Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Dan chu XHCN o viet nam1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.01 KB, 28 trang )

Môn CNXH khoa học
Câu: Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp cách
mạng xây dựng, phát triển đất nước ta để tiến lên CNXH
Dân chủ gắn bó chặt chẽ với quyền sống của con người, là nhu cầu
không thể thiếu của từng cá nhân cũng như của công đồng người trong xã
hội nhất là xã hội văn minh. Dân chủ gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát
triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ xã hội khác nhau. Lê Nin quan
niệm: chế độ dân chủ là chế độ thống trị của đa số đối với thiểu số. do vậy
dân chủ được nhìn nhận như là một hình thái nhà nước, trong đó thừa nhận
sự tham gia của đơng đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà
nước để thực hiện sự thống trị đối với thiểu số những kẻ vi phạm dân chủ
của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Dân chủ là của quý báu
nhất của nhân dân. Là làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Đảng cộng sản việt nam khẳng
định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước; dân chủ
gắn liền với kỷ luật kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được
pháp luật đảm bảo; dân chủ là nguyên tắc tổ chức hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội.
Từ các cách tiếp cận trên , có thể hiểu dân chủ: là một giá trị xã hội
phản ánh chủ thể quyền lực là nhân dân, khẳng định những quyền cơ bản
của con người; là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền
thành một chế độ chính trị xã hội mà ở đó những quyền cơ bản của con
người (tự do, bình đẳng, tơn trọng dự thống nhất trong đa dạng…) được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ; đồng thời các quyền lực này được thể chế
thành các nguyên tắc đề quy định quyền lợi, trách nhiem65cua3 nhân dân
đối với nhà nước, cộng đồng và ngược lại.
Dân chủ là sản phẩm của lịch sử, là thành quả đấu tranh của giai cấp,
đấu tranh của giải phóng dân tộc, đấu tranh cho văn minh tiến bộ của loài
người qua các giai đoạn lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử đều ghi mốc quan
trọng trên bước đường phát triển dân chủ và thể hiện sự đấu tranh không
khoan nhượng với những yếu tố phi dân chủ (sự độc tài, chuyên chế, phát


xít…). Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã chỉ rõ dân chủ không phải là sản phẩm
của tự nhiên, cũng không phải là bẩm sinh , càng không phải là quà tặng của
thế giới siêu nhân nào đó, mà là kết quả của q trình đấu tranh trong trường
kỳ lịch sử của nhân loại vì sự tiến bộ, văn minh. Mỗi bước tiến của dân chủ
phản ánh bước tiến về quyền của con người. dân chủ phát triển càng cao
quyền con người càng được khẳng định; tự do bình đẳng trong xã hội càng
cao. Do vậy dân chủ ngày càng trở thành tiêu chí, thước đo của sự tiến bộ xã


hội, trình độ văn minh của lồi người. Chủ nghĩa Mác – lê Nin cũng khẳng
định dân chủ mang tính giai cấp sâu sắc. khơng có dân chủ trừu tượng, phi
giai cấp, ngoài giai cấp. Bản chất của dân chủ được thể hiện ở tính giai cấp
của nó.
Như vậy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ được xác lập sau khi giai
cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là đảng cộng sản giành
được chính quyền, tiến hành cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (CM tháng 10 Nga), hoặc thông qua cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một số nước (Việt Nam, trung
quốc…). Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không
ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao
động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý
xã hội. Nó gạt bỏ những kẻ đặc quyền, đặc lợi ra khỏi vị trí quản lý nhà
nước, quản lý xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ xã hội mới - xã hội
xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong
những nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân. Muốn vậy, vấn đề trung tâm là phải xây dựng, hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Nhà nước pháp quyền khơng phải cái riêng có của chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa xã hội cũng cần thực hiện nhà nước pháp quyền. Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác về bản chất với nhà nước pháp quyền tư
sản ở chỗ: pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản thực chất là công cụ của giai
cấp tư sản để thống trị và bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động;
pháp quyền dưới chủ nghĩa xã hội là công cụ thể hiện và thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật
và các công cụ khác, nhưng việc sử dụng bất cứ công cụ nào cũng phải trong
khuôn khổ pháp luật. Thông qua thực thi pháp luật, nhà nước thể hiện nhân
dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực
nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng rành mạch và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập
pháp, hành pháp, tư pháp.
Sau gần 30 năm đổi mới, về cơ bản nước ta đã chuyển đổi thành cơng
từ mơ hình kinh tế quan liêu bao cấp sang mơ hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và tiến từ dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Hiện nay đang từng bước phát triển và hoàn thiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để tiến lên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa


và xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hướng tới tương lai tốt
đẹp.
Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp cách mạng
xây dựng, phát triển đất nước ta để tiến lên CNXH
Trong lịch sử loài người, dân chủ vừa là chế độ xã hội, một vấn đề
chính trị mang bản chất giai cấp; vừa là một trong những giá trị xã hội mang
tính phổ biến, tính nhân loại to lớn. Chính nội hàm đa nghĩa, đa chiều này đã
làm dân chủ trở thành vấn đề thời sự thu hút mối quan tâm to lớn cả về
phương diện lý luận và thực tiễn. Q trình phát triển của lịch sử chính trị
nhân loại theo xu hướng tiến bộ cũng chính là quá trình phát triển của các

nền dân chủ. Xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về dân chủ và quyền con
người càng trở thành địi hỏi bức xúc. Nhìn từ phương diện đó, việc mở rộng
và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay vừa là mục tiêu, nhưng cũng là động
lực, là tiền đề, điều kiện quan trọng, góp phần giải quyết hàng loạt những
vấn đề chính trị - xã hội của đất nước
Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân
chủ phải được thực hiện trong cuộc sống thực tế ở từng cấp và trên tất cả các
lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và phải được
thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Cách mạng Việt Nam
từ khi có Ðảng lãnh đạo, bất kỳ ở giai đoạn lịch sử nào, dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Nước ta đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa cần xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì đây là một
mục tiêu quan trọng của cách mạng. Khơng có dân chủ thì khơng có chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà không thực hiện quyền dân chủ rộng rãi
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống với quảng đại quần chúng thì chỉ là chủ
nghĩa xã hội hình thức.
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước, Ðảng ta đã chỉ rõ một trong những
nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân thúc đẩy sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng tiến lên. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đại hội Ðảng tồn
quốc lần thứ VII thơng qua năm 1991 đã ghi: 'Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân'. Hiến pháp năm 2013 cũng
khẳng định, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phải được thể
chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn
liền với kỷ luật, kỷ cương và cơng bằng xã hội địi hỏi phải được thực hiện
trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trải qua gần



30 năm đổi mới nền dân chủ XHCN ở Việt Nam đã có những bước tiến quan
trọng và được thế giới thừa nhận.
Ðể tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HÐH đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện
thành công mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
của Ðảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa vì nó là một mục tiêu cơ bản của q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ðến lượt nó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát triển và hoàn thiện lại
trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến chín muồi, từ chỗ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển. Q trình
này cần có thời gian và môi trường ổn định, đặc biệt là ổn định chính trị, nếu
khơng có sự ổn định thì khơng thể làm được việc gì. Muốn duy trì ổn định
xã hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và lấy đó làm
động lực thúc đẩy sự phát triển tồn diện xã hội.
Trong q trình đổi mới, thực hiện chủ trương dân chủ hoá mọi mặt
đời sống xã hội, chúng ta có nhiều bước tiến quan trọng trong thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Trên lĩnh vực kinh tế: một là, chúng ta đã xác
lập và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế; đặt nền kinh tế dưới sự kiểm
soát của nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.
Hai là, chúng ta đang từng bước hình thành cơ chế kinh tế, mà ở đó mọi
người lao động đều được tham gia vào sở hữu, quản lý dưới nhiều hình thức
khác nhau. Trong khi khẳng định vai trò nền tảng của chế độ công hữu,
chúng ta cũng chủ trương đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp cổ phần, làm
cho nó trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản
xuất kinh doanh và sở hữu. Ba là, chúng ta đã nỗ lực kết hợp giữa việc thực
hiện nghiêm ngặt kế hoạch của Nhà nước với việc phát huy sáng kiến của
doanh nghiệp, của người lao động. Thông qua xây dựng và vận hành quy
chế dân chủ trong doanh nghiệp, quyền tham gia của người lao động vào xác

định phương án sản xuất kinh doanh, điều hành doanh nghiệp, bảo đảm các
chế độ cho người lao động... có những bước tiến đáng kể. Việc thực hiện chủ
trương giao quyền chủ động cho doanh nghiệp, quyền hành của giám đốc,
của cán bộ quản lý doanh nghiệp được xác định rõ hơn. Bốn là, Đảng, Nhà
nước có nhiều chủ trương, biện pháp để định hướng sự phát triển của thị
trường, làm cho thị trường thực sự là nơi cạnh tranh trên nguyên tắc giá trị,
chất lượng để bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Trên lĩnh vực chính trị, quyền làm chủ của nhân dân bao gồm: Thứ
nhất, quyền được có một Nhà nước thực sự dân chủ. Nhà nước thực sự là
công cụ thực thi những quyền chính đáng của nhân dân. Nhà nước và mọi


hoạt động của nó phải đặt dưới sự kiểm sốt trực tiếp và thông qua các tổ
chức đại diện của nhân dân. Nhân dân có quyền bày tỏ tín nhiệm hay bất tín
nhiệm với mọi cơ quan nhà nước, cơng chức nhà nước. Thứ hai, mở rộng
quyền của người dân tham gia vào công việc nhà nước. Mức độ nhân dân
tham gia vào công việc nhà nước và xã hội, hiệu quả của sự tham gia đó là
thước đo trình độ dân chủ về chính trị của nhân dân , trình độ dân chủ của
chế độ chính trị. Thứ ba, bảo đảm giữ vững định hướng XHCN, giữ vững
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo đảm cho
mọi người dân quyền tự do suy nghĩ, tự do ngơn luận, tự do tín ngưỡng. Thứ
tư, mọi đại biểu của dân phải được nhân dân bầu ra một cách thực sự dân
chủ; mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật... Nhìn vào thực tế,
trên cả bốn vấn đề vừa nêu, chúng ta đều có những bước tiến căn bản, góp
phần nâng cao quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã
hội; từ đó, tính tích cực chính trị của nhân dân có bước tiến mới về chất.
Trên lĩnh vực xã hội, chúng ta có những bước tiến quan trọng trên
những vấn đề cơ bản sau. Một là, quyền công dân, quyền con người của
nhân dân không chỉ được bảo đảm bằng pháp lý, thơng qua việc thể chế hố
các quyền đó thành luật, mà quan trọng hơn, nó được bảo đảm trong thực tế.

Hai là, quyền được bảo vệ về mặt xã hội của mọi cơng dân có nhiều chuyển
biến tích cực. Ba là, sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội, giữa các vùng của
đất nước, từng bước được khắc phục. Việt Nam đã hoàn thành chỉ tiêu xố
đói giảm nghèo trước thời hạn so với Mục tiêu thiên niên kỷ (MDG) mà Liên
hiệp quốc đưa ra và được nhiều nước xem là mẫu mực. Bốn là, hình thức các
tổ chức ngoài nhà nước ngày một đa dạng, phong phú; số lượng các tổ chức
ngoài nhà nước phát triển mạnh; vai trị của các thiết chế ngồi nhà nước
ngày một tăng.
Với sự thẳng thắn và ý thức tự phê bình nghiêm túc, chúng ta thấy
rằng việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cũng
có những khó khăn, hạn chế, thiếu sót như:
- Một số tổ chức và cấp ủy đảng còn có biểu hiện vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ, quan liêu, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, không
chấp hành nghiêm nghị quyết, không thực hiện tốt việc phê bình và tự phê
bình trong Ðảng.
- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cịn cồng kềnh, nặng nề; hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ; thực hiện cải cách hành chính
cịn chậm trễ gây nhiều phiền hà cho nhân dân. Chưa quy định rõ ràng hợp
lý chức năng, nhiệm vụ, cơ chế vận hành của tổ chức bộ máy dẫn đến tình


trạng vừa chồng chéo, vừa sơ hở, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau; một số bộ,
ngành không thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực
được giao phó.
- Tổ chức các đồn thể nhân dân nhìn chung khắc phục chưa tốt tình
trạng hành chính hóa trong hoạt động dẫn đến không nắm chắc được tâm tư,
nguyện vọng và vướng mắc của quần chúng để kịp thời giải quyết hoặc báo
cáo với tổ chức đảng, chính quyền phối hợp giải quyết.
- Một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ của Ðảng, Nhà nước
và các đoàn thể còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu, nhiệm vụ

của giai đoạn cách mạng mới. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một bộ
phận không nhỏ cán bộ sa sút về phẩm chất chính trị, về đạo đức lối sống,
lợi dụng chức quyền dẫn đến quan liêu, tham nhũng, sa vào chủ nghĩa cá
nhân.
- Trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của quần
chúng nhân dân trong những năm đổi mới, tuy đã được nâng lên một bước,
nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện non yếu. Sự hiểu biết về các quy định của
pháp luật, về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm cơng dân, nhìn chung cịn
chưa đầy đủ, cịn cảm tính, xi chiều. Tình trạng coi thường pháp luật, kỷ
cương, kỷ luật, quy tắc sinh hoạt xã hội vẫn cịn tiếp tục diễn ra.
Ðứng trước tình hình đó, việc mở rộng và phát huy dân chủ XHCN,
phát huy cao độ vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp CNH, HÐH ở
nước ta hiện nay đang là một nhiệm vụ to lớn đặt ra cho tất cả các cấp, các
ngành. Trước mắt, để làm tốt được nhiệm vụ đó, theo chúng tôi cần phải
nắm vững một số vấn đề có tính giải pháp sau đây:
Thứ nhất, phải ln ln quán triệt quan điểm dân chủ vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Quyền lực chính trị của nhân dân
khơng được bảo đảm sẽ dẫn tới tình trạng người dân thờ ơ, lãnh đạm đối với
xã hội, suy giảm tính tích cực chính trị - đó chính là đầu mối làm suy giảm
và đánh mất tiềm năng sáng tạo, mất động lực để phát triển. Khi dân chủ
được bảo đảm, con người và các quan hệ xã hội sẽ trở nên cởi mở và năng
động hơn. Nguồn lực của mọi nguồn lực, động lực của mọi động lực, động
lực sâu xa cho mọi sự phát triển chính là nhân tố con người.
Thứ hai, phải thực hiện dân chủ trong Ðảng, trong bộ máy nhà nước
và các đồn thể xã hội; đồng thời khơng ngừng nâng cao hiệu quả vận hành
của
cả
hệ
thống
chính

trị.


Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Ðảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tơn trọng
và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân
dân để xây dựng đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp
cách mạng. Người đảng viên cộng sản là người có tơn chỉ mục đích trung
thành và hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Vì vậy, trong q trình dân chủ hóa, trước hết phải tiến hành dân
chủ hóa trong Ðảng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, phê
bình và tự phê bình. Các tổ chức Ðảng, cũng như từng đảng viên, đều phải
hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Nếu trong nội bộ đảng
khơng có dân chủ thì khơng thể nói đến dân chủ ngồi xã hội. Phải thực hiện
dân chủ hóa và xóa bỏ bệnh hình thức ngay từ khâu bầu cử các cơ quan lãnh
đạo các cấp của Ðảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội.
Trong hệ thống chính trị, Ðảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo. Muốn
tránh nguy cơ độc đoán chuyên quyền - những biểu hiện thường thấy của
mất dân chủ - thì đảng phải ln đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
đối với hệ thống chính trị, mà trong đó cơ bản nhất là đối với nhà nước. Sự
lãnh đạo của Ðảng bảo đảm cho Nhà nước mang bản chất giai cấp công
nhân, thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, hoạt động theo đúng
đường lối, quan điểm của Ðảng, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo của Ðảng
tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính
trị, giúp Nhà nước hồn thành thuận lợi mọi nhiệm vụ của mình.
Mặt trận và các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội ngày càng có vai
trị to lớn khi các quan hệ xã hội dân sự ngày càng phát triển. Do vậy, Ðảng
phải lãnh đạo để định hướng Mặt trận và các đoàn thể thực hiện các mục tiêu
xã hội chủ nghĩa, gắn bó với quyền lợi của dân tộc, giai cấp và các hội viên,

đồn viên; đồng thời tơn trọng và khuyến khích tính năng động và tự chủ
của
các
đồn
thể

tổ
chức

hội.
Hoạt động của các thành viên trong hệ thống chính trị có chức năng, nhiệm
vụ riêng nhưng cùng nhau tạo ra một sức mạnh tổng hợp để nhằm đạt mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, khẳng định trên thực tế quyền lực chính trị thật sự
thuộc
về
nhân
dân
lao
động.
Thứ ba, phải bảo đảm các thể chế dân chủ được chế định bằng
nguyên tắc, luật pháp và các chuẩn mực văn hóa đạo đức. Ðối với xã hội,
một mặt, pháp luật ghi nhận và thể chế hóa quyền con người, quyền công
dân và bảo đảm về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện; mặt khác,


pháp luật trở thành phương tiện để các thành viên của xã hội có điều kiện
bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình...
Việc thực hiện dân chủ điều quan trọng là phải hoàn thiện các chế định
dân chủ để buộc các chủ thể cầm quyền dù muốn hay không cũng phải tn
theo. Nếu khơng có thể chế để qua đó nhân dân kiểm sốt được quyền lực thì

tất yếu sẽ dẫn đến xu hướng lạm quyền. Về dân chủ trực tiếp việc ban hành
Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở theo Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18-21998 của Bộ Chính trị và Nghị định số 29/1998/NÐ-CP ngày 11-5-1998 của
Chính phủ vừa qua là một hướng đi đúng đắn và đã đạt được những thành
tựu nhất định. Về dân chủ đại diện thì phải thơng qua các chủ thể quyền lực
trong hệ thống chính trị, thơng qua cấp ủy đảng, đại biểu Quốc hội và hội
đồng nhân dân các cấp, thơng qua những người lãnh đạo các đồn thể nhân
dân, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng... Các quan hệ dân chủ
ấy cần được định chế bằng luật pháp và chuẩn mực xã hội. Pháp luật không
thể quy định trách nhiệm chung chung và người dân thì khơng biết đại diện
của mình là ai. Phải xây dựng các thể chế để bảo đảm năng lực của sự đại
diện, hiệu quả của sự đại diện, từ khâu tổ chức hoạt động của các cơ quan
đại diện đến vị trí, vai trị, quyền hạn và trách nhiệm của những người đại
diện. Phải làm cho chế định bầu cử thật sự tự do, công khai, dân lựa chọn,
dân biết đầy đủ quá trình bầu cử, dân kiểm tra kết quả bỏ phiếu... Và như
vậy việc thực hiện dân chủ cịn có quan hệ trực tiếp với việc đổi mới về tổ
chức và phương thực hoạt động của hệ thống chính trị, vì nó được thực hiện
bằng hệ thống chính trị.
Thứ tư, phải bảo đảm tính tồn diện trong q trình mở rộng và phát
huy dân chủ. Quá trình dân chủ hóa phải được triển khai trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống từ kinh tế, chính trị, văn hóa tinh thần liên quan đến đời
sống của mỗi cá nhân, đời sống của cộng đồng; từ tư tưởng hành động của
con
người
đến
các
thiết
chế

hội.
Về kinh tế, cái cốt lõi là bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động. Những

lợi ích đó phải được thể chế hóa trong các quyền cơng dân: sở hữu, quản lý,
phân phối làm cho người lao động làm chủ thực sự về tư liệu sản xuất, tạo
động lực phát triển sản xuất kinh doanh là cơ sở để thực hiện lợi ích và tiến
bộ xã hội.
Về chính trị, phải bảo đảm cho nhân dân có quyền tham gia vào các
hoạt động quản lý điều hành của nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội một
cách trực tiếp và thông qua các đại diện ưu tú do mình lựa chọn. Phải bảo
đảm quyền dân chủ trong ứng cử, bầu cử, trong thảo luận, đóng góp ý kiến


xây dựng các dự án luật; trong sinh hoạt dân chủ ở các cơ quan dân cử, các
đoàn thể xã hội...
Về văn hóa, tinh thần, phải tạo cho các tầng lớp nhân dân có quyền
tự do hưởng thụ thành tựu văn hóa tiến bộ và tự do tư tưởng. Nhà nước bảo
đảm cho công dân quyền được thông tin, tự do ngơn luận, tự do tín ngưỡng,
tự do sáng tạo, quyền thảo luận và biểu quyết những vấn đề quan trọng trong
việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần xã hội...
Thứ năm, phải đẩy mạnh dân chủ ở cơ sở. Việc bảo vệ quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở và từ cơ sở là vấn đề rất quan trọng. Cơ sở là nơi trực
tiếp thực hiện đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước, là nơi sinh
sống, lao động sản xuất, công tác, nơi diễn ra tiếp xúc và mối quan hệ nhiều
mặt giữa các tầng lớp nhân dân với đảng bộ chính quyền, cơng chức điều
hành xử lý công việc thường ngày... Do vậy, cần phải xây dựng chế độ dân
chủ bắt đầu từ cơ sở, từ nền tảng của hành chính với sự tham gia thật sự của
quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước.
Thứ sáu, phải khơng ngừng nâng văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ
và năng lực thực hành dân chủ của quần chúng nhân dân lao động. Mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, phải do nhân dân tự tay mình thực hiện, đó là
ngun lý và nội dung của nền dân chủ XHCN. Nền dân chủ đó vì vậy, sẽ
phụ thuộc vào nền tảng xã hội, ý thức chính trị của nhân dân và khả năng

của nhân dân tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Các yếu tố bảo
đảm đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi mà trình độ văn hóa chính trị của
nhân dân đạt được ở những mức độ nhất định và ngày càng được nâng cao.
Thứ bảy, trong xã hội hiện đại cần phát huy vai trò là cầu nối thông
tin giữa dân với Ðảng của truyền thông đại chúng để làm cơ sở cho các cuộc
tranh luận, thảo luận, trưng cầu ý kiến qua đó nâng cao văn hóa dân chủ
trong xã hội. Ðây là một kênh quan trọng để hình thành dư luận xã hội nhằm
thực hiện chức năng góp phần mở rộng dân chủ XHCN. Truyền thơng đại
chúng cũng là diễn đàn, nơi dân chúng diễn đạt ý kiến của mình, nơi nhân
dân gửi đơn thư, khiếu nại trước khi các cơ quan chức năng vào cuộc.
Thứ tám, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đảm bảo
dân chủ và hội nhập quốc tế. Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “…Dân chủ
gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật,
được pháp luật đảm bảo…”. hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ, đồng bộ,
chặt chẽ, minh bạch phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế,
người dân dễ hiểu, đễ tiếp cận dễ thực hiện…


Tóm lại, ở nước ta trong giai đoạn hiện nay việc mở rộng và phát huy
dân chủ là mục tiêu và động lực phát triển. Hơn lúc nào hết chúng ta phải
quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phải "làm sao cho nhân dân
biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình". Do vậy,
"thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn".

Góp ý kiến vào Dự thảo các văn kiện trình Ðại hội XI của Ðảng
Về dân chủ XHCN ở nước ta
Thứ tư, 30/11/-0001 - 07:06 AM (GMT+7)
- Nội dung chủ yếu của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp cách mạng

xây dựng, phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1. Nội dung chủ yếu của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ lâu dài và trọng
yếu, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn vậy, vấn đề trung tâm là phải
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền khơng phải cái riêng có của chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa xã hội cũng cần thực hiện nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa khác về bản chất với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ: pháp quyền dưới
chủ nghĩa tư bản thực chất là công cụ của giai cấp tư sản để thống trị và bóc lột giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động; pháp quyền dưới chủ nghĩa xã hội là công cụ thể hiện
và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng
pháp luật và các công cụ khác, nhưng việc sử dụng bất cứ công cụ nào cũng phải trong
khuôn khổ pháp luật. Thông qua thực thi pháp luật, nhà nước thể hiện nhân dân là chủ thể
của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của
Tổ quốc và nhân dân.


Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống
nhất, nhưng có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực
nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Sau gần 25 năm đổi mới, về cơ bản nước ta đã chuyển đổi thành cơng từ mơ hình kinh tế
quan liêu bao cấp sang mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiến từ
dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay đang từng bước phát triển và
hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để tiến lên kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa và xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hướng tới tương
lai tốt đẹp.
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp cách
mạng xây dựng, phát triển đất nước ta để tiến lên CNXH
Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát

triển đất nước, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong cuộc sống
thực tế ở từng cấp và trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân
dân bầu ra và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Cách mạng
Việt Nam từ khi có Ðảng lãnh đạo, bất kỳ ở giai đoạn lịch sử nào, dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa cần xây
dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì đây là một mục tiêu quan trọng của cách
mạng. Khơng có dân chủ thì khơng có chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà không thực
hiện quyền dân chủ rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống với quảng đại quần
chúng thì chỉ là chủ nghĩa xã hội hình thức.
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước, Ðảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc cơ bản
để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng tiến lên.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đại hội
Ðảng tồn quốc lần thứ VII thơng qua năm 1991 đã ghi: 'Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bảo
đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân'. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phải được thể chế hóa quyền lực đó bằng pháp
luật, được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và công bằng xã hội
đòi hỏi phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội. Trải qua gần 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, nền dân chủ
XHCN ở Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng và được thế giới thừa nhận.
Ðể tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HÐH đất nước, mở
rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của Ðảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì nó là một mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Ðến lượt nó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát triển và hoàn
thiện lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ nghĩa
xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến chín muồi, từ chỗ chưa hồn thiện đến hồn
thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển. Quá trình này cần có thời gian và mơi trường



ổn định, đặc biệt là ổn định chính trị, nếu khơng có sự ổn định thì khơng thể làm được
việc gì. Muốn duy trì ổn định xã hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa
và lấy đó làm động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội.

Dân chủ và phát huy dân chủ theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã dày công nghiên cứu lý luận về dân
chủ và các giải pháp tích cực để phát huy dân chủ .Đảng ta xác định: " Dân chủ xã
hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước".
Qua 25 năm đổi mới, Đảng ta đã có những phát triển mới, quan trọng trong nhận
thức về dân chủ . Quan niệm về dân chủ được mở rộng . Dân chủ được xem xét nhiều
khía cạnh: Dân chủ là chế độ chính trị; dân chủ là giá trị; dân chủ là phương thức và
nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung đối với xã hội và dân chủ với mỗi cá nhân;
dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Dân chủ phản ánh
một bước chuyển từ thể chế chính trị dựa trên áp lực, tuân thủ mệnh lệnh sang thể
chế hợp tác, đồng thuận đầy trách nhiệm. Với việc đưa "dân chủ" - một mục tiêu của
xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã quán triệt sâu sắc và hoàn thiện hơn hệ mục tiêu xã hội
chủ nghĩa: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đặc biệt dân chủ khơng chỉ là mục tiêu, mà cịn là động lực phát triển
nhanh và bền vững của đất nước, vì nó phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, giải
phóng năng lực sáng tạo của con người.
Quan điển của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về dân chủ và phát huy dân chủ hiện
nay ở nước ta, chính là sự tiếp thu và phát triển các giá trị nhân loại về dân chủ .Tuy
nhiên, cũng không phải là sự áp dụng máy móc các hình thức dân chủ nước ngoài vào
nước ta theo “ sáng kiến” của một số vị đã từng tuyên bố: đa đảng là con đường duy
nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ”. Đó là một tun bố thể hiện
trình độ “chính trị vụng về, thiếu trí tuệ “(theo Giáo sư Trần Chung Ngọc – Việt kiều ở
Mỹ) mang tư tưởng ngoại lai để chống lại Đảng, chống chế độ ta. Nhân đây tôi xin
dẫn lời của ông Nguyễn Tâm Bảo trên báo Đàn chim Việt nói về dân chủ: Việc dân chủ

hóa phải là việc của người dân trong nước, xuất phát từ nhu cầu của chính họ…. chứ
khơng cần một trợ lực nào từ bên ngoài”. Quan niệm này, theo tôi cũng khá phù hợp
với quan điểm của Đảng ta được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XI trong việc thực
hiện dân chủ và phát huy dân chủ trong xã hội:” Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa
vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ
thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn
Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn…”
Đồng thời kiên quyết chống các biểu hiện lệch lạc như dân chủ hình thức, dân chủ
cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối, làm tổn hại lợi ích cơng dân và Nhà nước. Kiên
quyết bác bỏ các luận điệu giả trá về dân chủ, nhân quyền như luận điệu của một số
phần tử quá khích và những kẻ phản bội Đảng đang làm.
Dân chủ là một quá trình phát triển lâu dài , là kết quả của giáo dục ý thức dân chủ


và nâng cao năng lực thực hành dân chủ, phụ thuộc quá trình phát triển của cả kinh
tế, xã hội, con người và cả sự phát triển văn hóa dân chủ. Đây là một q trình khơng
nóng vội, khơng được thốt ly thực tiễn chính trị nước ta. Phải dân chủ trong tất cả
các cấp độ: Từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đến cấp cơ sở. Đặc biệt quan trọng là dân
chủ ở cơ sở, bởi vì nơi có hệ thống chính trị cơ sở được coi là Đảng và Nhà nước “ở
trong lịng dân”. Phải tìm tịi tổng kết thực tiễn để tìm ra và ngày càng hồn thiện các
hình thức thực hiện dân chủ, cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Đảng ta đã đi sâu làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan đến dân chủ và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện rõ trong Nghị quyết của Đại hội XI với các nội
dung cụ thể sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà
nước. Tập trung dân chủ là một nội dung thống nhất, không phải là sự kết hợp hai
mặt tập trung và dân chủ. Tập trung và dân chủ là tập trung trên cơ sở dân chủ - đối
lập với tập trung độc đoán, quan liêu, mất dân chủ. Dân chủ theo nguyên tắc tập
trung dân chủ là dân chủ hướng tới tập trung, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành
động.

Hai là, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đó là chế độ
hiệp thương dân chủ (khác căn bản với dân chủ trong Đảng) đặc biệt quan trọng
trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ
chức rộng rãi của tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội, với mục tiêu đoàn kết phát
huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực
hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội - một thể chế dân chủ thực chất mà
khơng cần nhiều đảng chính trị.
Ba là, các điều kiện để xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để phát huy
dân chủ về kinh tế phải thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Để phát huy dân chủ về chính trị phải nâng cao hiệu quả hoạt động của
cơ quan Nhà nước các cấp, bảo đảm nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, phấn
đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều kiện quyết định nhất để
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là Đảng nêu gương về dân chủ và lãnh đạo
tốt quá trình đổi mới hoạt động của nhà nước. Dân chủ trong Đảng quyết định dân
chủ trong tổ chức hoạt động nhà nước, gắn liền với dân chủ trong xã hội. Bởi vì trong
cơ quan Nhà nước có tổ chức Đảng, cán bộ chủ chốt đều là đảng viên, cán bộ Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện cả trong Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng
lãnh đạo q trình dân chủ hóa tất yếu phải lãnh đạo Nhà nước thực hiện dân chủ,
lãnh đạo nhân dân tham gia giám sát cơ quan, công chức nhà nước trong bảo đảm
quyền làm chủ nhân dân.
Vấn đề dân chủ và phát huy dân chủ, là một nội dung lớn, quan trọng trong đường lối
đổi mới của Đảng ta. Đây là kết quả của một quá trình 25 năm đổi mới, tiến hành
tổng kết thực tiễn - phát triển lý luận của Đảng. Trong điều kiện hiện nay, các thế lực
thù địch lợi dụng dân chủ. nhân quyền để kích động chống lại Đảng, chống chế độ thì
việc tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này là một nội dung quan trọng góp phần đưa Nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống và làm thất bại âm chống phá của các thế lực thù
địch.


QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI

TRỊ CỦA DÂN CHỦ
07 Tháng Tư 2014 / 531 lượt xem
TS PHẠM HỒNG CHƯƠNG
Viện Hồ Chí Minh

1. Dân chủ là mục tiêu và động lực của phát triển xã hội.
Trong quan niệm của mình, Hồ Chí Minh xem xét dân chủ là một thiết chế
chính trị, là phương thức tồn tại của nhân dân và là sản phẩm của tiến bộ xã hội.
Với những ý nghĩa đó, dân chủ có vai trị rất to lớn: dân chủ vừa là mục đích,
vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Từ chế độ dân chủ chủ nô tới chế độ dân chủ tư sản là những bước tiến vĩ
đại của các thiết chế xã hội, của những phương thức tồn tại của nhân dân và nó
biểu thị sự tiến bộ của xã hội lồi người. Tuy nhiên, nhân loại vẫn phải tiếp tục
tranh đấu cho một thiết chế xã hội mới, một phương thức tồn tại với một trình độ
văn minh mới: dân chủ xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng, trong lịch sử nhân loại, dân
chủ là mục tiêu tranh đấu của nhân loại, là cuộc đấu tranh giải phóng chính bản
thân con người, cuộc đấu tranh để vơn tới một xã hội triệu lần dân chủ hơn nền
dân chủ tư sản với áp bức giai cấp, áp bức dân tộc và chiến tranh.
Hồ Chí Minh khẳng định nước ta là một nước dân chủ và là dân chủ mới
để tiến đến chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó của Người đã được ghi thành tiêu chí
của đất nước ở thời kỳ tồn tại và phát triển của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà và hiện nay cũng là tiêu chí của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính
vơ sản để tiến đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân thực chất là để đạt tới mục tiêu xây dựng nước ta là nước dân chủ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ mục tiêu phấn đấu xây dựng nước Viêt Nam độc
lập, thống nhất, dân chủ, phú cường mà Hồ Chí Minh nêu lên từ Đại hội II của
Đảng (năm 1951) đến mục tiêu Viêt nam hồ bình, độc lập, thống nhất, dân chủ
và giàu mạnh được Người chỉ rõ sau năm 1954 và được ghi nhận như điều
mong muốn cuối cùng để lại cho Đảng và nhân dân ta trong Di chúc, dân chủ

luôn là mục tiêu phấn đấu khơng ngừng của cách mạng nước ta.[1]
Hồ Chí Minh khẳng định công việc đổi mới, xây dựng, kháng chiến, kiến
quốc, tổ chức xã hội là trách nhiệm, công việc của dân, do dân và quyền hành,
lực lượng đều ở nơi dân... Thực hiện dân chủ tức là sử dụng tất cả quyền hành
và lực lượng to lớn của nhân dân để hồn thành các nhiệm vụ vì lợi ích của


nhân dân. Đất nước ta thoát ra từ chế độ thực dân, nửa phong kiến tồn tại nhiều
thành phần kinh tế gắn với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau tất yếu hình
thành trong xã hội các động lực bộ phận. Để phát huy đầy đủ khả năng của các
động lực bộ phận tạo nên tổng hợp lực mạnh mẽ của đất nước phải giải quyết
đúng đắn mối quan hệ về lợi ích của tất cả các thành phần trong xã hội, làm cho
động lực của các bộ phận cư dân trong xã hội sắp xếp theo một hướng nhất
định. Dân chủ là giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của
các thành phần kinh tế, các giai tầng và các cộng đồng dân tộc trong xã hội nước ta. Sự nhất trí đó tổng hợp thành sức mạnh của dân tộc, tạo nên nội lực
mạnh mẽ đưa đất nước vượt qua tất cả khó khăn, thử thách. Hồ Chí Minh viết:
"Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của
nhân dân đưa cách mạng tiến lên"[2] và “Chế độ của chúng ta thực hiện dân chủ
đồng thời thực hiện sự đoàn kết tồn dân” [3] . Do đó, Người cho rằng phải "vận
động tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một người nào, góp
thành lực lượng tồn dân, để thực hành những công việc nên làm, những cơng
việc Chính phủ và đồn thể giao cho"[4] .
Như vậy, là mục tiêu nhưng dân chủ đồng thời là động lực của sự phát
triển xã hội. Vai trò động lực của dân chủ đã được thể hiện rất rõ rệt trong tồn
bộ tiến trình cách mạng nước ta. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đưa nhân
dân ta từ địa vị bị áp bức lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và hoạt
động với tư cách là các chủ thể tự giác xây dựng xã hội mới đã tập hợp được
toàn dân tộc và khối đoàn kết đó đã đảm bảo cho tính hợp pháp của chế độ dân
chủ cộng hoà mới được sáng lập sau cách mạng tháng Tám bằng Tổng tuyển
cử dân chủ. Trong điều kiện cam go của đất nước sau cách mạng tháng Tám,

quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện thơng qua bầu cử là vũ khí hữu
hiệu duy nhất được sử dụng vào thời điểm đó để bảo vệ thành quả của cách
mạng là chế độ dân chủ non trẻ ở tình thế ngàn cân treo đầu sợi tóc, với thù
trong, giặc ngồi.
Dân chủ trong lĩnh vực chính trị còn được khẳng định bằng việc thực hiện
từng bước dân chủ trong các chính sách về kinh tế, văn hố, xã hội. Điều này
thu hút ngày càng đông nhân dân tham gia vào thực hiện các nhiệm vụ của đất
nước, hình thành những điều kiện làm sâu rộng thêm nền tảng dân chủ, tạo ra
những tiền đề mạnh mẽ trên các lĩnh vực đa xã hội tiến lên một trạng thái mới.
Cũng chính nhờ các phong trào dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa (nh ư
phong trào chống giặc đói - với thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm; phong trào
chống giặc dốt - với phong trào bình dân học vụ, và việc hiện thực hố nền dân
chủ đất nước bằng phát động phong trào xây dựng đời sống mới...). Hồ Chí
Minh đã tạo nên động lực mạnh mẽ của toàn dân tộc, đoàn kết toàn dân, làm
hậu thuẫn vững chắc cho các hoạt động chính trị - ngoại giao của Nhà nư ớc ta
sau cách mạng Tháng Tám thắng lợi.


Như vậy, dân chủ đã tạo ra địa bàn để phát huy mọi tiềm lực, tập hợp các
xu hướng lành mạnh trong dân tộc làm gia tăng và phát huy Thế và Lực của đất
nước và cũng vì thế vai trị động lực của dân chủ có giá trị to lớn và lâu bền.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do nhân dân tiến hành đem lại độc lập cho Tổ
quốc và đáp ứng mơ ước ngàn đời của đa số cư dân Việt Nam là nông dân về
ruộng đất, đưa tới sự tự do cho con người và vị trí của người làm chủ khi tham
gia vào các hoạt động chính trị của đất nước đã đem lại nguồn nội lực cực kỳ vĩ
đại cho hai cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện oanh liệt. Thắng lợi của dân tộc
qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc là minh chứng sáng tỏ nhất vai trò động lực
của dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vai trị ấy đã được Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy và nó đã thể hiện bằng thắng lợi thực tế của
cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.

Thành công của công cuộc đổi mới ngày nay, xét tới cội nguồn, cũng được
khởi đầu bằng q trình dân chủ hố trong các lĩnh vực đã tạo nên động lực
mạnh mẽ đưa đất nước ta vợt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội trong
thập kỷ 80. Đây lại là một hiện thực sinh động nữa minh chứng về tầm quan
trong và sự vững bền của động lực dân chủ đối với sự phát triển xã hội, đối với
sự tiến hoá của dân tộc ta.
Tất cả các vấn đề trên làm sáng tỏ hơn nữa khái niệm dân chủ của Hồ Chí
Minh khi Người coi nguồn gốc của quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
2- Thực hành dân chủ là chìa khố của sự phát triển.
Xuất phát từ quan niệm về quyền hành, lực lượng cũng như lợi ích đều
thuộc về nhân dân, Hồ Chí Minh coi thực hành dân chủ là sự huy động và sử
dụng được tối đa quyền hạn, lực lượng của toàn dân để thực hiện những nhiệm
vụ của cách mạng vì lợi ích của nhân dân ở tất cả các thời kỳ phát triển.
Vai trị quan trọng đó được Hồ Chí Minh thực hiện rất thành công trong
thực tiễn cách mạng nước ta. Thực hành dân chủ trong lĩnh vực chính trị bằng
cách tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng nhà nước dân chủ đầu tiên ở
Đơng Nam Á, Hồ Chí Minh đã khơi dậy và nâng cao động lực tinh thần làm chủ
đất nước của mỗi người và cả dân tộc, trong đó mỗi người dân sử dụng lá phiếu
của mình như một bảo đảm cao nhất để giữ nền độc lập dân tộc mới giành được. Nền dân chủ mới ngay sau khi đợc thiết lập đã lập tức thể hiện bản chất,
vai trị của mình: phát động tồn dân tham gia thực hiện thành công các nhiệm
vụ chống giặc đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm, đưa đất nước và
chế độ mới vượt qua bước hiểm nghèo của lịch sử. Chính phong trào do nhân
dân thực hiện trên các lĩnh vực đã khẳng định vị trí là chủ và làm chủ của mỗi
người dân trong một quốc gia độc lập và điều đó tạo ra sức mạnh tổng hợp vô
cùng lớn lao đưa cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm nghèo để tiến
lên.


Đó cũng là sự thành cơng đầu tiên của tiến trình dân chủ hố ở nước ta
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Điều đó cho thấy, mỗi

bước tiến của dân chủ đem lại cho con người, cho xã hội một sức sáng tạo mới,
một khởi động lực mới cho sự phát triển của con người và xã hội.
Thành cơng của Hồ Chí Minh là ở chỗ, tất cả các nhiệm vụ của dân tộc đều
được xây dựng thành các phong trào quần chúng, phong trào của cả dân tộc
thông qua việc phát động tồn dân thi đua vì lợi ích của chính nhân dân: phong
trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; hũ gạo cứu đói; tuần lễ vàng; phong
trào bổ túc văn hoá xoá nạn mù chữ; phong trào đời sống mới; phong trào thi
đua ái quốc, phong trào thi đua giết giặc, phong trào trồng cây, phong trào rèn
luyện sức khoẻ, phong trào thi đua lao động, sản xuất mỗi người làm việc bằng
hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt... Đó thực sự là các phong trào dân chủ được
phát triển rộng rãi trên mọi lĩnh vực đã đoàn kết và động viên được tất cả các lực
lượng, trí tuệ, sáng kiến của nhân dân để thực hiện thành công các nhiệm vụ
của cách mạng nước ta.
Theo Hồ Chí Minh "Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ
với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.
Những sáng kiến đó được khen ngợi thì những người đó càng hăng hái và người khác cũng học theo.
Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết
điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều"[5] . Như thế, thực hành dân chủ đa lại
tác dụng giải phóng tiềm năng sáng tạo của nhân dân và trở thành động lực của
sự tiến bộ và phát triển khơng chỉ đối với tồn xã hội mà đến với từng tập thể và
mỗi con người. Trái lại, Người cho rằng, nếu trong cán bộ, nhân dân "ít sáng
kiến, ít hăng hái là vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: cách lãnh đạo của ta khơng
được dân chủ"[6].
Như vậy, thực hành dân chủ, một mặt khẳng định hơn nữa quyền làm chủ
của nhân dân lao động, mặt khác tạo ra điều kiện khắc phục những hạn chế của
sự vi phạm dân chủ, phát huy sáng tạo cá nhân và tập trung được trí tuệ của
tồn dân. Đây chính là q trình tạo ra những tiền đề chính trị đ ưa xã hội tiến lên
trạng thái mới phát triển hơn nữa nền dân chủ xã hội.
Quan điểm và sự chỉ đạo thực tiễn trên đây của Hồ Chí Minh cho thấy: Người không chỉ phát huy tác dụng của thực hành dân chủ mà cịn đưa nó trở
thành các phong trào nhân dân, sử dụng quyền hành, lực lượng và phát huy trí

tuệ của nhân dân để đạt tới mục tiêu ai cũng được hưởng quyền tự do, dân chủ,
vì lợi ích của nhân dân. Nhờ thực hành dân chủ mà việc thực hiện các nhiệm vụ
cách mạng được tổ chức thành các phong trào nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh
đã phát huy tối đa nội lực của dân tộc để thành cơng trong cả q trình vận động
và thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng. Đưa nhân dân trở thành chủ thể tự
giác tham gia vào các hoạt động cách mạng và xây dựng xã hội mới thông qua


các phong trào dân chủ là tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, Người nói: "Có phát
huy dân chủ cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng nhân dân đa cách
mạng tiến lên"[7] và "Chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa,
dưới chế độ mà nhân dân lao động làm chủ nước nhà, thì mới có phong trào thi
đua"[8]. Khi trở thành phong trào thi đua của nhân dân, xã hội tự nó đã tiến lên
một điểm xuất phát mới với trạng thái mới, do đó, q trình dân chủ hố mở ra
sự phát triển mới cho xã hội.
Vì vậy, Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh tới vấn đề phát triển và thực hành
dân chủ trong xây dựng chế độ dân chủ mới, xây dựng nhà nước, xây dựng
Đảng, cũng như các tổ chức quần chúng xã hội, xây dựng khối đoàn kết toàn
dân... Theo Người, "phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ,
làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành cơng. Quần
chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng" [9].
Những vấn đề này cho thấy, Hồ Chí Minh đã hiểu rõ trình độ của một nền
dân chủ chính là thể hiện ở mức độ tham gia của nhân dân vào các hoạt động
của xã hội, của đất nước. Và như thế, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy các mục tiêu
dân chủ được chính nhân dân thực hiện bằng những phong trào dân chủ sẽ liên
tục xây đắp được những nấc thang trình độ dân chủ mới với sự nỗ lực và phát
triển ngày càng cao của khối đồn kết tồn dân. Do đó, với dân chủ, nhân dân
có thể thực hiện được bất cứ nhiệm vụ nào vì sự nghiệp giải phóng của chính
bản thân nhân dân.
Vì vậy, Hồ Chí Minh tổng kết: "Thực hành dân chủ là chìa khố vạn năng

để giải quyết mọi khó khăn"[10].

Bản chất chế độ dân chủ của chúng ta
Những ngày gần đây, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta, phủ nhận những thành tựu cách mạng, lợi dụng các vấn
đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “tự do báo chí”, những tiêu cực trong xã hội để
chống
phá,
vu
cáo
Việt
Nam
vi
phạm
dân
chủ.
Chúng xuyên tạc, phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa; ngợi ca, kích thích chủ nghĩa tự do, thực dụng. Những quan điểm
“đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” cùng với những luận điệu bóp méo sự thật “Việt
Nam vi phạm dân chủ”, “mất dân chủ”, vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam là “trở lực”
cho việc thực hiện dân chủ… do các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài kết hợp chặt
chẽ với nhau liên tiếp tung ra trong suốt hơn hai mươi năm đổi mới, lại rộ lên hiện nay


với

sắc

thái


biểu

hiện

mới.

Cần khẳng định lại rằng, luận điểm “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” chỉ có tính
chất mị dân, thực chất là nhằm tước bỏ tính chất xã hội chủ nghĩa của nền dân chủ ở nước
ta.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ khác hẳn về bản chất và đối lập về nguyên tắc
với dân chủ tư sản. Đó là chế độ dân chủ “gấp triệu lần” hơn bất cứ chế độ dân chủ nào
trong lịch sử như V.I.Lênin từng khẳng định. Thực thi dân chủ sai ngun tắc, vơ ngun
tắc đều là trái với lí tưởng của cách mạng, với bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, có thể
dẫn đến hậu quả khó lường. Xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, thì việc dân
chủ hóa sẽ trượt sang dân chủ phi xã hội chủ nghĩa và đồng nghĩa với việc thủ tiêu chủ
nghĩa xã hội. Cần nhớ lại một bài học đau xót và thấm thía về sự vi phạm dân chủ và thực
thi dân chủ sai nguyên tắc ở Liên Xô trong thời gian cải tổ. Những đơn thuốc “công khai
hóa”, “dân chủ hóa”, “đa ngun chính trị” đưa ra nhằm cải tổ chủ nghĩa xã hội lại tạo
“thời cơ”, điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch ráo riết hơn, quyết liệt hơn trong
mưu đồ chống phá và dẫn đến thủ tiêu chế độ Xô viết.
Thực tiễn cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ nước ta ngày càng
thể hiện sinh động trong cuộc sống hằng ngày của quần chúng nhân dân. Kể từ khi khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam),
các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
chính thức đứng lên làm chủ, tự mình tổ chức, cai quản và xây dựng xã hội mới. Đó là
thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Chế độ dân chủ ở nước ta, xét về bản chất, là
một thể chế chính trị mà trong đó quyền lực chính trị - xã hội thuộc về nhân dân; là chế
độ bảo đảm quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân trong đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, tinh thần; phát huy cao độ tính tích cực sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và thông qua

Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong các
văn bản hiến pháp, pháp luật, mà ngày càng được thể hiện sinh động trong cuộc sống
hằng
ngày.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động
lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong xã hội ta, mọi công dân Việt Nam đều có quyền
tham gia quản lí xã hội một cách trực tiếp, hoặc thông qua người đại diện do mình lựa
chọn. Trong các cuộc bầu cử Quốc hội và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, tỉ lệ cử tri
đi bầu rất cao. Tỉ lệ đại biểu là nữ, người dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo trong Quốc
hội ngày càng cao, nhất là tỉ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đứng thứ hai trong khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, đứng thứ 9/135 nước trên thế giới. Việc truyền hình trực tiếp các
phiên chất vấn của Quốc hội; việc thực hiện đối thoại trực tuyến của Chủ tịch nước, của
Thủ tướng Chính phủ… với nhân dân; những cuộc tiếp xúc của các đại biểu với cử tri
chuẩn bị cho các kì bầu cử Quốc hội đã tạo điều kiện tốt hơn cho người dân thực hiện
quyền làm chủ, thực thi quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước và đề đạt
nguyện vọng, ý kiến của mình. Điều đó thể hiện sâu sắc bản chất tốt đẹp và tính ưu việt
của
chế
độ
dân
chủ

nước
ta.


Trong chiến lược “diễn biến hịa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù
địch triệt để sử dụng các phương tiện truyền thơng hiện đại trong đó có mạng Internet vào
việc truyền bá các quan điểm thù địch, sai trái, xun tạc, cơng kích chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà

nước. Trong rất nhiều tài liệu tán phát trên mạng chúng vu cáo Đảng và Nhà nước ta vi
phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, mà biểu hiện lộ liễu nhất là mới đây, một số
tổ chức và cá nhân đã dựng đứng lên “tình hình vi phạm quyền tự do ngơn luận nghiêm
trọng ở Việt Nam”; rồi kêu gọi Việt Nam “thả các blogger bị cầm tù và tôn trọng tự do
Internet”.
Những ai xuyên tạc tình hình Việt Nam cần phải thấy rằng, hiện nay báo chí Việt Nam có
sự phát triển nhanh về số lượng, loại hình, ấn phẩm, đội ngũ những người làm báo, số
lượng người đọc; cơ sở vật chất kĩ thuật, cơng nghệ, năng lực tài chính, sự tác động và
ảnh hưởng xã hội. Báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị
- xã hội, là diễn đàn của nhân dân; quyền tự do báo chí được bảo đảm bằng pháp luật và
thể
hiện
cụ
thể
trong
thực
tiễn.
Ở Việt Nam, quyền tự do báo chí, tự do hội họp theo quy định của pháp luật. Hiện nay cả
nước có 18.259 cơ sở của tổ chức xã hội, 1.681 cơ sở thuộc tổ chức xã hội - nghề nghiệp;
có hơn 500 cơ quan báo chí, với hơn 700 ấn phẩm báo chí, hơn 2.500 trang thơng tin điện
tử đang hoạt động. Những con số này vẫn tiếp tục gia tăng. Hệ thống phát thanh truyền
hình phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Hầu hết các xã được phủ sóng truyền
hình. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới về
Internet. Đó là kết quả biểu hiện rõ ràng và sinh động về quyền tự do ngơn luận, tự do
báo chí ở nước ta. Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam có quyền ngăn chặn việc lưu
hành trên mạng các thơng tin và hình ảnh vi phạm thuần phong mĩ tục, kích động bạo lực,
khiêu dâm, truyền bá các tài liệu chống phá đường lối, chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước, vi phạm an ninh quốc gia. Đó hồn tồn khơng phải là “hạn chế dân chủ”,
ngăn chặn sự “bày tỏ quan điểm ôn hịa trên Internet” như có người cố tình gán ghép.
Những luận điệu vu cáo Đảng và Nhà nước ta “vi phạm” tự do ngơn luận, tự do báo chí là

những
luận
điệu

căn
cứ,
nhằm
dụng
ý
xấu.
Cần phải thấy rằng, dân chủ bao giờ cũng gắn liền với pháp luật và kỉ luật, kỉ cương. Bất
cứ một nền dân chủ nào cũng vậy, dù là dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa đều
tồn tại trong khn khổ pháp luật. Dân chủ khơng có nghĩa là dân chủ vô nguyên tắc,
càng không thể là vơ chính phủ. Tự do ngơn luận, tự do báo chí khơng có nghĩa là tự do
đảo lộn “chính”, “tà”. Báo chí phải thực sự là “vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phị chính
trừ tà”. Lợi dụng dân chủ, lợi dụng tự do báo chí, tự do Internet để gây mất ổn định chính
trị - xã hội, chống lại Tổ quốc và dân tộc là hành động không thể chấp nhận được, là trái
với
dân
chủ.
Dù cịn có những hạn chế nhất định trên con đường hoàn thiện, nhưng bản chất chế độ
dân chủ ở nước ta là tốt đẹp và ưu việt. Bản chất tốt đẹp và tính ưu việt đó khơng phải tự
nhiên mà có, mà đó là kết quả của biết bao mồ hôi công sức và cả máu xương của nhiều


thế hệ người Việt Nam. Chúng ta phải kiên quyết bảo vệ, giữ gìn, nâng cao và phát huy
trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam khi bước vào công cuộc
đổi mới và hiện nay
22:45' 25/11/2014

TCCSĐT - Công cuộc đổi mới ở nước ta đã diễn ra trong từng lĩnh vực của đời sống
xã hội từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX; đến năm 1986 công cuộc này diễn ra
một cách tồn diện khi có chủ trương đổi mới của Đảng tại Đại hội VI. Những thành
cơng có được ngày hôm nay là kết quả khởi phát từ quan điểm, đường lối chiến lược
đúng đắn của Đảng ta về công cuộc đổi mới đất nước.

Chủ nghĩa xã hội theo mơ hình của Liên Xơ, cịn gọi là mơ hình Xô-viết, ra đời ở nước
Nga sau Cách mạng Tháng Mười, sau đó được áp dụng trong tồn hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa xã hội kiểu Xơ-viết đã có
một chặng đường lịch sử vẻ vang, cũng như có sự đóng góp lớn lao đối với sự phát triển
của nhân loại. Song, đến những năm 80 của thế kỷ XX, mơ hình này đã xuất hiện những
vấn đề về động lực phát triển, dẫn đến sự khủng hoảng trong toàn bộ hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa.
Để thoát khỏi khủng hoảng, các nước xã hội chủ nghĩa đã áp dụng một số giải pháp sau:
1- Duy trì mơ hình Xô-viết và tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa; 2- Thay đổi
căn bản mơ hình Xơ-viết và từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đó là giải pháp của Liên Xô
và các nước Đông Âu trước đây; 3- Thay đổi từng bước mơ hình Xơ-viết và tiếp tục thực
hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa bằng phương thức mới. Đó là giải pháp của Trung Quốc
và Việt Nam; đến nay Cu Ba cũng đang thực hiện.
Thực tiễn gần 30 năm qua đã chứng minh giải pháp thứ ba tối ưu hơn giải pháp thứ nhất
và thứ hai.
Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam khi bước vào công
cuộc đổi mới
Trước hết, thực hiện cơng cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi phương thức, chiến lược đi
lên chủ nghĩa xã hội, nhưng không xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà thực hiện mục
tiêu ấy bằng phương thức, chiến lược mới. Đây là quan điểm cơ bản nhất, là nền tảng cho
các quan điểm khác. Thực tế cho thấy, ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, thực
hiện cải tổ mà từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì sẽ dẫn đến mất phương hướng và hỗn
loạn.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững vai trị

lãnh đạo của Đảng Cộng sản, khơng chấp nhận đa ngun chính trị, đa đảng đối lập, vì


đây là nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình thực
hiện cải tổ, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định xóa bỏ Điều 6, Hiến pháp
Liên Xơ về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực chất, đó khơng chỉ là sự tước
quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý, thừa nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập,
tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị khác vươn lên đoạt quyền, mà cịn là sự từ bỏ
mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và giữ vững vai trị lãnh đạo của
Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, bởi
chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ là nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn là cơ sở để xây
dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội và nhờ đó mới có thể thực hiện được mục tiêu xã hội
chủ nghĩa. Ngược lại, nếu từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu dẫn đến phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như Goóc-ba-chốp đã thực hiện
trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô trước đây.
Thứ tư, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội nói
chung, nhất là đối với lực lượng vũ trang (quân đội và cơng an). Đảng phải lãnh đạo tồn
diện, tuyệt đối và trực tiếp lực lượng vũ trang. Bởi vì, nếu lực lượng vũ trang bị trung lập
hóa, chỉ có trách nhiệm bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, khơng phụ thuộc
vào đảng phái nào, thì thực chất là tước quyền lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ
trang. Cách thức này đã được áp dụng ở Liên Xô thời kỳ cải tổ.
Thứ năm, hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc gia, tiếp
tục thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn gần 30 năm qua đã chứng
minh đó là quan điểm đúng đắn. Chúng ta đã làm bạn với nhiều nước trên thế giới và
thiết lập quan hệ ngày càng tốt đẹp, nhân dân ta giao lưu với nhân dân các nước, lãnh đạo
Đảng và Nhà nước ta được các nước trân trọng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ. Thực tiễn cũng cho thấy, việc thực hiện công
cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây có sự chi phối và sao chép tư tưởng chính trị từ bên
ngồi, vì vậy đã gây nên sự sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thứ sáu, công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi mới,
vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính trị.
Ngay trong đổi mới kinh tế cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến các lĩnh vực
khác. Trong đổi mới chính trị, việc xác định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đã tác động đến đổi mới tồn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy, gần 30 năm qua đất
nước ta vừa ổn định, vừa phát triển. Công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây đã thực hiện
một cách cấp thời, thiếu trình tự, cụ thể là: ban đầu đổi mới doanh nghiệp, rồi đến 100
ngày thực hiện tư nhân hóa, áp dụng nền dân chủ tư sản vào xã hội Xô-viết,... Kết cục,
dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có thể khẳng định, sự đúng đắn của quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới nước ta gần 30 năm qua.
Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay


Những quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay và những
năm tới vẫn phải dựa trên những quan điểm, đường lối chiến lược ban đầu của thời kỳ đổi
mới, song cần được phát triển và hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn.
Hơn nữa, những quan điểm, đường lối chiến lược đó phải ln được kiểm chứng qua
thực tiễn gần 30 năm qua và những năm tiếp theo.
Ngoài những thế lực thù địch tìm mọi cách phủ nhận, ngay trong nội bộ ta cũng có một
số người muốn xét lại những quan điểm, đường lối chiến lược nói trên của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Những người này cho rằng, nên từ bỏ mục tiêu định hướng xã hội chủ
nghĩa, vì chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô cũng như ở một loạt nước Đông Âu, và
cần trở lại thời kỳ dân chủ nhân dân, vì mục tiêu cơ bản của chúng ta là đất nước giàu
mạnh; nên từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin vì đây là hệ là tư tưởng đã lỗi thời và ngay ở
những nước sản sinh ra hệ tư tưởng này người ta cũng đã từ bỏ nó; nên bỏ Điều 4, Hiến
pháp nước ta và thừa nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, bởi chỉ có như vậy, xã
hội ta mới thật sự dân chủ, mới chống được tham nhũng; lực lượng vũ trang cần được
trung lập hóa, chỉ có trách nhiệm bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, bởi có
như vậy mới thể hiện sự tiến bộ của xã hội dân chủ; cần đẩy nhanh cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước (thực chất là tư nhân hóa);…
Để góp phần khắc phục những quan điểm nêu trên, đồng thời lý giải sự đúng đắn của
quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng ta hiện nay, cần làm rõ một số nội dung sau:
Một là, chúng ta xác định xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (trước đây xác định trực tiếp bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội) là mục tiêu nhất quán, điều mà Đảng ta đã xác định từ khi bước vào
công cuộc đổi mới, cũng như cho hiện tại và mai sau. Nhưng, cần làm rõ mô hình xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nước ta hướng tới. Dĩ nhiên, chúng ta khơng hướng tới mơ hình chủ
nghĩa xã hội kiểu Xô-viết đã từng tồn tại, phát triển trong thế kỷ XX. Thực hiện công
cuộc đổi mới chính là chúng ta đang tìm mơ hình phát triển của chủ nghĩa xã hội trong
hiện tại và tương lai. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã ghi: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp; có văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới"(1).
Hai là, tiếp tục giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản, khơng thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập. Trong thế kỷ XX, Việt Nam ở vị trí trung tâm của cơn lốc cách
mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên thắng lợi ở một nước thuộc địa, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam, tất cả các lực
lượng, xu hướng chính trị khác đều tan rã, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam đứng vững và
lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Do vậy, Đảng ta nắm quyền lãnh đạo cách mạng là tất


yếu lịch sử và trở thành đội tiên phong cách mạng, thực chất là giới tinh hoa của dân tộc một trong những nhân tố quyết định vận mệnh của đất nước trong thế kỷ XX. Sang thế kỷ
XXI, Đảng ta vẫn là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong

của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh nghiệm lịch sử trong một vài
thập niên gần đây cho thấy, một chế độ chính trị - xã hội đang thực hiện nhất nguyên
chính trị, do một đảng lãnh đạo mà chuyển sang thực hiện đa ngun chính trị, đa đảng
đối lập thì rất có thể dẫn đến thảm họa “cốt nhục tương tàn”. Song, để khơng dẫn đến đa
ngun chính trị, đa đảng đối lập, điều cơ bản là Đảng ta phải thực sự là đội tiên phong
cách mạng, đủ sức lãnh đạo đưa Việt Nam trở thành một nước hùng cường trên con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, trước hết phải đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Ba là, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng trong
Đảng, đồng thời là cơ sở để xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội. Xã hội hiện đại càng
tiến hóa, càng phát triển thì một số kết luận cụ thể nào đó của chủ nghĩa Mác - Lê-nin có
thể khơng cịn hồn toàn phù hợp trong mọi lúc, mọi nơi, mọi trường hợp, song những
giá trị cơ bản, căn cốt của học thuyết này ngày càng được chứng minh rõ hơn, những dự
báo của của các nhà kinh điển ngày càng tiến gần đến chân lý hơn, sát thực hơn. Sự phát
triển của nhân loại nói chung và của dân tộc ta nói riêng trong thế kỷ XXI khơng thể
thiếu vắng tư tưởng của C. Mác. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, sẽ trường tồn cùng dân tộc. Ngay cả những
giá trị khoa học và nhân văn của các nhà tư tưởng trong lịch sử, tuy thời đại đã qua,
nhưng những nhân tố cốt lõi của chúng vẫn đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển
tiếp theo của nhân loại. Hơn nữa, C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lê-nin là những người giữ
vai trò rất quan trọng trong việc sáng lập ra Đảng Cộng sản nói chung và Quốc tế Cộng
sản. Một chính đảng cách mạng chân chính sẽ ln trung thành với những người sáng lập
ra mình.
Bốn là, lực lượng vũ trang phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của
Đảng Cộng sản. Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xây dựng và rèn luyện, là kết quả của quá trình đấu tranh
cách mạng: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị và tiến tới đấu tranh vũ trang giành
chính quyền. Đấu tranh vũ trang là sự tiếp tục của đấu tranh chính trị dưới hình thức mới.
Sự ra đời của lực lượng vũ trang là từ chính trị, chứ khơng phải từ phi chính trị. Đến nay,

Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, song các lực lượng thù địch và những người ngộ
nhận vẫn cho rằng, lực lượng vũ trang cần được trung lập hóa, khơng thuộc sự lãnh đạo
của Đảng. Điều này là phi lơ-gích, phi lịch sử và phi khoa học. Lý luận phổ thơng của
khoa học chính trị cũng đã chỉ rõ: một giai cấp, một lực lượng xã hội hay một cá nhân, để
có thể giành, giữ và thực thi quyền lực, phải có sức mạnh về bạo lực, vật chất hoặc trí tuệ,
nói cách khác cần có "súng", có "tiền" hoặc có tri thức, văn hóa. Tuy trí tuệ hay tri thức,
văn hóa ngày càng có vai trị quan trọng, nhưng bạo lực và vật chất, tài chính vẫn là sức
mạnh không thể thiếu trong điều kiện hiện nay. Trung lập hóa lực lượng vũ trang là thủ
đoạn được áp dụng để tước quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trước đây; ngày
nay, một số người lại muốn áp dụng thủ đoạn đó với Đảng ta.


Năm là, về quan hệ quốc tế, Văn kiện Đại hội XI đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước;
vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự
nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(2). Như vậy,
quan điểm nói trên là tiếp tục và phát triển quan điểm của Đảng ta về quan hệ quốc tế khi
bước vào thời kỳ đổi mới, trong đó, làm rõ hơn hai nội dung: đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Chúng ta tuyệt nhiên khơng đứng về phía nước này
để chống lại nước kia, càng không thể nhờ cậy nước lớn này để chống lại nước khác.
Sáu là, bước vào công cuộc đổi mới cũng như hiện nay phải bảo đảm cho đất nước vừa
ổn định, vừa phát triển, do vậy, phải có bước đi đúng cả trong lĩnh vực kinh tế và chính
trị. Về kinh tế, chúng ta đang tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mơ hình tăng trưởng, trong
đó có một nhiệm vụ quan trọng là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, song không phải
thực hiện một cách tức thời, mà phải tiến hành từng bước. Những bài học phải trả giá quá
đắt về sự vội vàng mở quá nhiều khu cơng nghiệp, đầu tư tràn lan, nhanh chóng xây dựng
các tập đoàn kinh tế,… đã làm tổn thất biết bao nguồn lực của đất nước. Việc tái cấu trúc

nền kinh tế khơng thể nóng vội, mà cần có tầm nhìn chiến lược sâu sắc. Về chính trị, cơ
bản là phát huy dân chủ, trước hết là trong Đảng, trên cơ sở đó mở rộng ra tồn xã hội,
song phải thực hiện từng bước, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, bởi nếu tiến hành vội vàng
có thể dẫn đến hỗn loạn, khơng kiểm sốt được.
Có thể khẳng định, những vấn đề nói trên là cốt lõi của những quan điểm, đường lối
chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là những phương châm có tính ngun tắc chỉ
đạo tồn bộ quá trình đổi mới, nhưng mỗi giai đoạn lại được phát triển, hoàn thiện kịp
thời để giải quyết những nhiệm vụ mới./.
----------------------------------------(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011, tr. 70
(2) Văn kiện đã dẫn, tr. 83 - 84
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới
QĐND - Chủ nhật, 11/07/2010 | 23:26 GMT+7
Nền dân chủ ở nước ta là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×