân
chủ mang bản chất của giai cấp công nhân. Giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc
này là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trên lĩnh
vực tổ chức. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “Tập trung dân chủ
là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính Đảng kiểu mới của các giai cấp
công nhân, Đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác. Phủ nhận
nguyên tắc này là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất. Đảng chống tập trung
quan liêu, độc đoán, chuyên quyền song triệt để tuân theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Chỉ có thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ mới có thể vừa chống

được bè phái, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng. Chỉ có như
vậy, Đảng mới có sức mạnh và sức chiến đấu”.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo tồn bộ và
xun suốt q trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sức mạnh tổ chức của Đảng, năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng phụ thuộc quyết định vào nguyên tắc này. Đồng thời,
nguyên tắc này cũng quy định việc xây dựng cơ cấu, hình thức tổ chức của
Đảng, thiết lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy của Đảng làm
cho Đảng trở thành một chỉnh thể đồng bộ, thống nhất có tổ chức chặt chẽ, kỷ
luật nghiêm minh, đoàn kết thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.


5
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các chế độ để chỉ đạo việc giải
quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Đó là mối quan hệ tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới thực hiện vô điều kiện
nghị quyết của cấp trên. Giữa cá nhân với tổ chức, giữa địa phương với Trung
ương… giải quyết tốt các mối quan hệ đó thì mọi đường lối, chủ trương, chính
sách, chỉ thị của Đảng được thực hiện một cách triệt để, nhanh chóng và chính
xác, tránh được tình trạng “trên phát” nhưng “dưới không động” dưới làm nhưng
trên không biết, ỷ lại trơng chờ vào trên hay “khốn trắng” cho cấp dưới, công
việc không biết giao cho ai “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”. Như vậy, hiệu
quả lãnh đạo, chỉ đạo sẽ bị hạn chế. Thực hiện tốt tập trung dân chủ sẽ bảo đảm
cho Đảng là một “guồng máy” chặt chẽ, thống nhất, có kỷ luật tự giác, nghiêm
minh.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các nguyên tắc, chế độ trong sinh
hoạt Đảng và phương pháp tác phong lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng
vừa giữ vững được nguyên tắc, vừa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, vừa tập trung được trí tuệ và sức
mạnh của toàn Đảng.

Hiện nay, Đảng ta là Đảng cầm quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, thời cơ và thách
thức đan xen nhau, nhiệm vụ chính trị của Đảng cũng có những bước phát triển
mới, song Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Từ thực tiễn xây dựng, hoạt động của phong trào Cộng sản và công nhân
quốc tế và của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta khẳng định: Thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng và hoạt động của Đảng là tất yếu
khách quan, là cơ sở vững chắc bảo đảm cho Đảng đứng vững trong sự nghiệp


6
lãnh đạo đất nước. Khơng thể có sự tồn tại vai trò lãnh đạo của một Đảng Cộng
sản, nếu Đảng đó từ bỏ, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.
II. Nội dung và bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ
1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nguyên tắc tập trung dân chủ, ngay từ khi ra đời, trong Điều lệ Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản của Đảng. Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo

tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê
bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu
số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các
tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi
có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết,
mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại
biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu


7
xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số.
- Tổ chức Đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình,
song khơng được trái với ngun tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
2. Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ
Ở những Đảng khác nhau, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, tùy theo điều
kiện cụ thể và những nhiệm vụ đặt ra cho Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ
được thực hiện theo những cách khác nhau. Nhưng có một điều chung là khi
Đảng trở thành Đảng cầm quyền việc ngày càng phát triển dân chủ trong nội bộ
Đảng về chiều sâu và chiều rộng gắn liền với việc củng cố, tập trung và kỷ luật
của Đảng là một xu hướng chủ yếu.
Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ phản ánh thuộc tính bản chất
của giai cấp cơng nhân. Như chính bản thân công thức đã chỉ rõ, tập trung dân
chủ thể hiện sự thống nhất của hai thành tố tập trung và dân chủ. Sự thống nhất

đó khơng phải là ngẫu nhiên. Nó được quy định bởi những nhân tố khách quan
của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản giành quyền thống trị về
chính trị và bởi việc Đảng của giai cấp công nhân cần phải lãnh đạo cuộc đấu
tranh đó và đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng.
Tập trung nghĩa là Đảng phải có một Cương lĩnh chung và được đảng các
đảng viên cộng sản thừa nhận, là Cương lĩnh hành động phải tuân theo đối với
mọi người; nghĩa là trong Đảng có một Điều lệ thống nhất, thể hiện những tiêu
chuẩn sinh hoạt đảng mà tất cả mọi tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải tuân
theo. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo tất cả các tổ chức đảng, lãnh đạo
công tác của Đảng do một trung tâm thực hiện là Đại hội đại biểu toàn quốc và
giữa hai kỳ Đại hội là Ban Chấp hành Trung ương. Các nghị quyết của Đảng là
biểu hiện ý chí của tồn Đảng, bắt buộc các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên
phải thi hành. Tập trung địi hỏi phải có một kỷ luật thống nhất, bao gồm việc
thực hiện Cương lĩnh và Điều lệ, việc tuân theo những tiêu chuẩn sinh hoạt


8
Đảng, ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng. Do đó, tập trung trong Đảng
khơng những là uy quyền của tư tưởng, mà còn là uy quyền của quyền lực, do
các cơ quan Đảng và những người lãnh đạo các cơ quan đó thể hiện. Đó là sự
thừa nhận sức mạnh của sự lãnh đạo thống nhất và thừa nhận rằng mọi người
đều bắt buộc phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Tập trung là điều kiện cần
thiết cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của một Đảng vô sản.
Tập trung trên cơ sở dân chủ là tập trung trên cơ sở trí tuệ, sức mạnh của
đa số mà thiểu số phải phục tùng khác với tập trung quyền lực của thiểu số giai
cấp bóc lột bắt quần chúng nhân dân lao động phải thực hiện. Tập trung trên cơ
sở dân chủ nhằm xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột, thực hiện và bảo vệ lợi ích của
Đảng, của chế độ và của nhân dân lao động, khác với tập trung nhằm duy trì chế
độ bóc lột, bảo vệ chế độ áp bức bóc lột. Tập trung gắn liền với cấp dưới, với cơ
sở, chịu sự kiểm tra, quyết định của cơ sở, khác với tập trung nhằm trấn áp dưới,

thoát ly cơ sở, thoát ly dân chủ, cản trở bóp nghẹt dân chủ.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa các Đảng Cộng sản hoạt động trong những
điều kiện phức tạp, thường là bất hợp pháp hay nửa hợp pháp đã buộc phải có
một tinh thần kỷ luật tối đa, phải hết sức giữ bí mật, phải có tinh thần chấp hành
cao. Trong điều kiện Đảng cách mạng của giai cấp vơ sản hoạt động cơng khai,
nó cũng thường xuyên phải chịu sự tác động của những giai cấp và những thế
lực chống đối, những phần tử bất mãn, lạc hậu, khi đó chỉ có một tổ chức tập
trung đồn kết vững chắc, được tơi luyện về tư tưởng mới có thể đối chọi lại lực
lượng đó để thực hiện mục tiêu đề ra. Sau khi đã giành được chính quyền, Đảng
Cộng sản rất cần đến nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng phải gánh vác những
nhiệm vụ hết sức khó khăn và phức tạp: xây dựng lại xã hội, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, hoàn thiện những quan hệ xã hội, hình thành
con người mới. Chỉ có một đảng thống nhất, đồn kết, có tổ chức và kỷ luật, mới
có thể thực hiện được vai trị là đội tiên phong chính trị có tổ chức của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới.


9
Đảng là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập. Sức mạnh của Đảng là
do tính tích cực, tự giác của đảng viên. Chỉ khi nào đảng viên tự thảo luận và
giải quyết tất cả mọi vấn đề, kể cả việc hình thành các cơ quan lãnh đạo của họ,
thì tính tích cực của đảng viên Cộng sản mới có thể được phát huy. Chỉ khi dân
chủ trong Đảng được thực hiện tốt thì mới có thể giáo dục đảng viên Cộng sản
trở thành những chiến sĩ tiên phong của Đảng.
Đảng của giai cấp cơng nhân cần có dân chủ không phải chỉ để tổ chức
đúng đắn sinh hoạt nội bộ của Đảng và hoạt động bình thường với tư cách là
một tổ chức xã hội độc lập. Là một tổ chức dân chủ, Đảng mới có thể tranh thủ
được nhân dân lao động, lãnh đạo và dẫn dắt họ thực hiện những nhiệm vụ cách
mạng, cải tạo xã hội. Quần chúng ngày càng tín nhiệm Đảng nhiều hơn khi họ

thấy rằng trong việc sinh hoạt nội bộ, bản thân Đảng cũng nghiêm chỉnh tuân
theo những tiêu chuẩn dân chủ.
Nếu vấn đề dân chủ trong Đảng đã đặc biệt quan trọng trong thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền, thì sau khi Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo trong xã
hội, càng có ý nghĩa quan trọng hơn, Đảng đặt cho mình mục tiêu xây dựng xã
hội - xã hội chủ nghĩa, trong đó dân chủ, tức là tồn bộ quyền lực của nhân dân,
sẽ được thực hiện dưới một hình thức đầy đủ nhất. Do đó, khi nắm quyền lãnh
đạo đất nước, Đảng góp phần phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đến mức
tối đa, Đảng vạch ra những hình thức và phương pháp bảo đảm cho tất cả mọi
nhóm dân cư tham gia vào quản lý Nhà nước, tham gia sinh hoạt xã hội - chính
trị và sinh hoạt kinh tế của đất nước.
Chỉ khi nào bản thân Đảng thực hiện những nguyên tắc dân chủ thì lúc đó
Đảng mới có thể giải quyết thành cơng nhiệm vụ lôi cuốn mọi công dân tham
gia quản lý cơng việc của xã hội, phát huy tính tích cực của họ trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Dân chủ là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm sinh hoạt bình thường
của Đảng, để phát huy tính tích cực của đảng viên. Khơng có dân chủ thì Đảng
khơng thể thực hiện thành cơng vai trị lịch sử của mình là đội tiên phong, là


10
lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động, là người
tổ chức cơng cuộc xây dựng xã hội mới.
Dân chủ trong Đảng về nguyên tắc đó là quyền lực của đảng viên, là sự
tham gia của toàn thể đảng viên Cộng sản vào việc quản lý công việc của Đảng
một cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua những đại biểu của họ vào việc hoạch
định đường lối, chính sách của Đảng, việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của
Đảng. Nhưng chỉ trong điều kiện có tính tổ chức cao, có kỷ luật chặt chẽ, thừa
nhận sự lãnh đạo thống nhất thì đảng viên mới có thể thực hiện có kết quả quyền
lực và quyền hạn của mình.

Dân chủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ là dân chủ có lãnh đạo, có mục
đích và hướng tới sự tập trung, nó trái với dân chủ cực đoan, dân chủ vơ chính
phủ. Mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng phải trên cơ sở tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Dân chủ dựa trên sự bình đẳng, thống nhất mục tiêu, lợi ích khác với
dân chủ dựa trên sự bất cơng, bất bình đẳng mang bản chất của chế độ áp bức
bóc lột. Dân chủ trong Đảng là dân chủ thuộc về đa số buộc thiểu số phải phục
tùng nhằm để xoá bỏ chế độ bóc lột, khác với dân chủ chỉ thực sự với tầng lớp
quý tộc, với giai cấp tư sản chiếm thiểu số trong xã hội còn đối với quần chúng
nhân dân lao động thì chỉ là hình thức. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung
nhằm tạo ra sức mạnh bằng sự đoàn kết, tập trung, thống nhất, hồn tồn khác
với dân chủ vơ chính phủ, vơ tổ chức tạo ra sự chia rẽ, bè phái, bản vị cục bộ địa
phương, phá vỡ sự đoàn kết tập trung, thống nhất trong Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung
và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của
một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập
trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Thực hiện và phát
huy dân chủ trong Đảng phải gắn liền với giữ vững, tăng cường tập trung và
ngược lại. Trên cơ sở thống nhất và tác động biện chứng giữa hai yếu tố đó thì
dân chủ ngày càng phát triển, tập trung càng vững chắc. Nhận thức và thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ phát huy và làm tăng cường sức mạnh của


11
Đảng. Khi tập trung trên cơ sở dân chủ thì càng thúc đẩy, cổ vũ cho dân chủ có
chất lượng hơn. Còn dân chủ hướng tới tập trung, đi tới sự thống nhất thì dân
chủ thực sự có mục đích, có chất lượng. Nếu tập trung cao mà dân chủ bị hạn
chế tức là tập trung không dựa trên cơ sở dân chủ, đó là tập trung quan liêu, hình
thức. Ngược lại, nếu mở rộng dân chủ mà không hướng tới sự tập trung là dân
chủ vô tổ chức, vô kỷ luật, dân chủ phường hội chứ không phải dân chủ theo
ngun tắc của Đảng, do đó cũng khơng bảo đảm dân chủ.

Nguyên tắc tập trung dân chủ chính là điều kiện đảm bảo cho tổ chức
đảng cố kết về mặt tổ chức, thống nhất ý chí, thống nhất hành động; đồng thời,
phát huy sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của mọi đảng viên và tổ chức đảng.
Nghiên cứu bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ chúng ta nghiêm khắc phê
phán quan điểm sai trái cho rằng: nguyên tắc tập trung dân chủ là sự gán ghép
hai nguyên tắc “tập trung” và “dân chủ”, đó là sự gán ghép hai yếu tố có xu
hướng đối lập nhau, từ đó quy kết bản chất của Đảng ta là thiếu tập trung thống
nhất, lẫn lộn giữa tập trung trên cơ sở dân chủ với tập trung quan liêu, giữa dân
chủ có lãnh đạo với dân chủ vơ tổ chức, vơ chính phủ.
Bảo vệ, tn thủ ngun tắc tập trung dân chủ là đòi hỏi khách quan đối
với các Đảng Cộng sản nói chung, Đảng ta nói riêng, nhất là trong tình hình hiện
nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng - lãnh tụ chính trị, đội tiên
phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh mới ngày
nay, chúng ta phải hiểu và thực hiện nguyên tắc dân chủ một cách đúng đắn,
khơng máy móc, giáo điều, nắm vững những nội dung cơ bản của nguyên tắc.
III. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ của Đảng
1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của
Đảng ta. Quá trình phát triển của Đảng gắn liền với việc Đảng kiên trì và từng
bước cụ thể hố, thể chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhờ thực hiện
nguyên tắc này, Đảng ta giữ vững và phát triển được tổ chức, đảm bảo sự thống


12
nhất ý chí và hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng. Ngay từ khi
thành lập năm 1930, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: tổ
chức của Đảng phải “Tổ chức theo lối dân chủ tập trung” và “bất cứ vấn đề nào
đảng viên phải hết sức thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì
tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi hành”. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự

nghiệp cách mạng của dân tộc và xây dựng Đảng, từ lúc Đảng chưa giành được
chính quyền, đến khi Đảng giành được chính quyền và trong giai đoạn hiện nay,
Đảng đang lãnh đạo sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước, Đảng ta ln khẳng
định tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của
Đảng. Nhờ vậy, trải qua thử thách khắc nghiệt, Đảng ln giữ được đồn kết,
thống nhất, trong Đảng khơng hình thành các bè phái, tệ độc đốn chun quyền
vì sùng bái cá nhân.
Trong q trình vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, Ban chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, nhiều cấp uỷ và tổ chức Đảng ở các cấp đã có nhiều
cố gắng trong việc thực hiện nguyên tắc; tăng cường hơn chế độ tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách; chế độ kiểm điểm công tác theo định kỳ; tiến hành kiểm
tra, phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, góp
phần thực hiện có kết quả các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng…
mà nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đã đề ra đã coi trọng cụ thể hoá và thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ trong tập thể lãnh đạo khi
thảo luận và ra quyết định; xây dựng và thực hiện các quy chế theo hướng mở
rộng dân chủ, công khai, minh bạch.
Mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đều được thảo luận, lấy
ý kiến của đảng viên và tổ chức đảng từ cơ sở lên. Sinh hoạt của các cấp uỷ và
tổ chức đảng được tiến hành dân chủ, cởi mở hơn, các cấp uỷ viên mạnh dạn
trình bày ý kiến của riêng mình; tăng cường các hình thức giao ban, hội nghị
chuyên đề, hội thảo, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ chủ chốt với đảng viên và
nhân dân. Việc thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong Đảng và
trong xã hội được tăng cường hơn; việc bầu cử trong Đảng, các đoàn thể và cơ


13
quan dân cử, cũng như trong phong cách lãnh đạo của Đảng có tiến bộ. Dân chủ
trong cơng tác tổ chức và cán bộ, đánh giá, tuyển chọn, đề bạt cán bộ được tiến
hành công khai, dân chủ tập thể hơn. Công tác cán bộ được thực hiện theo

nguyên tắc tập trung dân chủ.
Khi chỉ đạo giải quyết các vụ việc cụ thể, cấp bách, trong toàn Đảng, nhất
là cơ quan lãnh đạo cao cấp, đã có sự thống nhất cao độ, tạo điều kiện tập trung
nguồn lực giải quyết dứt điểm, không kéo dài, ổn định đời sống nhân dân. Chính
giải quyết tốt những mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung, Đảng Cộng sản Việt
Nam vẫn giữ vững và củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của mình đối với tồn
xã hội, xứng đáng là trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc.
Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, song, việc nhận thức và thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng vẫn còn chưa thật sự nghiêm túc,
diễn biến phức tạp, những biểu hiện vi phạm nguyên tắc này vẫn cịn khá phổ
biến, dưới những hình thức tinh vi. Một số cán bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ,
địa phương, kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ nghĩa rất nặng.
Tình trạng phổ biến hiện nay là dân chủ mang tính hình thức, dân chủ
một chiều, khơng ít nơi tập thể chỉ là “bình phong” để hợp thức hố ý chí người
đứng đầu, thực chất là tập trung quan liêu, độc đoán, gia trưởng. Do dân chủ
hình thức nên khơng phát huy được vai trị năng động, sáng tạo và trí tuệ của cán
bộ, đảng viên làm cho đảng viên khơng muốn đóng góp ý kiến, ngại đấu tranh,
khi quá bất bình thì viết thư nặc danh, mạo danh hoặc lôi kéo, bày cho quần
chúng đấu tranh…
Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức
của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm
chí cịn vi phạm”. Ngun tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng. Việc
thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, cịn có biểu hiện “nhẹ trên,
nặng dưới”. Đặc biệt nghiêm trọng là một số cấp ủy địa phương, cơ sở, nhân
danh tập thể ra nghị quyết trái với nghị quyết cấp trên, vi phạm chính sách, pháp


14
luật của Nhà nước hoặc không đúng thẩm quyền. Không ít nơi bí thư vượt quyền

thường trực, thường trực vượt quyền thường vụ, thường vụ vượt quyền ban chấp
hành. Một tình trạng khá phổ biến là quan hệ phục tùng một chiều: cấp trên chỉ
thị cho cấp dưới; cấp dưới phục tùng cấp trên mà khơng có điều kiện để đề đạt ý
kiến của mình một cách có hiệu quả. Có một số trường hợp cấp trên để cấp dưới
đề đạt ý kiến hoặc lấy ý kiến cấp dưới, nhưng đó cũng chỉ là hình thức vì mọi
chủ trương đã được quyết định từ trước rồi. Khơng ít trường hợp cấp dưới đã
quyết định một vấn đề, nhưng cấp trên có ý kiến khác đi, cho dù ý kiến đó chưa
được nghiên cứu kỹ, cấp dưới cũng đành thay đổi theo, khơng dám có ý kiến lại.
Một biểu hiện nữa thường thấy là khi đại biểu cấp trên đến dự sinh hoạt hay
thăm cấp dưới thì can thiệp quá sâu vào những công việc lẽ ra phải để cho cấp
dưới quyết định.
Trong điều hành có cả tình trạng né tránh trách nhiệm, dựa dẫm tập thể,
thiếu quyết đoán, trách nhiệm khơng rõ ràng, kể cả sự độc đốn, lạm dụng quyền
hành người lãnh đạo. Hậu quả tùy thuộc vào tinh thần trách nhiệm và tương
quan về năng lực của người đứng đầu với tập thể lãnh đạo. Cán bộ chính quyền,
đoàn thể tham gia cấp uỷ chưa phát huy hết vai trị, nặng về cơ cấu, khơng đáp
ứng được u cầu công tác Đảng, sự lãnh đạo chung của cấp uỷ.
Trong công tác tổ chức - cán bộ, cơ chế và cách làm chưa cho phép phát
hiện kịp thời, chính xác các cán bộ có năng lực và triển vọng để đưa vào cơ quan
lãnh đạo, thay thế cán bộ hạn chế về năng lực và uy tín, mặc dù khơng có sai
phạm đến mức phải xử lý.
Một số khơng ít cán bộ lãnh đạo, quản lý không tự giác, khép mình vào kỷ
luật của tổ chức Đảng, độc đốn, chuyên quyền, sống xa dân, thiếu trách nhiệm
trong công việc, nặng về chủ nghĩa thành tích, báo cáo khơng đúng sự thật, tư
tưởng cá nhân, kèn cựa địa vị nặng nề, gây ra mất đoàn kết nội bộ. Nhiều đảng
viên thiếu tính tiên phong gương mẫu, thụ động trước các biểu hiện tiêu cực.
Công tác kiểm tra tiến hành không đều, có cơ quan thẩm quyền xem xét, xử lý
kỷ luật đảng kéo dài, khơng ít vụ việc khơng xử lý gây bất bình, phẫn nộ trong



15
nhân dân, khơng có ý nghĩa ren đe, giáo dục đảng viên đương chức, đương
quyền. Những nguyên nhân dẫn đến sai phạm trong nhận thức và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
2. Nguyên nhân
2.1. Nguyên nhân khách quan
Trên phạm vi quốc tế, sau khi Liên Xô và Đông Âu xã hội chủ nghĩa sụp
đổ, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, một số Đảng Cộng sản ở các nước hoặc
là ít nói đến hoặc là từ bỏ, “vượt qua” nguyên tắc tập trung dân chủ. Bọn đế
quốc, phản động các loại liên tục tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
tìm mọi cách đánh vào nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm phá vỡ sự đoàn kết
thống nhất của Đảng, làm tan rã, phân liệt Đảng về mặt tổ chức. Mấy năm gần
đây, chúng càng dấn tới phản kích điên cuồng và quyết liệt vào nguyên tắc tập
trung dân chủ, vu cáo các Đảng Cộng sản là độc đoán, chuyên quyền. Chúng tán
dương, cổ xuý các đảng thực hiện đa nguyên chính trị, dân chủ cực đoan,
khuyến khích trong đảng có nhiều quan điểm khác nhau, có nhiều phe nhóm đối
lập. Trước tình hình đó, có người trong đội ngũ chúng ta muốn đặt lại vấn đề,
phê phán, lên án, thậm chí có người cịn địi xố bỏ nguyên tắc tổ chức thiết yếu
này.
Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một
nước kinh tế lạc hậu, bị xé nhỏ, phân tán, tự cung tự cấp. Trong đời sống xã hội
còn ngự trị tư tưởng, tập quán, tác phong, lề lối của người sản xuất nhỏ; tính tự
tư tự lợi, thiển cận, cục bộ địa phương, đố kỵ, cá nhân chủ nghĩa, bè phái theo
kiểu phường hội, vv… Tất cả những cơ sở kinh tế - xã hội đó là mảnh đất dung
dưỡng các động thái tiêu cực của cả dân chủ và tập trung, chi phối, nhất là cán
bộ lãnh đạo cơ sở, năng lực thực hành dân chủ, thống nhất, đoàn kết trong Đảng.
Mặt khác, nước ta chìm trong xã hội phong kiến quá lâu, nên sự ảnh
hưởng của chủ nghĩa phong kiến chuyên chế và chế độ gia trưởng còn nặng nề,
truyền thống dân chủ chưa có, đó chính là nguyên nhân lịch sử sâu sắc, hạn chế
triển khai trên thực tế nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng.



16
Do trình độ của một số cán bộ cịn hạn chế, bản thân nguyên tắc tập trung
dân chủ lại có biểu hiện phong phú, phức tạp, địi hỏi phải thích ứng nhanh với
những biến đổi của tình hình, trong lãnh đạo bộc lộ sự yếu kém, thụ động, đối
phó vận dụng ngun tắc một cách khơng tồn diện dẫn đến sai phạm. Một số
quy định, quy chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở giai đoạn trước, nay
đã lạc hậu, chậm được nghiên cứu bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình và
yêu cầu mới.
Việc tổng kết thực tiễn về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chưa
thường xuyên và nghiêm túc. Chưa có những quy định cụ thể, cần thiết mang
tính pháp quy phù hợp với từng lĩnh vực, từng ngành, từng cấp, từng nơi.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
Về mặt lý luận, nhiều cán bộ, đảng viên chưa làm rõ bản chất, nội dung
của nguyên tắc, phê phán các nhận thức lệch lạc, giản đơn. Trong vấn đề này,
công tác lý luận tỏ ra tụt hậu, khơng có tác dụng soi sáng, góp phần giải quyết
nhiều khía cạnh mới mà cuộc sống đặt ra.
Về nhận thức, cấp uỷ và lãnh đạo ở một số đơn vị cũng như nhiều cán bộ,
đảng viên chưa nắm vững được tinh thần cơ bản của nguyên tắc tập trung dân
chủ, thiếu tơn trọng nó. Việc xây dựng quy chế làm việc cịn hình thức, xác định
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác giữa cấp uỷ và lãnh đạo đơn vị
khơng rõ ràng, dẫn đến tình trạng chồng chéo, bị động và khơng phát huy được
vai trị của tổ chức Đảng.
Chủ nghĩa cá nhân thực dụng, ích kỷ vụ lợi đang có chiều hướng phát
triển, biểu hiện dưới nhiều hình thức hết sức tinh vi. Vì động cơ cá nhân không
trong sáng người lãnh đạo thường nhấn mạnh tập trung, ngại mở rộng dân chủ
hoặc tìm cách để làm cho dân chủ chỉ là hình thức, nhưng trước những việc khó
lại ngại trách nhiệm, dựa dẫm vào tập thể hoặc đùn đẩy cho người khác. Chủ
nghĩa cá nhân với những động thái mn vẻ của nó chính là ngun nhân chính,

tạo ra nguy cơ thối hố biến chất của đảng cầm quyền. Trong điều kiện chủ


17
nghĩa cá nhân lộng hành thì khơng thể có dân chủ và tập trung theo đúng nghĩa
của nó, nguyên tắc tập trung dân chủ chắc chắn bị tha hoá, biến dạng.
Năng lực thực hành dân chủ của đảng viên, cán bộ khơng cao, có nơi đảng
viên khơng biết cách bảo vệ lợi ích chính đáng của mình có thể thực hiện được
những quyền gì. Có một số cán bộ, đảng viên khơng chịu khó vươn lên trong
học tập, rèn luyện nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của mình. Thậm chí nhiều
cấp uỷ viên, bí thư chi bộ chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng. Do
vậy, kiến thức và nghiệp vụ công tác Đảng rất hạn chế. Mối quan hệ giữa tập
trung và dân chủ giải quyết không tốt, một số nơi việc bố trí bí thư cấp ủy chưa
tương xứng với nhiệm vụ được giao và thường bị “lép vế” so với thủ trưởng đơn
vị…
Tất cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan nay, một mặt gây trở
ngại, khó khăn, từ đó đi đến mơ hồ trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc cơ
bản trong sinh hoạt Đảng, quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
thời gian qua, ở mức độ nhất định, đã làm cho nó biến dạng, tạo ra một khoảng
chênh khá lớn giữa lý luận và thực tiễn. Vì vậy, việc nhận diện đúng bản chất và
nội dung, đề ra các giải pháp để thực hiện nguyên tắc này ở các cấp, các tổ chức
đảng đang là một vấn đề cấp bách, một nội dung trọng yếu trong toàn bộ công
tác xây dựng Đảng.
3. Một số giải pháp thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ gắn liền với các điều kiện
thực tế khách quan, các quan hệ nội tại trong Đảng và các nhiệm vụ chính trị đặt
ra. Trước hết cần khẳng định rằng, cho đến nay, xét từ nhiều phương diện khác
nhau, nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn là nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong
tổ chức và sinh hoạt Đảng, còn giữ nguyên giá trị dẫn đường cho Đảng ta tiến
lên phía trước. Đây là vấn đề có tính ngun tắc.

Hiện nay, tình hình thế giới, trong nước đã có những thay đổi, đất nước ta
đã bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhiệm vụ đặt ra
đối với Đảng ta thật sự mới mẻ và hết sức nặng nề. Trong bối cảnh đó, chúng ta


18
không thể và không nên thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ theo kiểu cũ,
máy móc, cứng nhắc, lệch lạc, giáo điều. Nguyên tắc tập trung dân chủ cần phải
được hiểu đúng và thực hiện đúng trong điều kiện mới, theo tinh thần mới của tư
duy lý luận.
Để thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong giai đoạn hiện
nay các tổ chức đảng cần phải quán triệt và thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức thống nhất trong toàn Đảng về nguyên tắc
tập trung dân chủ; làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tình hình mới, đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đây là cơ sở bảo đảm cho nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện
đầy đủ, có hiệu quả. Phải quán triệt để mọi cán bộ, đảng viên có nhận thức sâu
sắc về vị trí, vai trị, nội dung, bản chất và những quy định cụ thể trong thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ. Trước hết cần tập trung nâng cao nhận thức trong
toàn đảng về quyền và trách nhiệm của mỗi đảng viên, tổ chức đảng; phương
pháp giải quyết các mối quan hệ nội bộ Đảng; chỉ rõ những biểu hiện vi phạm,
những nhận thức lệch lạc thường gặp trong thực hiện nguyên tắc.
Hai là, cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và chế
độ trách nhiệm của người đứng đầu. Xây dựng và bổ sung các quy định, quy chế
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận
hành, lề lối làm việc của hệ thống tổ chức đảng và người đứng đầu. Những vấn
đề thuộc quyền quyết định của tập thể phải bàn bạc, quyết định theo đa số, mọi
thành viên phải chấp hành quyết định của tập thể. Phát huy vai trò của người

đứng đầu trong tổ chức thực hiện các quyết định của tập thể tổ chức đảng; chống
độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng hay dựa dẫm, ỉ lại, bao biện, làm thay.
Nội dung nguyên tắc phải được cụ thể hoá thành những điều lệ, quy chế,
quy định thực hiện. Trước hết phải bảo đảm các quyền của đảng viên, nhất là
quyền được cung cấp thông tin, quyền được thảo luận; quyền được chất vấn, phê


19
bình trong phạm vi tổ chức. Quy định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và
phê bình. Cơ quan lãnh đạo các cấp phải chịu sự giám sát của các tổ chức đảng
và đảng viên; chịu trách nhiệm trước cấp trên, cấp dưới về hoạt động của mình
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Ba là, giữ vững chế độ sinh hoạt định kỳ của các cấp ủy, tổ chức đảng.
Phải thường xuyên duy trì việc thực hiện các chế độ nề nếp sinh hoạt của
các cấp ủy, tổ chức đảng, chú trọng cải tiến việc tổ chức và điều hành hội nghị
theo hướng mở rộng dân chủ, khuyến khích tranh luận thẳng thắn; tơn trọng, tập
hợp và xem xét, tiếp thu ý kiến đúng đắn của đảng viên và các cấp uỷ viên. Khi
có ý kiến khác nhau phải thảo luận kỹ, đối với những vấn đề quan trọng phải
biểu quyết; khi cần phải điều tra, khảo sát làm thí điểm rồi kết luận rõ ràng.
Bốn là, nâng cao chất lượng phê bình và tự phê bình trong tồn Đảng.
Quy định cụ thể thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình; chống cách
làm hình thức, chiếu lệ, khơng sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê
bình. Xử lý nghiêm khắc những người có thái độ trấn áp, trù dập người phê bình
hay lợi dụng tự phê bình và phê bình để tâng bốc, nịnh hót cũng như vu cáo, đả
kích cá nhân, gây mất đoàn kết nội bộ.
Năm là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ.
Quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ
chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức. Cấp ủy, tổ chức đảng
có thẩm quyền phải chủ trì và chịu trách nhiệm công tác tổ chức cán bộ theo

đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; xác định rõ trách nhiệm
của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu
trong công tác cán bộ. Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai minh
bạch trong công tác cán bộ. Đổi mới và hoàn thiện chế độ bầu cử thực hiện bầu
cử có số dư, mở rộng quyền tiến cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án
nhân sự trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ.


20
Sáu là, nâng cao chất lượng quản lý, rèn luyện đội ngũ đảng viên.
Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật; tự giác
đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia sinh hoạt đầy đủ, tuân thủ kỷ luật
Đảng. Không để một đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức. Mọi cán
bộ, đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, không được tuyên truyền ý kiến
riêng trái với nghị quyết. Xử lý nghiêm minh mọi hành động vô tổ chức, vô kỷ
luật, không chấp hành Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, gây chia rẽ, bè phái
trong Đảng. Thường xuyên sàng lọc đảng viên, kiên quyết đưa những người
không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng bằng các hình thức thích hợp.
Bảy là, ở những nơi có biểu hiện mất đồn kết thì cấp uỷ cấp trên phải
trực tiếp chỉ đạo việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình.
Từng đảng viên có trách nhiệm kiểm điểm, chỉ rõ trách nhiệm của tập thể,
nhất là người đứng đầu; trường hợp mất đồn kết nghiêm trọng thì phải thay
ngay cán bộ chủ chốt và có hình thức xử lý thích đáng với người có liên quan.
4. Đề xuất một số giải pháp đảm bảo thực hiện tốt công tác tập trung dân chủ tại
Đảng bộ Trường Đại học Mở Hà Nội.
Hiện nay, Học viên đang là đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ Liên đơn vị,
Đảng bộ Trường Đại học Mở Hà Nội.
Từ khi được thành lập đến nay, Đảng bộ trường Đại học Mở Hà Nội luôn
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định trong Điều lệ Đảng.
Chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt thường kỳ và trong cuộc họp

đánh giá, xếp loại chi bộ, đảng viên hằng năm được thực hiện nghiêm túc.
Những tồn tại, hạn chế của cá nhân và tập thể đã được Đảng ủy Trường và các
chi ủy, chi bộ phát hiện, chỉ ra kịp thời, giúp đảng viên sửa chữa, khắc phục từ
đó ngày một tiến bộ hơn. Kết quả đánh giá, phân loại đảng viên hằng
năm đúng thực chất. Trong tổ chức và hoạt động, từng đảng viên cũng như tập
thể Đảng bộ luôn chấp hành nghiêm túc Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của
Đảng; chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng.... Đến nay, trong
Đảng bộ khơng có tình trạng đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà


21
nước, khơng có tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”... Những kết quả thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức, hoạt động của từng chi bộ đã góp phần quan trọng xây dựng
Đảng bộ Trường Đại học Mở Hà Nội trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động
của chi bộ vẫn còn một số mặt hạn chế như: Việc nghiên cứu, tham gia góp ý
cho một số văn bản của một số đảng viên cịn ít; trong sinh hoạt Đảng, cịn có
đảng viên chưa mạnh dạn trong phát biểu và góp ý phê bình… Ngun nhân của
những hạn chế nêu trên là do một số đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về
nguyên tắc tập trung dân chủ và trách nhiệm của bản thân trong thực hiện; cịn
có do tâm lý e ngại, nể nang…
Để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức và hoạt động, trong thời gian tới, Đảng bộ Trường Đại học Mở Hà Nội cần
phải thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức cho đảng viên về nguyên tắc tập trung dân
chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ có nội dung và phạm vi áp dụng rất rộng, có
nhận thức đúng mới thực hiện đúng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ thời gian qua là do
có đảng viên nhận thức chưa đầy đủ về nguyên tắc này. Để nâng cao nhận thức

cho đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng bộ cần tổ chức cho đảng
viên học tập nắm vững các Quy định, Hướng dẫn của Trung ương Đảng về thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Với thế mạnh về công nghệ đào tạo trực tuyến, Đảng bộ Trường có thể
giao Ban Giám hiệu chỉ đạo xây dựng các học liệu điện tử và khóa học trực
tuyến mang tính tương tác, giúp đảng viên có thể trau dồi kiến thức và kỹ năng
mọi lúc, mọi nơi. Các khóa học trực tuyến có tính tương tác cao sẽ giúp cho
đảng viên không bị nhàm chán trong việc tiếp thu, qua đó nâng cao hiệu quả của
hoạt động. Sau khóa học, có thể sử dụng các bài tập tình huống, bài tập trắc
nghiệm để giúp đảng viên tự đánh giá nhận thức của mình.


22
Hai là, phát huy dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ
luật trong hoạt động của Đảng bộ. Đảng bộ phải phát huy mạnh mẽ dân chủ
trong sinh hoạt, trước hết là bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là
quyền được thông tin, thảo luận, chất vấn, phê bình, bảo lưu ý kiến…Đồng thời,
cùng với việc mở rộng dân chủ, phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong hoạt
động của Đảng bộ, không để bất cứ ai lợi dụng dân chủ, lợi dụng quyền phê bình
để bơi nhọ, hạ thấp uy tín của đồng chí mình, gây mất đồn kết nội bộ. Đảng ủy,
các chi ủy và đảng viên phải chấp hành các quy định của Đảng, nói và làm theo
nghị quyết của Đảng.
Ba là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ
trách. Chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách là nội dung quan
trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ, cần cụ thể hóa chế độ tập thể lãnh đạo đi
đơi với cá nhân phụ trách bằng quy định cụ thể, để vừa giữ vững chế độ lãnh đạo
tập thể, vừa tăng cường mạnh mẽ trách nhiệm cá nhân.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ủy Trường đối
với việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của các chi bộ và đảng viên. Xử
lý nghiêm minh, kịp thời những đảng viên, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập

trung dân chủ.
Năm là, chú trọng truyền thơng rộng rãi về vai trị, nội dung cũng như
những vấn đề liên quan đến nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh
hoạt Đảng bằng nhiều hình thức phong phú. Định kỳ và thường xuyên có cái bài
viết về những thành tựu của Đảng bộ, những tấm gương tiêu biểu của chi bộ và
các đảng viên đăng tải trên chuyên môn của website Trường, ưu tiên các sản
phẩm truyền thơng mang tính trực quan như video, infographic…


23
KẾT LUẬN
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nội dung của
nguyên tắc rất phong phú, phản ánh sâu sắc bản chất giai cấp công nhân của
Đảng. Tập trung dân chủ là một nguyên tắc thống nhất trong đó hai mặt tập
trung và dân chủ quan hệ biện chứng với nhau, tác động cùng chiều với nhau,
tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải đi đôi với tập trung. Coi nhẹ
hoặc vi phạm một trong hai mặt tập trung hoặc dân chủ đều phá vỡ nguyên tắc
tập trung dân chủ, chuyển sang các hiện tượng tiêu cực, trái với nguyên tắc tập
trung dân chủ, như: tập trung quan liêu, độc đoán, hay tình trạng phân tán, dân
chủ vơ chính phủ…Tùy tình hình, nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ, cách
thực hiện và phạm vi áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ là có sự khác nhau,
nhưng điều đó khơng có nghĩa coi tập trung hay dân chủ là chính cịn mặt kia là
phụ.
Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ là yêu cầu khách
quan, bảo đảm cho Đảng ln ln là một khối đồn kết thống nhất, phát huy
được trí tuệ, sức mạnh, để Đảng đủ sức lãnh đạo hệ thống chính trị và tồn xã
hội thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa cách mạng đi đến thành công.
Thực hiện không tốt, hạ thấp, xa rời, từ bỏ nguyên tắc đều làm suy yếu Đảng,
thậm chí rất nguy hại. Chính vì vậy, xây dựng và chỉnh đốn Đảng phải gắn liền
với thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là một q trình lâu dài,

là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cơ sở, trách nhiệm của
mọi cán bộ, đảng viên, của mọi cấp, mọi ngành.


×