ĐỀ TÀI
Phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh để xây dựng tinh thần đồn kết
của Sinh viên đại học Bách Khoa Hà Nội
Trang mới nhé
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên cho chúng em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường Đại Học Bách
Khoa Hà Nội đã tạo điều kiện để sinh viên chúng em có một mơi trường học tập thoải mái về cơ
sở hạ tầng cũng như cơ sở vật chất.
Chúng em xin cảm ơn khoa Lý luận Chính trị đã giúp chúng e được mở mang tri thức về
tư tưởng Hồ Chí Minh, một tư tưởng hết sức quan trọng, đóng vai trị quyết định đối với vân
mệnh nước nhà. Qua đó chúng em có thể nhận thức một cách đầy đủ và tồn diện cuộc đời, sựu
nghiệp, những đóng góp và vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với toàn thể dân tộc Việt Nam
.
Chúng em xin cảm ơn Cơ đã hướng dẫn để nhóm chúng em hồn thành tiểu luận này. Hi
vọng thơng qua những nỗ lực tìm hiểu của tất cả thành viên, nhóm sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn
tinh thần đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh để qua đó vận dụng, xây dựng tinh thần đoàn kết
của Sinh viên đại học Bách Khoa Hà Nội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống tư tưởng rộng lớn và bao quát mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xây dựng nên trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình. Vậy nên những giới hạn về
kiến thức và thời gian, trong qúa trình tìm hiểu, nhóm khơng tránh khỏi thiếu sót, mong Cơ tận
tình đóng góp để chúng e hồn thiện hơn nữa những kiến thức của mình.
Chúng e xin chân thành cảm ơn ạ !
MỤC LỤC
……………………………………..
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí minh, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, người sáng lập, lãnh đạo
và rèn luyện Đảng cộng sản Việt nam. Toàn bộ cuộc đời của Người dành cho sự nghiệp cách
mạng Việt nam. Trong số các di sản Người để lại cho dân tộc ta có đại đồn kết - một tư
tưởng nổi bật, bao trùm, xuyên suốt, nhất quán cả trong tư duy lý luận và thực tiễn của Người.
Tư tưởng Đại đoàn kết đã trở thành tình cảm, suy nghĩ của mọi người Việt Nam yêu nước, là
sợi dây liên kết cả dân tộc và tạo nên sức mạnh to lớn, đưa tới thắng lợi vẻ vang của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam độc lập hoàn toàn, đất nước Việt Nam thống
nhất trọn vẹn năm 1975.
Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy cao độ, trở thành
động lực của công cuộc đổi mới CNH, HÐH đất nước. Ðại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược, là bài học lớn của cách mạng nước ta.
Ở bài tiểu luận này, chúng em xin được chọn đề tài là “Vận dụng tư tưởng đại đồn kết
dân tộc của Hồ Chí Minh vào xây dựng tinh thần đoàn kết trong sinh viên Đại học Bách
Khoa Hà Nội” để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về sự quan trọng và sức mạnh của đại đoàn kết
dân tộc nói chung và đồn kết trong sinh viên Đại Học Bách Khoa Hà Nội nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề đại đoàn kết dân tộc, cũng như tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề này. Đánh giá đất nước hiện nay và đưa ra phương pháp xây dựng tinh
thần đoàn kết cho sinh viên đại học Bách Khoa Hà Nội
Việc hiểu rõ và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đưa ra phương pháp xây dựng tinh
thần đoàn kết cho sinh viên đại học Bách Khoa Hà Nội là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa
hết sức to lớn.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đại đoàn kết dân tộc là một vấn đề rộng. Bài tiểu luận chỉ nghiên cứu một số nội dung của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, cũng như đi sâu vào phân tích và đồng thời đưa ra
phương pháp vận dụng tư tưởng nào vào sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên đại học
Bách Khoa Hà Nội nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng phương pháp lịch sử kết hợp với
logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế, khảo sát và tổng kết thực tiễn,...
Trang mới
Tư tưởng Hồ Chí Minh
I,Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết
quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình
thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân
tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa MácLênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách
mạng.
1.1. Nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam.
Dân tộc ta hình thành, tồn tại và phát triển suốt bốn ngàn năm lịch sử, gắn liền với yếu tố cố
kết cộng đồng dựng nước và giữ nước.
Để tồn tại và phát triển, dân ta phải chống thiên tai, thường xuyên và liên tục, trị thủy các con
sông lớn, cải tạo xây dựng đồng ruộng, trồng lúa nước.
Văn minh nơng nghiệp trồng lúa nước chính là văn hóa tạo ra sự cấu kết cộng đồng của những
người cùng sống trên một dải đất, có chung một kiểu sinh hoạt kinh tế, cùng một tâm lý.
Nghĩa là cố kết thành dân tộc. Mặt khác, dân ta phải thường xuyên đương đầu với các thế lực
ngoại bang hung bạo. Để chiến thắng dân ta phải xiết chặt muôn người như một, chống xâm
lược tạo nên truyền thống đoàn kết quý báo của dân tộc.
Yêu nước, nhân nghĩa, trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với XH, lấy
dân làm gốc, coi trọng lòng khoan dung độ lượng, hịa hiếu, khơng gây thù ốn, cố kết cộng
đồng đã trở thành tình cảm tự nhiên của mỗi con người Việt Nam.
Khái quát tình cảm tự nhiên, ca dao viết: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “Bầu ơi thương lấy
bí cùng. Tuy là khác giống nhưng chung một giàn".
Truyền thống đó được nhân lên thành triết lý nhân sinh: "Một cây làm chẳng lên non. Ba cây
chụm lại nên hòn núi cao”, “Thuận vợ thuận chồng tát biển đơng cũng cạn”, “Đồn kết thì
sống, chia rẽ thì chết”.
Chủ nghĩa yêu nước cố kết cộng đồng và triết lý nhân sinh, được khái quát thành tư duy chính
trị, phép ứng xử của con người trong tình làng nghĩa nước: "Nước mất thì nhà tan, giặc đến
nhà thì đàn bà cũng đánh".
Từ tư duy chính trị nâng thành phép trị nước: “Khoan thư sức dân làm kế sâu gốc bền rễ giữ
nước” (Trần Hưng Đạo), “Tướng sĩ một lòng phụ tử” (Nguyễn Trãi). Việt Nam xuất hiện khái
niệm "đồng bào".
Bác tổng kết: "Dân tộc ta có một lịng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và cướp nước...".
1.2. Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng đồn kết trong kho tàng văn hóa nhân loại.
Bác gạn đục khơi trong, tiếp thu tư tưởng đại đồng, nhân ái, thương người như thương mình,
nhân, nghĩa, trong học thuyết Nho giáo.
Tiếp thu tư tưởng lục hòa, cư xử hòa hợp giữa người với người, cá nhân với cộng đồng, con
người với môi trường tự nhiên của phật giáo (năm điều cấm: nói dối, sát sinh, tà dâm, uống
rượu, trộm cướp).
Tiếp thu tư tưởng đồn kết của Tơn Trung Sơn, nhất là Chủ nghĩa Tam dân, chủ trương đồn
kết 400 dịng học người Trung Quốc, khơng phân biệt giàu nghèo, chống thực dân Anh, chủ
trương liên Nga, dung Cộng, ủng hộ công nông.
1.3. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào
cách mạng Việt Nam và thế giới.
a/ Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ
Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại
nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tơi đồng
lịng, anh em hịa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là
thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa u nước, truyền thống đồn kết của dân tộc trong
chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi
nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1 5 , thực dân háp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu nước , chống
pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được
những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong
việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý
do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà ồng ra đi tìm đường cứu nước.
b/ Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo nghiệm
thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:“Các dân tộc thuộc địa
tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân
tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các
nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành cơng đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt
quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân chủ cho nhân
dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu
một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý
báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài
học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng cơng nơng binh đơng đảo để
giành và giữ chính quyền cách mạng.
1.4. Tiếp thu quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết lực lƣợng trong cách
mạng XHCN.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người
sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành
dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa
Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lênin cho rằng, sự
liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết sức cần thiết,
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. ằng nếu khơng có sự đồng tình và ửng hộ
của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vơ sản, thì cách
mạng vơ sản khơng thể thực hiện được.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự
đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống,
trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách
mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
1.5. Yếu tố chủ quan của Hồ Chí Minh
Là người có lịng u nước thương dân vơ bờ bến, trọng dân, tin dân, kính dân, hiểu dân, trên
cơ sở nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Người ln chủ trương thực hiện dân quyền, dân
sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy người được dân yêu, dân tin, dân kính phục.
Đó chính là cơ sở của mọi tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng đại đoàn
kết của Người.
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1. Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách
mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX bị thất bại có phần nguyên nhân sâu xa là cả nước khơng đồn kết được thành một khối
thống nhất. Người thấy rằng muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng
đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách
mạng phải thực hiện đại đồn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc.
Do đó, đồn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho
thắng lợi của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, nó là một tư tưởng
cơ bản, nhất quán và xun suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi
lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu
tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.
Hồ Chí Minh đi tới kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao
động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách mạng vô sản. Người đã
vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt
Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó người quan tâm nhiều đến vấn đề lực
lượng cách mạng và phương pháp cách mạng.
Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý:
Đồn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”.
Đoàn kết là điểm mẹ: “Điều này mà thực hiện tốt thì sẽ đẻ ra con cháu đều tốt…”
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức mạnh của
cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong”. Đồng thời, người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều
tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tơn giáo, do đó phải đồn kết nhân dân vào Mặt trận thống nhất.
Để làm được viếc đó, Người u cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn,
phù hợp giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản
của nhân lao động, làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, khơng thương dân thì
khơng thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đơng ấy ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Trong Lời kết thúc
buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn bộ Đảng
tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng lao động Việt Nam gồm trong 8 chữ:
ĐOÀN KẾT, TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền
núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: “Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là
đoàn kết. Hai là cách mạng hay kháng chiến để giành đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thơi. Bây giờ
mục đích tun huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ba là đấu
tranh thống nhất nước nhà”.
Đại đồn kết dân tộc khơng phải chỉ là mục tiêu, mục đích hàng đầu của Đảng mà cịn là
mục tiêu, mục đích hàng đầu của cả dân tộc. Như vậy, đại đồn kết dân tộc chính là địi hỏi
khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự
nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, những đòi hỏi tự giác thành thực hiện có tổ chức,
thành sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh
phúc cho con người.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tưởng Hồ Chí Minh vấn đề Dân và Nhân dân được đề cập một cách rõ ràng , tồn
diện, có sức thuyết phục, thu phục lịng người. Các khái niệm này có nội hàm rất rộng. Hồ Chí
Minh dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu
Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với khơng tín
ngưỡng, khơng phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”. Như vậy, DÂN, NHÂN DÂN
vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi người Việt Nam cụ thể, và cả hai
đều là chủ thể của đại đồn kết dân tộc. Nói đến đại đồn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập
hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta
đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức có lòng phục vụ Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết
với họ”.
Muốn thực hiện được việc đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nướcnhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lịng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ
Chí Minh cho rằng ngay với những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn
kéo họ về phía dân tộc, vẫn đồn kết với họ, mà khơng hồn tồn định kiến, kht sâu cách biệt.
Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn, nhưng cả năm ngón đều thuộc về
một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đồn kết rộng rãi. Thậm chí đối với những
người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa, khối đại đoàn kết dân tộc vẫn
mở rộng cửa đón tiếp họ. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hịa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng
ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Với tấm lòng độ lượng, bao dung, Người tha thiết kêu gọi
những người thật thà yêu nước, khơng phân biệt tâng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và
trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước. Để thực hiện được
đồn kết, Người cịn căn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết dân tộc một cách rộng rãi như trên
là vì Người có lịng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng
yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tâm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức
tỉnh lương chi con người thì lịng u nước lại bộc lộ. Vì vậy mẫu số chung để quy tụ mọi người
vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do
và hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho đến mãi mai sau.
Dân tộc, tồn dân là khối rất đơng bao gồm nhiều chục triệu con người. Muốn xây dựng khối
đại đồn kết rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về điều này, Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức
là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn
kết dân tộc càng có thể mở rộng, khơng e ngại bất khì thế lực nào có thể làm suy thối khối đại
đồn kết dân tộc.
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh cho rằng: đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách mạng
xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đồn kết dân tộc không thê chỉ dừng lại ở
quan niệm, tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành
khẩu hiệu hành động của tồn Đảng, tồn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành
lực lượng vật chất của tổ chức. Tổ chưc thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân
tộc thống nhất.
Từ khi tìm được con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa quần
chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng giới, từng ngành
nghề, từng lừa tuổi, từng tơn giáo; hơn nữa cịn phù hợp với từng bước phát triển của phong trào
cách mạng. Đó là các hội ái hữu hay tương trợ , công hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội
phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Cơng giáo u nước
hay những nghiệp đồn,…Và bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất, nơi quy tụ mọi tổ
chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi con dân nước Việt, không phải chỉ ở trong nước mà còn
bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm
lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về tổ quốc Việt Nam,…
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc sau đây:
Là thực thể của tu tưởng, chiến lược đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận thống nhất dân tộc phải
được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông – lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, từ đó mở rộng Mặt trận, làm cho mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp
được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao
của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và khơng ngừng mở rộng.
Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và thồng nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Để có thể xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, phải làm cho mọi người
thuộc bất cứ giai tầng nào cũng đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và trước hết. Bởi lẽ lợi
ích tối cao của dân tộc của dân tộc có được bảo đảm thì lợi ích của mỗi bộ phận, mỗi người mới
được thực hiên.
Mỗi bộ phận, mỗi người lại có những lợi ích riêng khác nhau. Những lợi ích riêng chính
đáng, phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược lại những gì
riêng biệt khơng phù hợp sẽ dần dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự
nhận thức đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi
ích riêng. Mặt trận cần đặc biệt quan tâm giải quyết thỏa đáng vấn đề này đối với các thành viên
tham gia. Mặt trận bằng việc thực hiện nghiêm khắc các hiệp thương dân chủ, cùng nhau bàn bạc
để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
5. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng
lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam khơng phải chỉ là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào cơng nhân, mà cịn cả với phong trào yêu nước Việt Nam.
Bởi lẽ, Đảng ra đời trong bão táp của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân gắn chặt với cuộc
đấu tranh của cả dân tộc. Những người tham gia Đảng Cộng sản không phải chỉ là những người
tiên tiến thuộc giai cấp công nhân, mà số đông lại là những người tiên tiến thuộc giai cấp nông
dân, tiểu tư sản, các tầng lớp lao động chân tay và trí óc, kể cả những người vốn thuộc các giai
cấp bóc lột đã từ bỏ hệ tư tưởng và lợi ích của giai cấp mình, giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng vừa là Đảng của giai cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Luận điểm này của Hồ Chí Minh hồn tồn khác với luận điểm
về “đảng tồn dân” của những người theo chủ nghĩa xét lại đã nêu ra trong những năm 60 của thế
kỷ XX. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai vấp cơng nhân vì Đảng
mang bản chất giai cấp công nhân và “ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt”. Là Đảng của nhân
dân lao động và của cả dân tộc, vì Đảng ra đời trong lịng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc. Hơn nữa, trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng lại
đặt lợi ích của dân tộc lên hết và trước hết vì nếu khơng giành được độc lập cho dân tộc thì lợi
ích của giai cấp công nhân “ngàn vạn năm cũng không giải quyết được”.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản mang tính chất quốc tế,
nhưng cuộc đấu tranh ấy lại diễn ra trước hết trong từng quốc gia dân tộc. Vì vậy giai cấp cơng
nhân và Đảng của nó trước hết phải trở thành dân tộc, như Mác và Ănghen đã nêu ra trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Ở Việt Nam, điều ấy đã là đương nhiên ngay từ khi Đảng Cộng
sản ra đời, cũng như trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết dân
tộc , tập hợp toàn dân trong cuộc đấu tranh cách mạng đã trở thành vấn đề máu thịt của Đảng.
Đại bộ phận nhân dân Việt Nam đã coi Đảng Cộng sản là Đảng của mình, đó cũng là điều dễ
hiểu. Đây là đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, khác rất nhiều so với các Đảng Cộng sản ở
Tây Âu. Vinh dự ấy rất to lớn. nhưng trách nhiệm của Đảng trước dân tộc cũng rất nặng nề.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ tham mưu của giai cấp
công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời
cũng là một thành viên của Mặt trận. Quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho
mình, mà được nhân dân thừa nhận. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích rất cặn kẽ: “ Đảng
khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận
trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày,
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng
mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp
với từng giai đoạn, từng thời kì cách mạng. “ Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan
trọng. Cơng tác Mặt trận là một cơng tác rất quan trọng trong tồn bộ cơng tác cách mạng”. Dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã
phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta”.
Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết tồn dân, Đảng phải thực sự
đồn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cở sở vứng chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn
dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đồn kết của dân tộc càng được tăng cường.
Đảng đoàn kết, dân tộc đồn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức
mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi
tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế: chủ nghĩa yêu nước chân chính
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, đây cũng là tư tưởng
lớn của Hồ Chí Minh.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi khi
đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Từ đó về sau, tư tưởng của Người về đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới càng được
làm rõ hơn và đầy đủ hơn. Đó là phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các nước tư bản. Trong kháng chiến
chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba
tầng Mặt trận: 1) Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; 2) Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; 3) Mặt
trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát
triển rực rở nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh.
Như vậy là từ đại đoàn kết dân tộc đi đến đại đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là
cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đồn kết quốc tế cũng là một nhân tố hết sức
quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hồn tồn của sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những luận điểm trên đây tạo thành nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc. Những luận điểm ấy đã được hình thành, từng bước được hồn chỉnh trong tiến trình cách
mạng Việt Nam và đã được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm.
3. Ngun tắc đại đồn kết của Hồ Chí Minh
3.1.1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của
dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người.
Mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai
cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một
điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay
khơng cịn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đồn kết hay khơng và việc
nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào.
Ngun tắc đại đồn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy những yếu
tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao
giờ cũng tìm ra những yếu tố của đồn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự
quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh
thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc
và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến
trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện ngun tắc đó
trong chiến lược đại đồn kết dân tộc của mình.
3.1.2. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân.
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Người kế thừa
và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào
sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trị của lực lượng
nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm
được. Khơng có thì việc gì làm cũng khơng xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một
cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ mãi
khơng ra”.
3.1.3. Đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng
rãi, lâu dài, bền vững.
Theo Hồ Chí Minh, có đồn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn đồn kết
thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngồi thì liên
minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo
cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham
mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở
ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai trị
đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp cơng nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa
chân chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin: “Để làm trọn trách nhiệm
người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh cơng
nơng làm nền tảng vững chắc để đồn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới
phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định
hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí
Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà
yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới. Đi
vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng
mình là mục tiêu nhất qn của Hồ Chí Minh.
3.1.4. Đại đồn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình,
phê bình vì sự thống nhất bền vững.
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng
cịn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn bạc để đi đến
sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục. Để
giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”; mặt
khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn
dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đồn kết xi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự
phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đồn kết: “Đồn kết
thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đồn kết thực sự
nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai
của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống
nhất ln đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hịi, một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ tất
cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh huớng đồn kết mà khơng
có đấu tranh đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục
đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải
tự cải tạo bản thân chúng ta”.
3.1.5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đồn kết quốc tế; chủ nghĩa u
nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Ngay khi thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được thắng lợi hồn tồn khi có sự đoàn kết
chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả Người
về
vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn. Cách mạng
Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, với các nước xã hội chủ
nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hồ bình thế giới. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cơng 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt
trận đoàn kết Việt-Miên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc
đấu tranh chống thực dân háp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ và là thắng
lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn
kết, Thành cơng, thành cơng, đại
thành cơng”.
Đồn kết trong Đảng là cơ sở để đồn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để thực
hiện đại đoàn kết quốc tế. Tư tưởng Đại đồn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thực hiện
thành công là một nhân tố quyết định cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi
hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
II, Vận dụng xây dựng tinh thần đoàn kết trong sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đồn kết là vấn đề có tính
chiến lược, quyết định mọi thành cơng. Đây cũng chính là bài học sâu sắc
mà thực tiễn của trường trong nhiều năm qua đã chứng minh. Mỗi khi nội bộ
chưa thống nhất về tư tưởng, về chủ trương, về lợi ích thì khơng thể có sự
đồn kết nhất trí cao, đồng nghĩa với nó là sự bất ổn và tạo nên lực cản kìm
hãm sự phát triển chung của nhà trường. Cho đến thời điểm hiện nay trường
Đại học Bách Khoa Hà Nội đã có 61 năm xây dựng và trưởng thành, đã có
bề dày truyền thống đồn kết, vượt khó vươn lên để khẳng định một thương
hiệu của một cơ sở đào tạo có uy tín như ngày hơm nay. Trong giai đoạn
trường vừa lên đại học, thực hiện một bước chuyển quan trọng địi hỏi có sự
thay đổi vượt bậc cả về chất và lượng thì vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết
tạo nên sức mạnh tổng hợp làm nền tảng, làm động lực cho trường phát
triển lại càng cần hơn bao giờ hết. Do đó, để có được sự đồn kết với đầy đủ
ý nghĩa của nó thì cần phải thực hiện được các nội dung, yêu cầu cơ bản
sau:
1.Đồng thuận trên dưới một lòng trong trường học
Để xây dựng khối đại đoàn kết ở trường Đại học Bách Khoa Hà Nội cần có
sự đồng thuận trên dưới một lịng, từ người đứng đầu là đồng chí Hiệu
trưởng, cùng các đồng chí trong Ban giám hiệu đến các 3 trưởng, phó phịng,
khoa; từ cán bộ giảng viên đến công nhân viên chức; từ người đứng trên bục
giảng đến người phục vụ lao công đều chung một mục tiêu xây dựng nhà
trường lớn mạnh. Muốn vậy Ban lãnh đạo nhà trường cần sáng suốt bảo đảm
công bằng và bình đẳng cho mọi thành viên trong việc thực hiện nghĩa vụ,
trách nhiệm cũng như trong quyền lợi chính trị, quyền lợi kinh tế; chăm lo lợi
ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các cán bộ, giảng viên công nhân
viên; kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể của các khoa,
phịng và lợi ích chung của toàn trường.
2.Xây dựng khối đại đoàn kết trên cơ sở tự phê bình, phê bình thẳng thắn
Mọi người cần có trách nhiệm cao, có tinh thần xây dựng, khơng né tránh
khuyết điểm, khơng đồn kết một chiều, khơng đồn kết hình thức theo kiểu
“Bằng mặt mà khơng bằng lòng”. Muốn vậy, từ tổ chức Đảng, các tổ chức
đồn thể như Cơng đồn, Nữ cơng, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên đều
phải tạo cơ chế, cơ hội để mọi người phát huy tinh thần đấu tranh góp ý trực
tiếp hoặc gián tiếp qua người đại diện với mục tiêu vì cái chung, vì sự tiến bộ
của cá nhân hay tập thể. Sự trao đổi thẳng thắn đó chính là thể hiện tinh thần
trách nhiệm, “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói, sẽ giúp nhau
khắc phục khuyết điểm, tự vươn lên hoàn thiện bản thân. Những hành vi lợi
dụng danh nghĩa đấu tranh phê bình để mưu cầu lợi ích riêng, làm ảnh
hưởng đến uy tín, danh dự của người khác, làm ảnh hưởng tới khối đoàn kết
trong tập thể nhà trường, cần phải cực lực phản đối và đặc biệt cần lên án
những trường hợp đơn thư nặc danh, vượt cấp.
3.Đoàn kết bền chặt, lâu dài
Nhà trường cần phải có mơi trường sống và làm việc với tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau, có sự bao dung rộng lượng, ln tạo cơ hội cho mọi người
có điều kiện phát triển, qua đó để mọi người ln cảm thấy tình thân ái của
những người xung quanh, cảm nhận nhà trường như tổ ấm thứ hai của
mình vì vậy mà tinh thần cộng đồng chung tay xây dựng nhà trường phát
triển càng được phát huy.
4.Tạo dựng niềm tin cho cán bộ giảng viên và sinh viên
Một trong những điều kiện làm cho khối đoàn kết trong nhà trường được
nâng cao đó chính là sự tạo dựng niềm tin cho cán bộ giảng viên, công nhân
viên và học sinh, sinh viên. Trách nhiệm này đầu tiên là thuộc về các đồng chí
trong Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường, sau đó là của các đồng chí trưởng
các đồn thể chính trị xã hội trong trường, các đồng chí trưởng phó các khoa,
phịng, trung tâm. Muốn có được niềm tin của tập thể quần chúng khơng thể
nào khác cần tiếp tục phát huy tính cơng khai, dân chủ trong trường học.
Càng dân chủ, công khai bao nhiêu, càng tăng cường tính trách nhiệm của
các thành viên trong nhà trường bấy nhiêu, mọi người đều thấy mình có vai
trị đóng góp cho trường ở các 4 phạm vi, mức độ, các lĩnh vực khác nhau.
5.Tạo dựng môi trường sinh hoạt hợp lí
Vừa tập trung làm tốt cơng tác đào tạo, nghiên cứu khoa học; nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, giảng viên; vừa tạo môi trường
cảnh quan của nhà trường xanh, sạch, đẹp; vừa quan tâm xây dựng môi
trường sinh hoạt đời sống tinh thần vui tươi, lành mạnh cho cán bộ, giảng
viên, công nhân viên chức và học sinh sinh viên bằng nhiều hình thức tổ
chức giao lưu đa dạng, phong phú: Văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các
diễn đàn trao đổi theo chủ đề, chuyên đề có ý nghĩa thiết thực đến đời sống
hàng ngày. Thơng qua các loại hình tổ chức sinh hoạt tập thể như vậy, mọi
người có điều kiện gần gũi, hiểu nhau hơn, chia sẻ tình cảm, chia sẻ những
khó khăn thuận lợi với nhau nhiều hơn và từ đó mà tinh thần đồn kết gắn bó
với nhau sẽ càng tốt hơn. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết để
tiếp tục xây dựng và phát huy tinh thần đoàn kết ở trường Đại học Bách Khoa
Hà Nội là việc làm cần thiết và phải được tiến hành thường xun. Chỉ có
đồn kết mới tạo ra sức mạnh. Chỉ có đồn kết mới thật sự thành cơng - Đó
chính là mục tiêu và nhiệm vụ mà nhà trường phải thực hiện. Chắc chắn với
một tập thể đoàn kết cao, Đại học Kinh tế
Nghệ An sẽ là một địa chỉ đào tạo tin cậy, một thương hiệu có uy tín của khu vực
Bắc Miền
trung và cả nước.
-------------------------Kết Luận
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm
ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao
sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đồn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức
thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh cơng nơng và trí thức làm
nịng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của
toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính
trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so với thời kỳ đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng đã khác rất nhiều so với 20 năm
trước. Đại hội IX và X của Đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là một động lực chủ
yếu của sự phát triển đất nước. Do vậy, công tác cán bộ phải quán triệt hơn nữa quan điểm và bài
học kinh nghiệm của Đảng và Bác Hồ về việc kết hợp quan điểm giai cấp và phát huy truyền
thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử chứng minh rằng giữa giai cấp công nhân và
đại đồn kết dân tộc có quan hệ biện chứng, không hề đối lập nhau: nếu là công nhân (và chỉ có
cơng nhân thực sự) thì mới thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác
khơng thể đại đồn kết tồn dân tộc thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại đoàn kết dân tộc
chính là thực hiện quan điểm của giai cấp cơng nhân, phù hợp với lợi ích của giai cấp cơng nhân.
Theo quan điểm này, làm thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng không phân biệt giai cấp,
nguồn gốc xuất thân, là người Việt Nam trong nước hay người Việt Nam ở nước ngồi, chính là
thể hiện quan điểm giai cấp công nhân của Đảng ta. Lựa chọn cán bộ phải căn cứ chủ yếu vào
nhận thức và hành động thực tiễn của mỗi người chứng tỏ rằng đang phấn đấu cho độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc
gia năm 2003.
2. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006.
3. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – Bộ giáo dục và đào tạo năm 2009.
4.
5.