Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn thạc sĩ giáo dục đạo đức cho thanh niên của đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.7 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

…../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THANH TÙNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN CỦA
ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ
MINH TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. CAO THỊ HÀ

HÀ NỘI – NĂM 2020

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay” là cơng
trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học


Ts. Cao Thị Hà.
Các tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn là trung thực, các thơng
tin trích dẫn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Tác giả

Nguyễn Thanh Tùng

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CLB

:Câu lạc bộ

CHDCND

:Cộng hòa dân chủ nhân dân

ĐVTN

:Đoàn viên thanh niên

LHTN

:Liên hiệp thanh niên

TNCN


:Thanh niên công nhân

TNCS

:Thanh niên Cộng sản

TNTP

:Thiếu niên tiền phong

MỤC LỤC
3


MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO THANH NIÊN CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ
MINH ............................................................................................................. 9
1.1. Một số khái niệm cơ bản....................................................................... 9
1.2. Vai trò, nội dung tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh .................................................................................. 19
1.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh………………………………….36
Tiểu kết Chương 1......................................................................................... 46
Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA
ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH BẮC NINH
HIỆN NAY................................................................................................... 51
2.1. Những yếu tố tác động đến tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên
của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh ........................................... 51

2.2. Tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay .................................................. 56
2.3. Đánh giá công tác tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn
TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh............................................................ 71
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 80
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG TỔ CHỨC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH BẮC NINH ............. 81
3.1. Phương hướng………………………………………………………..81
3.2. Giải pháp ............................................................................................ 89
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 108
KẾT LUẬN ................................................................................................ 109

MỞ ĐẦU
4


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng đông đảo, chiếm trên 1/3 dân số và trên 1/2 lực
lượng lao động xã hội, có vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đánh giá
về vai trò của thanh niên, đã nhấn mạnh: “Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn
là do các thanh niên” [30, tr.185]. Chính vì lý do đó, việc bồi dưỡng, chăm lo
giáo dục cho tầng lớp này có tầm quan trọng đặc biệt. Trong Di chúc, Hồ Chí
Minh đã từng căn dặn: “Đảng phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng họ thành
những người kế tục sự nghiệp cách mạng vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết”
[31, tr.510].
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong Nghị quyết

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VII, khóa X về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng định: “Thanh
niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực
lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố
quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội" [6, tr.7].
Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và
Nhà nước ta cùng với các tổ chức chính trị - xã hội khác đã luôn chú trọng
đến công tác thanh niên, quan tâm, bồi dưỡng giáo dục thanh niên về đạo
đức, lối sống, bản lĩnh chính trị, hướng tới xây dựng lớp người kế tục mục
tiêu, lý tưởng của Đảng “Xây dựng nước Việt Nam độc lập dân tộc gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội”. Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo, định hướng của
Đảng và vai trò, trách nhiệm của tổ chức đối với công tác giáo dục cho thanh
5


niên, trong thời gian qua, Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh đã phát
huy vai trò, tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện cho
thanh niên. Trong đó, cơng tác giáo dục đạo đức là một trong những nội
dung trọng tâm được thực hiện. Tuy nhiên, công tác tổ chức giáo dục đạo
đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh cịn có
những hạn chế nhất định. Đó là cơng tác giáo dục từng lúc, từng nơi còn yếu,
chưa phát huy được sức mạnh đồng bộ của các lực lượng xã hội trong giáo
dục đạo đức cho thanh niên. Việc nắm bắt diễn biến, tình hình tư tưởng của
thanh niên và thực hiện các nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đoàn – Hội chưa được đổi mới về nội dung và phương thức để có sức hấp
dẫn, lơi cuốn thanh niên. Một số nội dung, phương thức giáo dục chưa phù
hợp với địa phương, đơn vị, lứa tuổi,… Đó cũng là một trong những nguyên
nhân khiến cho một bộ phận thanh niên Bắc Ninh chạy theo lối sống thực

dụng, xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có thái độ thờ ơ, bàng
quan trước các sự kiện kinh tế, chính trị của đất nước. Điều nguy hiểm hiện
nay là đã xuất hiện một bộ phận thanh niên tơn thờ chủ nghĩa cá nhân, sống
ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất, coi đồng tiền là trên hết. Đặc biệt, vẫn có
một số thanh niên phạm vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Nhiều vụ
án được khám phá trong thời gian gần đây cho thấy tỷ lệ phạm tội trong
thanh niên có chiều hướng gia tăng. Thực trạng này đòi hỏi tổ chức Đồn
TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh cần đặc biệt chú trọng việc giáo dục đạo
đức cho thanh niên; qua đó, phát huy vai trị to lớn của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay. Chính vì lý do đó, tơi lựa chọn chủ đề
Giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý cơng của
mình
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
6


Giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh niên nói
riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta là một yêu cầu,
nhiệm vụ quan trọng đặt ra thường xuyên, liên tục đối với tổ chức Đồn
TNCS Hồ Chí Minh. Do đó, vấn đề này thu hút sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học với nhiều cơng trình được cơng bố với những mức
độ, cách tiếp cận khác nhau.
Thứ nhất, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức:
- Cơng trình “Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, chủ trương,
thực hiện, đánh giá” (Ban Khoa giáo Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2002) bao gồm các văn kiện của Đảng, một số bài phát
biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tập trung đánh giá những
thành tựu cũng như những hạn chế của ngành giáo dục nói chung, giáo dục
đạo đức nói riêng…; Trong bài viết “Vai trị của giáo dục đạo đức đối với sự

phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường” (Trong cuốn: Mấy vấn đề đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nguyễn Trọng
Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003), tác giả Nguyễn Văn Phúc cho rằng, nền kinh tế thị trường, bên cạnh
những mặt tích cực, cịn có những ảnh hưởng, tác động tiêu cực tới nhân cách
mỗi người.
Thứ hai, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên:
- Công trình “Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế” do Phạm Hồng Tung chủ biên tập
trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về thanh niên và lối sống của thanh
niên; khảo sát và phân tích tình hình thanh niên Việt Nam và lối sống của
thanh niên trong hơn hai thập kỷ đổi mới đất nước. Cơng trình“Giáo dục đạo
đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”
của Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.
7


Cuốn sách phân tích tầm quan trọng và nội dung giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên…; Ngoài các cuốn sách, các luận án, luận văn trên, liên quan đến
chủ đề này cũng có có thể kể đến một số bài viết, như “Giáo dục truyền thống
cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Lại Quốc
Khánh, Phan Duy An, Tạp chí Tuyên giáo, số 9 (2013).
Thứ ba, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh:
- Cơng trình “Tổng quan tình hình thanh niên, cơng tác Đoàn và phong
trào thanh thiếu niên giai đoạn 2007-2012” do tác giả Nguyễn Đắc Vinh làm
chủ biên được xuất bản năm 2012. Cuốn sách tiếp cận các vấn đề liên quan
đến thanh niên và đặt nó trong tương quan chung của xã hội, so sánh với các
giai đoạn trước để chỉ ra những biến đổi, chiều hướng biến đổi của các vấn
đề; những yếu tố tác động đến sự biến đổi đó; tổng kết, xác định những vấn

đề nổi bật về tình hình thanh niên trong giai đoạn 5 năm (2007 – 2012 . Cơng
trình“Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh – Những chặng đường phát
triển” do tác giả Vũ Quang Hiển chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia – sự thật,
Hà Nội, 2014), đã tổng hợp nhiều bài viết của các tác giả khác nhau với các
nội dung: tái hiện những trang sử vàng của các thế hệ thanh niên Việt Nam,
khẳng định vai trò của lực lượng thanh niên Việt Nam trong quá trình hội
nhập và phát triển đất nước hiện nay…
Thứ tư, quản lý nhà nước về giáo dục đạo đức thanh niên:
Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2017) Quản lý giáo dục đạo đức cho
thanh niên thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi mới”. Nghiên cứu đã hệ
thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về giáo dục đạo đức và
quản lý giáo dục đạo đức cho thanh niên . Phạm Văn thành (2009), Giáo dục
đạo đức cho đoàn viên - thanh niên ở nước ta hiện nay – Thực trạng và giải
pháp. Ở nghiên cứu này, tác giả cho rằng, yếu tố quyết định là ý thức tự giáo
8


dục thực sự nghiêm khắc – sự phấn đấu hướng thiện của từng cá nhân, nhất là
của đoàn viên – thanh niên…
Bên cạnh đó, tác giả biết được một số tác giả khác đã lựa chọn đề tài có
liên quan đến quản lý nhà nước về công tác thanh niên làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ như: Đề tài “Quản lý nhà nước về thanh niên trên địa bàn thành phố
Hải Phịng”, Luận văn Thạc sĩ Hành chính năm 2015 của tác giả Đỗ Khắc
Tiến; Đề tài “Quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên tại tỉnh Quảng
Nam”, Luận văn Thạc sĩ Hành chính năm 2015 của tác giả Lê Quang Quỳnh;
Đề tài “Quản lý nhà nước về cơng tác thanh niên trên địa bàn tỉnh Bình
Dương”, Luận văn Thạc sĩ Hành chính năm 2017 của tác giả Trần Thiện Lộc.
Các đề tài nghiên cứu nêu trên đã hệ thống hóa các cơ sở lý luận về cơng tác
thanh niên và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng
quản lý nhà nước về cơng tác thanh niên trên cơ sở phân tích, lý giải nhiều

vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động và thực trạng tại một số địa phương
Thứ năm, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên
của Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh:
Về cơ bản, việc giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh cũng đã
được chú ý, quan tâm. Tuy nhiên, sự quan tâm này mới chỉ dừng lại ở mức độ
trong các báo cáo hàng năm, thường kỳ. Cho đến nay, chưa có một cơng trình
nào nghiên cứu một cách có hệ thống cơng tác giáo dục đạo đức cho thanh
niên tỉnh Bắc Ninh nói chung và cơng tác giáo dục đạo đức cho thanh niên
trong tỉnh của Đồn TNCS Hồ Chí Minh nói riêng. Tuy nhiên, các báo cáo
này cũng là tài liệu tham khảo quý để học viên tham khảo trong quá trình triển
khai nghiên cứu đề tài. Trong các báo cáo đó, có thể kể đến Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh khóa XIII trình
tại Đại hội đại biểu Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh lần thứ XIV,
nhiệm kỳ 2017 – 2022 và Báo cáo tổng kết cơng tác giáo dục của Đồn
9


TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2012 – 2017.
Nhìn chung, các cuốn sách, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều
rất phong phú về nội dung và có hàm lượng khoa học cao, đã có đóng góp
nhất định trong việc nêu rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về yêu cầu của
việc tổ chức giáo dục đạo đức nói chung, tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh
niên ở nước ta hiện nay; đã làm sáng tỏ ở mức độ nhất định tác động của các
điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị trong và ngoài nước tới sự biến đổi của đạo
đức xã hội, đạo đức thanh niên, đề ra một số phương hướng để nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, một mặt, sự tổng quan của các cơng trình
nghiên cứu, bài viết nói trên phản ánh tầm quan trọng và yêu cầu bức thiết của
vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Mặt khác, cũng cho thấy, việc giáo
dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh của Đồn TNCS Hồ Chí Minh hiện
nay cũng chưa được tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, bài bản và

chuyên sâu. Vì vậy, việc triển khai nghiên cứu đề tài “Giáo dục đạo đức cho
thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh
hiện nay” mang tính cấp thiết đối với thanh niên tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận chung về tổ chức giáo dục đạo đức
cho thanh niên và đánh giá thực trạng tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh
niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay, từ đó đề xuất
một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tổ
chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh
Bắc Ninh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về tổ chức giáo dục đạo đức
10


cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
Hai là, phân tích thực trạng tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên
của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay
Ba là, đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về vấn đề tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên
của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu vấn đề tổ chức
giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh

từ góc độ quản lý cơng.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2014 đến nay
- Phạm vi về không gian: địa bàn tỉnh Bắc Ninh
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hệ thống lý luận chung
về tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng

11


cao vai trò tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí
Minh nói chung, Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh nói riêng trong tình
hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên
của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Chương 2: Thực trạng tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng tổ
chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc

Ninh.

Chương 1
12


LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN CỦA
ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm thanh niên
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy
sự phát triển của xã hội ở hiện tại và là chủ thể sáng tạo của tương lai; thanh
niên có vị trí quan trọng trong suốt tiến trình lịch sử hình thành và phát triển
của tất cả các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
Hiện nay, khái niệm thanh niên được định nghĩa chưa có sự thống nhất,
tùy thuộc vào nội dung và góc độ tiếp cận mà người ta đưa ra các khái niệm
khác nhau về thanh niên. Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa thơng
tin, năm 1999, định nghĩa “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng
thành” [43, tr.871], khái niệm này nhìn nhận thanh niên dưới hai góc độ là độ
tuổi – sinh học, và sự phát triển đến một mức được cho là hoàn chỉnh, đầy đủ
về mọi mặt – sự trưởng thành.
Từ góc độ sinh học, thanh niên là giai đoạn được xác định khi mà quá
trình phát triển của cơ thể con người đã trải qua một khoảng thời gian nhất
định, ở giai đoạn này sự phát triển về mặt sinh học như tầm vóc, hệ các cơ
quan bên trong và các bộ phận bên ngoài của cơ thể đã dần hoàn thiện về mặt
chức năng. Độ tuổi thanh niên được quy định tùy thuộc vào quan điểm và
nhận thức của mỗi quốc gia, dao động từ 12 đến 35 tuổi, khái niệm độ tuổi có
thể chỉ bao hàm về mặt thời gian và mức độ phát triển sinh học của cơ thể con
người hoặc phản ánh vị thế xã hội và hoạt động đặc trưng nhất định của một

bộ phận con người trong xã hội; để xác định độ tuổi của một cá thể thanh niên
có thể dựa vào tuổi sinh học, tuổi xương, tuổi răng hoặc tuổi dậy thì,....

13


Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học Mác –
Lênin định nghĩa con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một
chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con
người vừa là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh
vật, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người, “là thực thể
thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và các yếu tố xã hội” [45, tr. 520]. Theo
đó, thanh niên là một giai đoạn phát triển nhất định của cơ thể con người, do
đó, nó mang những bản chất đặc trưng của con người, nó là một khái niệm
dùng để chỉ một bộ phận người tồn tại ở một độ tuổi nhất định trong một giai
đoạn xác định, một khơng gian nhất định có thể của một dân tộc, một quốc gia
hoặc thậm chí là quy mơ của cả xã hội lồi người, với những đặc điểm sinh
học, tâm lý và sự phát triển nhận thức ở một trình độ nhất định.
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Khóa X khẳng định “Thanh niên là lực lượng xã hội
to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh
dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những cơng việc
địi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung
sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, ln năng động, sáng tạo, muốn tự
khẳng định mình…”. Để xác định độ tuổi thanh niên Việt Nam, trong quá
trình xây dựng Luật Thanh niên, có rất nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên
gia và các nhà khoa học được đưa ra bàn bạc, thảo luận để đi đến sự thống
nhất khi ban hành:“Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam
từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi” [53, Điều 1].
Từ các phân tích trên cho thấy, để nhìn nhận và đưa ra khái niệm thanh

niên, cần phải đánh giá thanh niên một cách tương đối toàn diện dưới nhiều
góc độ khác nhau, từ những đặc điểm sinh học, tâm lý,... cho đến sự phát triển
của nhận thức đến một mức độ nhất định; gắn thanh niên với mọi giai cấp,
14


mọi tầng lớp trong xã hội và trên mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời
sống xã hội.
Với cách hiểu về thanh niên như vậy: Thanh niên là một lực lượng xã
hội đặc thù, ở độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, mang những đặc trưng tâm, sinh lý,
sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ; ln năng động, sáng tạo,
muốn tự khẳng định mình; có mặt trong tất cả các nhóm dân tộc, giai cấp,
tầng lớp trong xã hội và trên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, là
nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội hiện tại và tương lai.
Theo cách quản lý và phân loại đối tượng thanh niên của Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam được chia
thành các nhóm sau: thanh niên nơng thơn, thanh niên cơng nhân, thanh niên
công chức và viên chức, thanh niên đô thị, thanh niên học sinh và sinh viên,
thanh niên trong các lực lượng vũ trang. Các nhóm thanh niên đặc thù bao
gồm: thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên có đạo, thanh niên đang học tập,
lao động ở nước ngoài. Các nhóm thanh niên yếu thế bao gồm: thanh niên bị
nhiễm HIV/AIDS, thanh niên khuyết tật, thanh niên sau cai nghiện và sau cải
tạo trở về tái hòa nhập với cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Đảng đã thấy rõ
tầm quan trọng của việc xây dựng tổ chức Đoàn. Tại hội nghị Ban Chấp hành
lần thứ hai họp từ ngày 20 đến 26/3/1931, Trung ương Đảng đã giành 01 ngày
trong thời gian hội nghị để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng về
công tác vận động thanh niên của Đảng. Xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt ấy,
được sự đồng ý của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội Đoàn

toàn quốc lần thứ III (họp từ ngày 22 đến 25/3/1961 tại Hà Nội) đã quyết định
lấy ngày 26/3/1931 là ngày thành lập Đoàn.

15


Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý
tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, văn minh. Điều lệ Đồn khẳng định: Đồn
TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị-xã hội của thanh niên Việt Nam, do
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện” [14, tr.9]. Điều này phản ánh đầy đủ Đoàn là một tổ chức thanh niên
Cộng sản mang tính tiên tiến của giai cấp cơng nhân và tính quần chúng rộng
rãi của thanh niên Việt Nam thơng qua việc tổ chức các phong trào, hoạt động
có tính chất xã hội, mỗi đoàn viên và cơ sở Đoàn đều được thể hiện tinh thần
xung kích cách mạng, thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Đồn có 3 đặc điểm cơ bản: là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường
xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, Nhà nước và các ngành. Đồn ln
ln xác định nhiệm vụ của mình là đội qn xung kích cách mạng tích cực
tham gia xây dựng Đảng và là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng
vẻ vang của Đảng và của Bác Hồ; là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh
niên, tạo môi trường đưa thanh niên vào các hoạt động giúp học tập rèn luyện
và phát triển nhân cách, năng lực của người lao động mới phù hợp với yêu
cầu của xã hội hiện nay; là người đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của tuổi trẻ. Đặc điểm này khẳng định rõ tổ chức Đồn TNCS Hồ Chí
Minh là tổ chức của thanh niên, vì thanh niên.
Được xây dựng, rèn luyện và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh
cách mạng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tập hợp đơng đảo thanh niên phát
huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào

thời kỳ mới, Đoàn tiếp tục phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc
và bản chất tốt đẹp của mình, xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng
yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
16


xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa,
vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri
thức, kỹ năng trong lao động tập thể; xung kích, sáng tạo làm chủ khoa học
cơng nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng; tổ chức
động viên đoàn viên, thanh niên cả nước đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [14,
tr.10-11].
1.1.3. Khái niệm đạo đức
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos,
moris, nghĩa là lề thói. Ngồi ra, cịn một danh từ nữa cũng hay được sử dụng
là ethicos, có gốc từ chữ Hy Lạp cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Theo nghĩa
đó, khi nói đến đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan
hệ nhất định giữa người với người trong giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, người Trung Quốc cổ đại sớm đưa ra các học thuyết về
đạo và đức của họ. Theo đó, Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái
niệm này được vận dụng trong triết học nhằm chỉ con đường của tự nhiên. Sau
đó, đạo khơng chỉ là con đường của tự nhiên, mà cịn có nghĩa là đường sống
của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính, là biểu
hiện của đạo nghĩa, là nguyên tắc của luân lý. Như vậy, đạo đức được hiểu như
những nguyên tắc, các quy định, các chuẩn mực xã hội nhằm điều tiết hành vi
của con người mà mỗi người sống trong đó cần phải tn theo.
Từ cách tiếp cận mácxít, có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái ý thức

xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và

17


quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội [41, tr.8].
Đạo đức còn là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực điều
tiết hành vi trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên, giữa cá nhân với xã hội. Nó được phát triển, bị ảnh hưởng nhiều bởi
các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Trong q trình phát triển đó, cùng với
sự vận động biến đổi của tồn tại xã hội, đạo đức cũng có những biến đổi, như
các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã từng nói rằng “Từ dân tộc này sang dân
tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác
đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”[25, tr.135].
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài
người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người: phong
tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh giá
hành vi con người theo khuôn khép chuẩn mực và qui tắc đạo đức biểu hiện
thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, người ta cũng đều được đánh giá như vậy.
Các khái niệm thiện ác, khuôn khép và qui tắc hành vi của con người thay đổi
từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác. Và trong xã
hội có giai cấp thì bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định.
Những khuôn khép (chuẩn mực) và qui tắc đạo đức là yêu cầu của xã hội
hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi mỗi cá nhân. Nó bao gồm
hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với tổ quốc, nhà nước, giai cấp mình
và giai cấp đối địch…) và đối với người khác. Những chuẩn mực và quy tắc
đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay một giai cấp, dân tộc thừa

nhận. Ở đây quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của mình đối với xã hội và
đối với người khác (khuôn khép hành vi) là tiền đề của hành vi đạo đức của cá
nhân. Đã là một thành viên của xã hội, con người phải chịu sự giáo dục nhất
18


định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của mình và trong
hồn cảnh nào đó cịn chịu sự khiển trách của lương tâm…Cá nhân phải
chuyển hóa những địi hỏi của xã hội và những biểu hiện của chúng thành nhu
cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Biểu hiện của sự
chuyển hóa này là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến
khích, những chuẩn mực phù hợp với những đòi hỏi của xã hội…Do vậy sự
điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự lựa
chọn của con người.
Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Giá trị là đối tượng của giá trị học
(giá trị học phân loại các hiện tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng
nên một cách truyền thống về các lĩnh vực của đời sống xã hội, các giá trị vật
chất và tinh thần, các giá trị sản xuất, tiêu dùng, các giá trị xã hội – chính trị,
nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo)(1). Đạo đức là một hiện tượng xã hội,
mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt.Các hiện tượng đạo đức
thường biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc là phủ định một hình thức
chính đáng, hoặc khơng chính đáng nào đó. Nghĩa là nó bày tỏ sự tán thành
hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân
với cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là một nội dung
hợp lệ thống trị xã hội. Sự hình thành phát triển và hồn thiện hệ thống trị đạo
đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều
chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến
bộ, thì hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, thì hệ
thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
Có thể thấy rằng, thứ nhất, với tư cách hình thái ý thức xã hội, phản

ánh tồn tại xã hội, đạo đức chịu ảnh hưởng của tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ở
đây, có thể thấy rằng, quan hệ giữa kinh tế với đạo đức không phải là quan hệ
đơn trị, một chiều. Vì vậy, khơng phải mọi biến đổi nào đó trong cơ sở kinh tế
19


cũng đều nhất thiết và ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi tương ứng trong đạo
đức. Không phải mọi sự phát triển kinh tế nào cũng dẫn đến sự tiến bộ đạo
đức. Hơn nữa, đạo đức còn bị ảnh hưởng bởi triết học, chính trị, khoa học,
nghệ thuật, tơn giáo,… nghĩa là của toàn bộ đời sống tinh thần. Thứ hai, với
tư cách là những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội … điều tiết hành vi con người,
người nào thực hiện đúng những nguyên tắc, chuẩn mực đó được coi là có
đạo đức, được xã hội ủng hộ, biểu dương và ngược lại.
1.1.4. Khái niệm về giáo dục đạo đức
Có nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục đạo đức, song có thể coi
“giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích của chủ thể giáo dục
đến đối tượng giáo dục để hình thành trong họ những yếu tố, tình cảm, niềm
tin, lý tưởng và tất cả được thể hiện ở những hành vi đạo đức” [3, tr.45]. Như
vậy, giáo dục đạo đức không chỉ làm cho con người nhận thức đúng các
chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức mà cịn thơng qua đó để hình thành
niềm tin và tình cảm đạo đức.
Giáo dục đạo đức là một trong những hoạt động nhằm góp phần chuyển
đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân. Đây cũng là quá trình mang những tri
thức, kinh nghiệm, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo
đức cá nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá và thực hiện
hành vi đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã hội của cá
nhân. Giáo dục đạo đức góp phần hình thành những quan điểm cơ bản nhất,
những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức trong từng cá nhân cụ thể;
giúp họ xác lập khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tuợng xã hội.
Giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực trong việc kế thừa và phát

huy các giá trị đạo đức truyền thống. Những giá trị đạo đức truyền thống chỉ
có thể được các thế hệ sau tiếp nhận thông qua giáo dục đạo đức như: thơng
qua giáo dục tình u q hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, thế hệ trẻ sẽ

20


tiếp nhận được những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc như
lòng yêu nước, yêu hòa bình, tơn trọng đạo lý, tinh thần đồn kết…Nhờ các
hoạt động giáo dục đạo đức mà các thế hệ sau luôn kế thừa và phát huy các
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và nhờ vậy, các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc ta không bị mai một. Quan điểm này cũng được
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Di chúc, theo Bác, tương lai của đất nước,
của dân tộc nằm ngay trong tay các thế hệ thanh niên: “Thanh niên là người
tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người dìu dắt thế
hệ thanh niên tương lai” [40,tr.488].
Nói đến giáo dục đạo đức là nói đến chủ thể, nội dung, phương pháp,
hình thức giáo dục.
Về chủ thể giáo dục: tùy theo phạm vi, quy mô, và những điều kiện lịch
sử cụ thể khác nhau, chủ thể giáo dục đạo đức là khác nhau. Song, về cơ bản,
một cách chung nhất, người ta thường cho rằng, các chủ thể giáo dục đạo đức
là gia đình, nhà trường và xã hội. Một cách cụ thể hơn, trong gia đình, chủ thể
giáo dục đạo đức là ông bà, cha mẹ, anh chị… Trong nhà trường, đó là thầy
cơ giáo, các đồn thể… Ở xã hội, chủ thể giáo dục có thể là các đồn thể, các
tổ chức chính trị - xã hội, truyền thông,…
Về nội dung giáo dục đạo đức: tùy theo mục tiêu của các chủ thể giáo
dục, nội dung giáo dục đạo đức có sự khác nhau giữa các quốc gia, dân tộc;
giữa các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ví dụ, như ở phương Đơng thời kỳ phong
kiến, nội dung giáo dục đạo đức tập trung vào những nội dung như “nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín”…

Về phương pháp và hình thức giáo dục đạo đức: phương pháp đàm
thoại, diễn giải, thi đua, nêu gương, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn…
Trong công tác giáo dục, đối tượng giáo dục cũng là một nhân tố quan
trọng trong giáo dục. Bởi các chủ thể giáo dục dù có nội dung, phương pháp
giáo dục hay đến thế nào đi chăng nữa mà đối tượng giáo dục không tiếp thu
21


thì q trình giáo dục cũng khó đạt hiệu quả như mong muốn. Đây chính là
q trình tự giáo dục của đối tượng giáo dục.
Như vậy: “Giáo dục đạo đức cho thanh niên là q trình tác động có
mục đích của chủ thể giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội…) đến đối tượng
thanh niên để hình thành trong họ những yếu tố, tình cảm, niềm tin, lý tưởng
và tất cả được thể hiện ở những hành vi đạo đức.
1.1.5. Khái niệm tổ chức giáo dục đạo đức
Tổ chức giáo dục đạo đức là quá trình tổ chức, điều khiển, điều chỉnh
hệ thống những quan điểm, quan niệm, những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn
mực xã hội trong quan hệ giữa người với người; giữa cá nhân với tập thể, với
xã hội nhằm tác động và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân với xã hội.
Tổ chức giáo dục đạo đức được xác định là nhiệm vụ quan trọng, lâu
dài, mang tính chiến lược trong phát triển giáo dục nói riêng và phát triển đất
nước nói chung. Qua đó góp phần định hình, phát huy những phẩm chất cần
thiết, tốt đẹp của nhân cách con người. Đạo đức là “thành phần cơ bản của
nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của cá nhân được xã hội hoá”, mọi
hành vi ứng xử của con người với xã hội, với tự nhiên đều phản ánh đạo đức
của mỗi người; đạo đức đó đều phản ánh những giá trị, những chuẩn mực mà
người ta nhận thức.
Tổ chức giáo dục đạo đức nhằm tạo ra những sản phẩm, nhân cách của

con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng
xử của họ trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa
bản thân họ với người khác và với chính bản thân mình.
Một mặt, đạo đức là một hệ thống qui tắc mang tính chuẩn mực xã hội
trong ứng xử, mặt khác trong mối quan hệ văn hóa, tơn giáo, triết học, thì đạo
22


đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Bản chất đạo đức là những qui tắc,
những chuẩn mực xã hội, nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong cuộc
sống, được xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện. Đạo đức chính là văn hóa
trong cuộc sống, là biểu hiện của trình độ nhận thức của cá nhân và trình độ
dân trí xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và sự
hội nhập quốc tế, đạo đức cũng có thay đổi theo tư duy nhận thức mới nhưng
khơng có nghĩa giá trị đạo đức cũ mất đi thay bằng các giá trị đạo đức mới mà
các giá trị đạo đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc giữa đạo đức truyền thống
tốt đẹp của dân tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại và nhân loại.
1.2. Vai trò, nội dung tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
1.2.1. Vai trị tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn
TNCS Hồ Chí Minh
Thanh niên Việt nam ln là lực lượng hùng hậu, có tiềm năng to lớn,
có đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ln đánh giá cao vai trị của
thế hệ trẻ, quan tâm giáo dục, động viên, phát huy mọi khả năng của thế hệ trẻ
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Đảng và nhân dân ta luôn đặt niềm tin và kỳ vọng lớn lao vào lực lượng
thanh niên, xác định thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai
của đất nước, là một trong những nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của

dân tộc; cơng tác thanh niên nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh niên
nói riêng là một trong những yếu tố quyết định thành bại của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên bên cạnh đó cịn có một bộ phận thanh thiếu niên nhạt phai lý
tưởng cách mạng, suy thoái về đạo đức, lối sông, mắc các tệ nạn xã hội, vi
23


phạm pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ về công tác thanh niên và giáo dục đạo
đức , lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên là công tác quan
trọng, thường xuyên liên tục, có sự tham giá của cả hệ thống chính trị ở Việt
Nam bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các
tổ chức chính trị xã hội như: Tổng Liên đồn lao động Việt nam, Đồn TNCS
Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam. Trong hệ thống chính trị ở nước ta, Đảng Cộng sản
Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống
chính trị.
Vai trị của tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên thể hiện trên các
khía cạnh sau:
Thứ nhất: giáo dục đạo đức cho cho thanh niên góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Vai trò quan trọng này của công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên
bắt nguồn từ việc giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức truyền thống, giáo dục
pháp luật… cho thanh niên, từ đó nâng cao được sự hiểu biết về đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho thanh niên, kiên định giữ vững
niềm tin của thanh niên vào mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Giáo dục pháp luật cho thanh niên là
một bộ phận của công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên cùng với cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống… là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và sự điều

phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, đồn
thể. Chính vì vậy cơng tác giáo dục đạo đức cho thanh niên có vị trí vai trị vơ
cùng quan trọng trong q trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện
nay, là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động
24


của từng cá nhân thanh niên trong xã hội. Với vai trò giá trị xã hội của pháp
luật là phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội và mộtt
nguyên lý được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và
pháp luật khơng thể phát huy hiệu lực của mình nếu khơng có sức mạnh của
bộ máy nhà nước. Thơng qua quyền lực nhà nước, pháp luật mới có thể phát
huy tác dụng trong đời sống xã hội, phát huy vai trò quản lý Nhà nước, quản
lý xã hội. Hệ thống pháp luật là “con đường”, là cái “khung pháp lý” do Nhà
nước vạch ra để mọi tổ chức, mọi công dân dựa vào đó mà tổ chức, hoạt động
và phát triển. Giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng, pháp luật cho thanh niên
giúp thanh niên có bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, có tri thức pháp lý,
tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử
dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự
do của mỗi người.
Giáo dục đạo đức cho thanh niên đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các
quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành
các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã
hội; tạo ra khả năng phát hiện, và loại trừ các hiện tượng tiêu cực, suy đồi đạo
đức, đi ngược lại thuần phong, mỹ tục, chống đối pháp luật diễn ra trong quá
trình quản lý.
Thứ hai: Giáo dục đạo đức cho thanh niên góp phần nâng cao ý thức tổ
chức, kỷ luật, ý thức pháp luật, văn hóa của mọi thành viên trong xã hội trong
đó có thanh niên

Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề củng cố, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đang là một vấn đề cấp thiết. Để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện Nhà nước quản lý bằng pháp
luật, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động, thì cơng tác giáo dục đạo đức, chính trị, truyền thống, pháp luật…
25


×