TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
Tư tưởng Hồ Chí
Minh
Đề tài thảo luận: Phân tích tư tưởng, tấm
BÀI THẢO LUẬN
gương đạo đức Hồ Chí Minh về những chuẩn
mực đạo đức cách mạng và những nguyên tắc
xây dựng đạo đức cách mạng.
HÀ NỘI, THÁNG 11 NĂM
2021
1
MỤC LỤ
MỞ ĐẦU.................................................................................4
LỜI CẢM ƠN...........................................................................5
NỘI DUNG THẢO LUẬN............................................................6
I, Tư tưởng và tấm gương tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
những chuẩn mực đạo đức cách mạng..................................6
1.1 Trung với nước, hiếu với dân........................................6
1.2 Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư..........................8
1.3 Thương u con người, sống có tình nghĩa..................12
1.4 Tinh thần quốc tế trong sáng.....................................13
II, Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về những
nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng............................16
2.1 Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức............16
2.2 Xây đi đôi với chống...................................................20
2.3 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời..................................22
KẾT LUẬN.............................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................26
2
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức
cách mạng. Tư tưởng về đạo đức của Người bao gồm những quan điểm
cơ bản về vai trò, nội dung và những nguyên tắc trong xây dựng đạo
đức mới, thể hiện qua các tác phẩm cô đọng và sâu sắc. Nghiên cứu,
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng khơng những là
một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng mà cịn góp phần
quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln có sự nhất
qn và tính logic cao về tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư duy khoa học. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức của nhân loại. Người còn phát triển và
sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt
Nam.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là trách nhiệm tồn
dân, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người nhấn
mạnh công cuộc xây dựng đạo đức trong bối cảnh mới của đất nước
dựa trên những nguyên tắc riêng nhưng hợp nhất lại thành nền tảng
xây dựng đạo đức mới mà toàn Đảng toàn dân phải thực hiện.
Trên cơ sở tiếp thu được một số những kiến thức đã học cùng với
một số tài liệu liên quan, nhóm 6 xin đi sâu tìm hiểu về đề tài: “Phân
tích tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về những chuẩn mực
đạo đức cách mạng và những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách
mạng.”
3
LỜI CẢM ƠN
Nhóm em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học
Thương Mại đã tạo điều kiện để sinh viên chúng em có một mơi trường
học tập thoải mái về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất.
Chúng em chân thành cảm ơn cô Ngô Thị Minh Nguyệt đã hướng
dẫn tận tình để chúng em hồn thành bài thảo luận này. Hi vọng thông
qua những nỗ lực tìm hiểu của tất cả các thành viên nhóm 6 sẽ giúp
các bạn hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức và
những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tư tưởng rộng lớn và bao quát
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng lên trong suốt cuộc đời sự nghiệp
của Người. Vậy nên, với những giới hạn về kiến thức, thời gian, trong
quá trình tìm hiểu nhóm 6 khơng thể tránh khỏi những sai sót, mong cơ
và các bạn tận tình góp ý để chúng em hồn thiện hơn những kiến thức
của mình.
4
NỘI DUNG THẢO LUẬN
I, Tư tưởng và tấm gương tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về những chuẩn
mực đạo đức cách mạng
1.1 Trung với nước, hiếu với dân.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chuẩn mực
“Trung với nước, hiếu với dân”.
Trung với nước hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng
nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Trung và hiếu là những đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư tưởng đạo đức
truyền thống Việt Nam và phương Đông. Phẩm chất này được Hồ Chí
Minh sử dụng với những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu
với dân”, đã tạo nên một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo
đức. Người chỉ rõ: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân
chổng lên trời”. Đến đầu năm 1946, Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước
thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức
cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng
bào”.
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh khơng những
kế thừa giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua
những hạn chế của truyền thống đó.
Nho giáo quan niệm về “trung” khá rộng; nhưng chủ yếu nhấn mạnh
“trung quân” tức là lòng ngay thẳng, trung thành với vua. Đối với Hồ
Chí Minh, trung là “Trung với Nước”. Trung với Nước là trung thành với
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của cha ông ta, quyết tâm bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc; ngày nay là trung thành với sự nghiệp cách mạng
do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Nói tóm lại, quyền hàng và
5
lực lượng đều ở dân. Đảng và Chính phủ là “đầy tới nhân dân” chứ
không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân” thì quan niệm
về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước, rất ít lãnh tụ cách
mạng đã nói về dân như vậy, điều này càng làm cho tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước. Hơn nữa, Bác còn nhấn mạnh:
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
hạnh phúc của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” Như
vậy, Hồ Chí Minh thì người lại khái quát chữ “trung” và tinh thần yêu
nước tinh thần dân tộc vốn thành một tư tưởng mới bao quát đúng đắn
đó là “trung với nước” trung thành với lợi ích của đất nước và của dân
tộc. Chỉ với một dòng chữ ngắn nhưng qua điểm của Hồ Chí Minh đã
tóm gọn được mối quan hệ mật thiết giữa con người với Tổ quốc và
Nhân dân.
Nhắc đến chữ “Hiếu”, đây là một phạm trù đạo đức quan trọng trong
lịch sử tư tưởng phương Đơng. Trong văn hóa phương Đông và cả Việt
Nam, Hiếu là hiếu với cha mẹ. Nho giáo cho rằng: Đức nhân là gốc của
con người, hiếu là gốc của đạo lý làm người. Ca dao Việt Nam có câu:
“Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lịng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Với chữ Hiếu, Hồ Chí Minh khuyên mọi người phải hiếu thảo với cha mẹ
theo nghĩa phổ thơng: biết ơn, kính trọng, hết lòng phụng dưỡng, noi
gương những điều tốt của cha mẹ. Nhưng Người khơng dừng lại ở chỗ
đó. Từ Hiếu với cha mẹ, Bác phát triển thành “Hiếu với Dân”. Theo Bác,
Hiếu với Dân bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây: Một là, phải
thương dân, tin dân, thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân, kính trong
dân, lấy dân làm gốc, “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải u
kính nhân dân. Phải thật sự tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
6
Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai”. Hai là,
phải đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, có trách nhiệm trước nhân
dân. Người nêu 3 loại trách nhiệm của người cán bộ: trước hết là trách
nhiệm với nhân dân, rồi với công việc, sau cùng mới là trách nhiệm với
cấp trên. Ba là, phải luôn luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân,
chăm lo cải thiện đời sống cho dân; khi dân còn thiếu thì mình khơng
có quyền địi hỏi sung sướng cho riêng mình. Bốn là, tơn trọng và phát
huy quyền làm chủ của dân, nâng cao dân trí, để dân biết và sử dụng
được quyền làm chủ của mình.
Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức tiêu biểu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Người kế thừa từ những phẩm chất đạo
đức vốn có từ xa xưa trong tư tưởng đạo đức truyền thống phương
Ðơng nói chung và đạo đức truyền thống Việt Nam nói riêng trong suốt
cuộc đời phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân của chủ tịch Hồ Chí
Minh. Có thể thấy mối quan hệ giữa nước với dân và dân với nước trong
tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với
nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi
của công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trung
với nước, hiếu với dân
Ngay từ năm 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên
làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi
hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi Cách
mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng được thành lập,
Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Đây là điểm khác biệt về bản chất giữa nhà nước
dân chủ nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột từng tồn tại
trong lịch sử.
7
Quan điểm của Hồ Chí Minh cịn được thể hiện rõ trong các bản
hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo: Hiến pháp năm 1946 và Hiến
pháp năm 1959. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền
bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân
biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan
hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra tồn dân phúc quyết. Nhân dân
có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hố – xã hội, bầu ra quốc
hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao của
nhân dân.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm
chủ…nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu
thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”.Quan niệm
dân chủ, theo Hồ Chí Minh, cịn biểu hiện ở phương thức tổ chức xã hội.
Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là “bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, đồng thời Hồ Chí Minh
cũng chỉ ra phương thức tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn
khẳng định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội
mà ở đó người dân, cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một
hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”.
Trong di chúc (1969) Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhấn mạnh một điều
rằng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,
chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là
thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy
chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng
chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái
8
với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân – tức là phục tùng chân lý.”
1.2 Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Quan điểm của Bác về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư”
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về yêu dân và vì dân. Với nhân
dân, Người ân cần, gần gũi, tôn trọng, khiêm nhường, yêu quý, lắng
nghe. Người đau nỗi đau của nhân dân, buồn vì nỗi buồn của nhân dân,
chia vui cùng niềm vui của nhân dân nhưng bao giờ cũng ý thức chịu
khổ trước dân, hưởng vui sướng sau dân. Người luôn nêu cao đạo đức
cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; Hồ Chí Minh đã đề
cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh ngay từ
cuốn sách Đường Kách mệnh cho đến bản Di chúc. Trong việc giáo dục
cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh đến yếu tố năng
động chủ quan của con người, đến sức mạnh của lý tưởng, của ý chí,
của
tu
dưỡng
đạo
đức
cách
mạng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là nền tảng của đời sống
mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”. Hồ Chí Minh quan
niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là bốn đức tính của con
người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương, Bác viết:
“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì khơng thành trời
Thiếu một phương thì khơng thành đất.
Thiếu một đức thì khơng thành người”,
và Người giải thích cặn kẽ, nội dung từng khái niệm:
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai... Muốn cho chữ
Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc".
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng
9
tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không
lười biếng. Phải thấy rõ, "Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
"Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí,
khơng bừa bãi. CẦN với KIỆM phải đi đôi với nhau, như hai chân của
con người". Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết
kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; khơng phơ trương
hình thức, khơng liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là
bủn xỉn. Khi khơng nên tiêu xài thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu.
Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao
nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của, cũng vui lịng. Như thế mới đúng là
kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xin, chứ không phải là
kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết khơng xa xỉ". Hồ Chí Minh u cầu phải
“Cần kiệm xây dựng nước nhà".
Liêm "là trong sạch, không tham lam... Chữ LIÊM phải đi đôi với
chữ KIỆM. Cũng như chữ KIỆM phải đi với CẦN. Có KIỆM mới LIÊM
được"; "Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Khơng tham
sung sướng. Khơng ham người tâng bốc mình. Vì vậy quang minh chính
đại, khơng bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ là ham học, ham làm, ham
tiến bộ”.
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
khơng đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà". Chính được thế hiện rõ trong
ba mối quan hệ: “ĐỐI VỚI MÌNH - Chớ tự kiêu, tự đại... “ĐỐI VỚI
NGƯỜI... Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ
phải chân thành, khiêm tốn... Phải thực hành chữ Bác Ái... ĐỐI VỚI
VIỆC Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà... việc
thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan
hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên
phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người thường
nhắc nhở cán bộ, công chức, những người trong các công sở đều có
10
nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu khơng giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì
dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Chí cơng vơ tư là hồn tồn vì lợi ích chung, khơng vì tự lợi; là hết
sức công bằng, không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, ln đặt lợi ích
của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì
Đảng, vì dân tộc, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Chí cơng vơ tư là
chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem lịng chí cơng vơ tư mà đối
với người, đối với việc""; “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước... khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”.
Chí cơng vơ tư về thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính.
Người giải thích: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp
cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà
thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ cơng
vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu
cho dân”. Hồ Chí Minh quan niệm: "Một dân tộc biết cần, kiệm, biết
liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân
tộc văn minh tiến bộ". Cần, kiệm, liêm, chính cịn là nền tảng của đời
sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước. Để trở thành người có
phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm, chính.
Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con
người, giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất; “Thiếu một
đức thì khơng thành người”.
Tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”
Hồ Chí Minh là người cộng sản mẫu mực, ln thống nhất giữa nói
và làm. Người không chỉ nêu ra và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải
xây dựng và rèn luyện những phẩm chất “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”,
hướng lịng mình đến “chí cơng vơ tư” để phụng sự Tổ quốc và nhân
dân mà Người cịn chính là hiện thân của những phẩm chất cao q đó.
Với Người, từ những năm tháng bơn ba tìm đường cứu nước đến
khi trở thành Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng thì cũng vẫn là một Hồ Chí
Minh ln nỗ lực làm việc và chi tiêu thật tiết kiệm; ln thích các món
11
ăn dân gian như dưa cà, mắm tép, cá kho và thường tránh các nghi
thức đón tiếp linh đình, lãng phí; thường mặc bộ kaki, đi dép lốp cao
su, dùng túi vải, mũ cát khi đi thăm đồng chí, đồng bào, kể cả khi đi
cơng tác ngồi nước; thường chọn thăm bếp ăn của công nhân, nơi ở
của người dân nghèo; khơng thích ở nhà của Phủ tồn quyền Đơng
Dương hay dinh thự cao cấp, đủ tiện nghi mà chọn căn phòng vốn là
nơi ở của người thợ điện và sau đó là ngơi nhà sàn kiểu đồng bào các
dân tộc miền núi phía Bắc thường sinh sống…
Hồ Chí Minh ln “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” từ trong suy nghĩ đến
hành động; từ cuộc sống đời thường đến vị thế một nguyên thủ quốc
gia và cho đến lúc đi xa. Lựa chọn cuộc sống cần kiệm, giản dị, chan
chứa tình yêu thiên nhiên, không màng danh vọng, không ham của cải,
chẳng ưa sự xa hoa và những nghi thức sang trọng, Hồ Chí Minh từng
nói, người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng điều quan trọng
là phải thiết thực và phù hợp, đúng thời, đúng hoàn cảnh. Người ăn
mặc đều giản dị và tiết kiệm và đó là lối sống của Người…và Người đã
từng nói với một đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng chân tình rằng:
“Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái
phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”…Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, Bác ở trong ngôi nhà
sàn đơn sơ, giản dị thì đến khi cách mạng thành cơng, trở về Thủ đô,
Bác cũng chỉ ở trong ngôi nhà nhỏ của người thợ điện, sau đó chuyển
sang nhà sàn, chứ khơng ở ngơi nhà to, sang trọng của Tồn quyền
Đơng Dương. Bác dành ngơi nhà sang trọng đó làm nơi đón tiếp khách
của
Đảng
và
Nhà
nước
ta.
Tư tưởng và tấm gương “tuyệt nhiên không ham muốn công
danh phú quý chút nào” một lần nữa lại được Hồ Chí Minh trịnh trọng
tuyên bố trước kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (31-10-1946): “Lần này
là lần thứ hai Quốc hội giao phó cho tơi phụ trách Chính phủ một lần
nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ
Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận.
Giờ tôi tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng:
12
Hồ Chí Minh khơng phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng
quan, phát tài”. Trong lời tuyên bố của Hồ Chí Minh, chúng ta chú ý
rằng Người nhấn mạnh việc đảm nhận chức vụ trong một hoàn cảnh
đất nước khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh khi “Việt Nam chưa được độc
lập, chưa được thống nhất”. Chức vụ đó là do Quốc hội (nhân dân) ủy
thác thì phải gắng sức làm. Còn khi đồng bào đã cho lui thì lại vui vẻ
trở về cuộc sống của một người dân bình thường.
Người ln khẳng định: Sự nghiệp anh hùng cách mạng Việt Nam
là của toàn Đảng, toàn dân, toàn qn ta; cịn khuyết điểm thì Người
nhận về mình. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới đứng trước tồn
dân để Tự phê bình, nhận lấy khuyết điểm của mình và cho rằng do
mình “tài hèn đức mọn, cho nên chưa làm đầy đủ những sự mong
muốn của đồng bào”. Có lẽ, Hồ Chí Minh là lãnh tụ duy nhất trên thế
giới có nhiều đóng góp vĩ đại cho Tổ quốc mình, nhưng khi đi vào cõi
vĩnh hằng trên ngực áo khơng hề có bất kỳ một tấm hn, huy chương
nào.
Luận điểm “chí cơng vơ tư” định hình sớm trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh (1927), Người nêu lên 23 điều
thuộc về phẩm chất mà người cán bộ cách mạng cần phải có; trong đó,
điều thứ 8 là: “Vị cơng vong tư”. “Vị cơng vong tư” có nghĩa là “vì việc
cơng qn việc riêng tư”; vì thế, nó đồng nghĩa với “chí cơng vơ tư”.
Việc cơng lớn nhất ở thời điểm này chính là sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Từ đó trở đi, Hồ
Chí Minh nhắc lại nhiều lần phẩm chất “chí cơng vô tư” cho đến lúc qua
đời. Người viết trong Di chúc: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”. Trước khi từ giã cõi đời, căn dặn về Đảng, về đạo
đức của cán bộ, đảng viên, Bác vẫn khơng qn phẩm chất chí cơng vơ
tư!
13
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm viêc (1947), Hồ Chí Minh viết
về cách rèn luyện đạo đức cách mạng, phẩm chất chí cơng vơ tư như
sau:
“Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng
chân chính, khơng có gì là khó cả. Điều đó hồn tồn do lịng mình mà
ra. Lịng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến
đến chỗ chí cơng vơ tư. Mình đã chí cơng vơ tư thì khuyết điểm sẽ càng
ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm”.
1.3 Thương yêu con người, sống có tình nghĩa.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chuẩn mực
“Thương yêu con người, sống có tình nghĩa”
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại
qua nhiều thập niên, cùng với việc thể nghiệm chính bản thân mình
qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con
người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình
cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu
thương con người mà Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ,
hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho con người.
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn,
trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền,
những người bị áp bức, bị bóc lột khơng phân biệt màu da, dân tộc.
Người cho rằng, nếu khơng có tình u thương như vậy thì khơng thể
nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước
mình là tư tưởng lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, được thể
hiện ở sự ham muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
14
áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên
nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị,
lý tưởng đạo đức và là lý tưởng nhân văn của Người.
Tình thương u con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng
trên lập trường của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ
hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em, phải được thể hiện ở hành
động cụ thể thiết thực. Nó địi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm
khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha đối với người
khác; phải có thái độ tơn trọng những quyền của con người, tạo điều
kiện cho con người phát huy tài năng; nâng con người lên, kể cả những
người nhất thời lầm lạc, chứ khơng phải là thái độ “dĩ hịa vi quý”,
không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Bằng hành
động và ứng xử của mình, Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo
lý làm người là phải biết yêu thương và sống với nhau có tình có nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, “hiểu chủ nghĩa Mác-Lenin là phải sống với nhau có
tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống khơng có tình có
nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lenin được”. Trong Di chúc,
Người viết: “Phải có tình đồng chí thương u lần nhau”.
Tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
“Thương u con người, sống có tình nghĩa”
Tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật giản dị
mà cao q. Tình u thương đó khơng phải bằng lời nói cao sang hay
những khẩu hiệu hơ hào chung chung mà bằng chính hành động, lời
nói và việc làm cụ thể, từ việc lớn đến việc nhỏ như:
Ngay khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, chính quyền cách
mạng cịn non trẻ lại phải đối phó với mn vàn khó khăn, thử thách
trước cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng với hạn hán, thiên tai, lũ lụt,
Nhân dân ta rơi vào tình cảnh chết đói ở khắp mọi nơi. Vì vậy, để khắc
phục nạn đói, Người đề nghị Hội đồng Chính phủ phát động một chiến
dịch tăng gia sản xuất và mở cuộc quyên góp cứu đói. Người đề xướng
phong trào quyên góp “hũ gạo cứu đói”, kêu gọi đồng bào cứ 10 ngày
15
nhịn ăn một bữa để lấy gạo cứu dân nghèo và Bác đã tự gương mẫu
thực hiện trước. Tại buổi khai mạc cuộc quyên góp tổ chức ở Nhà hát
lớn Hà Nội, Bác đã đem phần gạo nhịn ăn của mình qun góp trước
tiên. Nhờ sáng kiến đó, mỗi tuần Nhân dân cả nước đã quyên góp được
hàng vạn tấn gạo cứu đói, giúp cho nhiều người nghèo vượt qua nạn
đói khủng khiếp năm 1945.
Đầu năm 1954, Bác làm việc tại Chiến khu Việt Bắc. Thời tiết giá
rét nên một chiến sĩ đi tuần đêm nhiễm lạnh bị ho. Biết chuyện, Bác
lấy chiếc áo trấn thủ của mình đưa cho người lính mặc để đỡ rét, nhưng
anh khơng dám nhận. Bác ân cần nói: “Chú cứ giữ lấy mà mặc. Bác đã
có áo khác”. Rồi Bác tự tay khốc chiếc áo vào vai người chiến sĩ trẻ
khiến anh vừa bối rối, vừa cảm động khôn cùng.
Tháng 7-1967, thời tiết giữa hè nóng như thiêu như đốt, thương
các chiến sĩ phịng khơng trực chiến trên nóc Hội trường Ba Đình khơng
đủ nước uống, Bác đã dành số tiền tiết kiệm của mình tặng lực lượng
bộ đội phịng khơng Hà Nội để có tiền mua thêm nước giải khát trong
những ngày hè nắng nơi.
Tình thương u con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở
sự chăm sóc, lo lắng đối với đồng bào, đồng chí, các cụ phụ lão, các
cháu thanh thiếu niên, nhi đồng… Người chia quà cho các cháu thiếu
nhi vào dịp tết Trung thu, ngày Quốc tế thiếu nhi. Mỗi khi có gió mùa
Đơng Bắc về, Người nhắc nhở chống rét cho các em nhỏ, các cụ già.
Người quan tâm đến những ngày giáp hạt của nơng dân, thấu hiểu nỗi
vất vả, khó nhọc của những người lao động và tìm mọi cách để góp
phần cho cuộc sống người dân bớt đi phần vất vả. Những khi làm việc
đêm khuya, có bát chè bồi dưỡng, Bác cũng xẻ đôi cho người chiến sĩ
bảo vệ cùng ăn. Lúc đi chiến dịch biên giới, Bác không chịu một mình
cưỡi ngựa. Bác bảo cả bảy người cùng đi bộ, để ngựa thồ hành lý cho
anh em đỡ mệt… Những lúc bớt bận rộn, Bác thường dành thời gian
đến thăm các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người nghèo khổ.
16
Thấy các cháu nhỏ sức khỏe yếu, Bác đề nghị những nhà lãnh đạo địa
phương phải chăm lo đến đời sống người dân từ việc nhỏ nhất.
Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà Hồ Chí Minh
sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân
tộc, tự do hạnh phúc cho con người. Tình thương người, yêu đồng loại,
yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư tưởng lớn, là mục tiêu phấn đấu
của Hồ Chí Minh đã được thể hiện ở sự ham muốn tột bậc của Người là
“làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và là lý tưởng
nhân văn của Người.
1.4 Tinh thần quốc tế trong sáng.
Quan điểm và tấm gương của Chủ tích Hồ Chí Minh về
“Tinh thần quốc tế trong sáng”
Chủ nghĩa quốc tế là một phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Điều này bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công
nhân và chế độ xã hội chủ nghĩa, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt
ra khỏi giới hạn quốc gia - dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước nhiệt thành, một chiến sĩ
quốc tế vĩ đại. Người không chỉ giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng,
thủy chung mà cịn là hình mẫu của tinh thần quốc tế, kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Khi bàn về mối quan hệ Việt – Trung, Bác nói: “Mối tình hữu nghị
Việt –Trung/ Vừa là đồng chí vừa là anh em”. Nói về mối quan hệ Việt –
Lào Bác đã khẳng định: “Việt, Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn
nước Hồng Hà, Cửu Long”, nói về tình anh em vơ sản thế giới Người
từng nhắc nhở “Quan sơn muôn dặm một nhà/ Bốn phương vô sản đều
là anh em”.
17
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của
người Việt Nam nói chung, cán bộ nói riêng trong mối quan hệ rộng
lớn, vượt qua phạm vi quốc gia, dân tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế
trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc, thể hiện ở các điểm
sau:
Thứ nhất, đó là sự tơn trọng, hiểu biết, thương u và đồn kết với
giai cấp vơ sản tồn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các
dân tộc nhân dân các nước, với những người tiến bộ toàn cầu vì mục
tiêu giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột.
Trong q trình tìm đường cứu nước, Bác đã đến nhiều nước trên
thế giới, các nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến
cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và Nhân Dân lao động, đồng
thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của giai cấp tư sản. Thực tế sinh
động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: “Nơi đâu cũng có người
nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều
bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác”. Từ đó,
Người đã đi tới kết luận rằng: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai loại người: người áp bức và người bị áp bức. Cũng chỉ có một
mối tính hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vô sản”. Kết luận này cho
thấy nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã vươn
từ tầm nhìn quốc gia lên tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự
khởi đầu của tư tưởng đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh - đồn kết với
những người cần lao trên thế giới, ln gắn liền lợi ích dân tộc với lợi
ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Tháng 6-1919, khi gửi tới Hội nghị Vécxây “Bản yêu sách của Nhân
Dân An Nam”, lần đầu tiên xuất hiện trên vũ đài quốc tế, Người đã thể
hiện tư tưởng sát cánh cùng các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho sự
bình đẳng. Mười năm đầu trong chuyến hành trình ra đi tìm đường cứu
nước, Người đã sớm xác định cuộc đấu tranh của Việt Nam, cũng như
cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới. Từ lời phát biểu đầu tiên tại Đại hội Tua
18
(12-1920) trở đi, Người luôn khẳng định cuộc cách mạng của các dân
tộc bị áp bức đều có quan hệ với nhau. Nói về sự liên minh đồn kết
đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, khi đó Người đã
chỉ rõ: “Các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn được giải phóng khỏi
ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân thì chỉ bằng cách đoàn kết
chặt chẽ để chống kẻ thù chung”. Cũng là một người dân thuộc địa,
Người thấy được khả năng, sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc
địa và tin tưởng vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ.
Thứ hai, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, chống
mọi biểu hiện của kỳ thị dân tộc.
Hồ Chí Minh lên án và đấu tranh chống chia rẽ, thù hằn, bất bình
đẳng, phân biệt chủng tộc, đồn kết với các lực lượng cách mạng và
tiến bộ khắp thế giới. Người gắn mục tiêu đấu tranh của Nhân Dân Việt
Nam với mục tiêu chung của nhân loại vì hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vơ sản gắn liền với chủ nghĩa
yêu nước. Trong bài “Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế” (1953),
Người đã nhấn mạnh: “Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ
khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia
phong trào ủng hộ hồ bình thế giới”. Nếu tinh thần u nước khơng
chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể dẫn đến
chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ
thị chủng tộc… Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến chỗ
phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc,
phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có
thể đưa đến tình trạng đối đầu đối địch. Đây là một thực tế đã diễn ra ở
châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới hiện nay.
Cuối cùng, Người nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, nhưng ln ln kêu gọi phải tăng cường đồn kết và hợp tác
quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu
19
tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, từ thành quả của Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái
Quốc đã nhận ra giữa các quốc gia, giữa các dân tộc ở các châu lục cần
có sự hợp tác giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau. Sức mạnh của mỗi nước có
một phần quan trọng tuỳ thuộc vào các mối liên kết và hiểu biết lẫn
nhau. Từ đó Người ln khẳng định những cuộc cách mạng của các dân
tộc bất kỳ gần hay xa, to hay nhỏ đều có quan hệ với nhau. Từ năm
1924, Người đã trở thành một trong những cán bộ châu Á đầu tiên thực
thi nhiệm vụ liên kết giữa các dân tộc châu Á với phong trào cách
mạng vô sản thế giới. Trong những năm tháng Nhân Dân Việt Nam đấu
tranh giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh hết sức quan tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam
với các nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ
quốc tế của Việt Nam và khẳng định sự ủng hộ của Nhân Dân Việt Nam
đối với cuộc đấu tranh của Nhân Dân các nước vì độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội. Đồng thời, Người còn luôn nhắc nhở Nhân Dân Việt Nam
về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của
Nhân Dân các nước này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của
dân tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng độc lập tự do của các dân
tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ một hành động
xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự
do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, “giúp bạn là
tự giúp mình”. Đây chính là một bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về đồn kết quốc tế. Vì lẽ đó, Người luôn động viên Nhân Dân
Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân tộc
mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vơ tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân
tộc anh em.
Sự đồn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hồ
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị
20
với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đoàn kết ấy dựa trên cơ sở bình
đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh
bắt nguồn từ tình thương u đối với con người; vì mục tiêu giải phóng
các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang
lại tự do và bình đẳng thực sự cho con người. Từ chủ nghĩa quốc tế
trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên
tình đồn kết quốc tế rộng lớn của Nhân dân Việt Nam với các dân tộc
trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của Nhân dân Việt
nam và Nhân dân thế giới.
II, Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây
dựng đạo đức cách mạng
2.1 Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
2.1.1.
Nói đi đơi với làm
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chuẩn mực
“Nói đi đơi với làm”
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, “Nói đi đơi với làm” là thể
hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động,
nhận thức và việc làm. Nói đi đơi với làm tức là nói phải làm, nói thế
nào, làm thế ấy, là biểu hiện kết quả của lời nói. Để nói đi đơi với làm,
cần có sự cố gắng, bền bỉ và quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào,
nhiệm vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng
nếu không ra sức phấn đấu thì cũng khơng thể thành cơng được. Nói đi
đơi với làm thể hiện bằng kết quả công việc, với những sản phẩm cụ
thể. Kết quả công việc là thước đo sự cống hiến của mỗi người.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng “Nói đi đơi với làm” được
thể hiện ở 3 điểm, đó là:
Một là, nói phải đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, khơng được xun tạc, nói sai. Cán bộ, đảng
21
viên phải nắm vững đường lối cách mạng của Đảng trong tồn bộ tiến
trình cách mạng và được cụ thể hóa trong từng giai đoạn. Nắm vững
đường lối cách mạng để thực hiện cho đúng, để tuyên truyền, giáo dục,
vận động nhân dân làm theo cho đúng. Phải rèn luyện bản lĩnh vững
vàng để có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, dù
trải qua những tình huống phức tạp, những bước ngoặt hiểm nghèo,
trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, bảo vệ nền độc lập
dân tộc và xây dựng xã hội tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Để làm được điều đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần
tự học, tự nghiên cứu, thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng.
Nghiêm túc nghiên cứu, học tập lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chủ động nghiên cứu sâu, tìm hiểu kỹ những nội dung cơ bản,
cốt lõi về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Đồng thời, khi đã nắm chắc chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước thì phải truyền đạt lại cho nhân
dân đúng nội dung, đúng tinh thần, khơng nói sai, khơng xun tạc.
Hai là, nói đi đơi với làm, khơng được “nói một đàng làm một nẻo”.
Theo Bác, lời nói đi đơi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại
những hiệu quả lớn, được nhiều người hưởng ứng và làm theo. Khi đề
ra cơng việc, phải tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu.
Khi nói cần phải cụ thể, thiết thực, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ
dễ đến khó. Cán bộ phải nói đi đơi với làm, nói trước làm trước. Khơng
được nói nhiều làm ít hoặc nói mà khơng làm. Nếu chính mình tham ơ
mà bảo người khác liêm khiết, mình khơng làm việc nhưng hơ hào
người khác làm việc thì khơng được. Nếu nói rằng phải cần kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư, mà bản thân lại lười biếng, khơng hồn thành
những cơng việc được giao, ln tìm cách tham ơ tiền của Nhà nước và
nhân dân; sống xa hoa, lãng phí trong khi cuộc sống của đại đa số
nhân dân còn nhiều thiếu thốn, ... thì những lời nói đó sẽ khơng có tác
dụng giáo dục.
22
Để chống việc nói một đàng làm một nẻo, mỗi cán bộ, đảng viên,
tổ chức đảng cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và phải phân công
nhiệm vụ cụ thể cho từng tập thể và cá nhân. Khi giao nhiệm vụ cần
thật cụ thể, chi tiết, không chung chung, đại khái, ai hiểu thế nào cũng
được, như vậy rất khó thực hiện. Mỗi cơng việc đều phải xác định rõ
mục đích, u cầu, lộ trình, tiến độ, khối lượng và chất lượng. Khi giao
việc cho nhân viên, thủ trưởng phải làm gương trước; nói với nhân dân,
cán bộ, đảng viên phải làm trước để người dân làm theo. Đồng thời với
việc giao nhiệm vụ, cần phải đi sâu đi sát, kiểm tra đôn đốc kết quả
của việc thực hiện những công việc đã đề ra, không thể làm theo lối
quan liêu - giao việc xong phó mặc cho người thực hiện.
Ba là, không được hứa mà không làm. Lời hứa chỉ có giá trị khi đi
liền với việc làm cụ thể. “Làm” ở đây chính là hành động, là hoạt động
thực tiễn, là tổ chức thực hiện; đưa chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, từ việc nhỏ đến
việc lớn mang ý nghĩa thiết thực. Đối với Đảng ta, Hồ Chí Minh yêu cầu
“Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của
mình đã thi hành thế nào. Nếu khơng vậy thì những nghị quyết và chỉ
thị đó sẽ hóa ra lời nói sng mà cịn hại đến lòng tin cậy của nhân dân
đối với Đảng”. Hồ Chí Minh cho rằng, với trình độ giác ngộ và dân trí
ngày càng cao, khơng phải cứ nghe cán bộ nói là quần chúng sẽ làm
theo mà họ xem việc cán bộ làm. Cán bộ, đảng viên “cần phải óc nghĩ,
mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ khơng phải chỉ
nói sng, chỉ ngồi viết mệnh lệnh... phải thật thà nhúng tay vào việc”.
Để tránh việc hứa mà khơng làm, Hồ Chí Minh u cầu cán bộ,
đảng viên đã nói thì phải làm, “Nói ít, bắt đầu bằng hành động”; “Tốt
nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”. Cán
bộ lãnh đạo làm gương cho nhân viên; cấp trên làm gương cho cấp
dưới; cán bộ, đảng viên làm gương cho nhân dân. Đồng thời, cần giao
cho một đơn vị hoặc cá nhân thường xuyên kiểm tra, giám sát và nhắc
nhở đối với những tổ chức, cá nhân đã đưa ra lời hứa và yêu cầu tổ
23
chức, thực hiện cho đúng. Có những việc cần giao cho nhân dân kiểm
tra, giám sát và đôn đốc thực hiện.
Tấm gương đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Nói đi
đơi với làm”
Lúc sinh thời Người ln đề cao phong cách nói đi đơi với làm.
Theo Người, về bản chất, “nói đi đơi với làm” khơng chỉ là nguyên tắc
đạo đức, lẽ sống, phương châm hoạt động mà còn là biểu hiện sinh
động cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư tưởng đạo đức
và hành vi đạo đức của mỗi người.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, dù ở đâu, làm gì, Hồ Chí
Minh chấp nhận mọi cơng việc, miễn là việc đó có lợi cho tổ chức, cho
cách mạng. Người là tấm gương sáng về người lãnh đạo, người đứng
đầu ở vị trí cao nhất nhưng ln trung thành, tận tụy vì lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân, khơng mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân và gia
đình. Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ tịch nước: “Tôi tuyệt
nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải
gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tơi phải gắng sức làm,
cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt
trận. Bao giờ đông bào cho tôi lui, thì tơi rất vui lịng lui. Tơi chỉ có một
sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Riêng phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi
có non xanh, nước biết để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với
các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, khơng dính líu gì với vịng danh
lợi”.
Năm 1945, trước nạn đói trên miền Bắc, Người đề xuất toàn dân
tiết kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói và Người kêu gọi: “tơi xin đề nghị
với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn
một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa. Đem gạo đó (một bữa một bơ) để
cứu dân nghèo”.
24
Những năm Người làm việc tại Phủ Chủ tịch, khi kinh tế khó khăn,
đời sống nhân dân cịn nghèo, mọi người ăn cơm độn ngô, khoai, sắn,
Người đề nghị nhà bếp là: cán bộ, nhân dân ăn độn bao nhiêu phần
trăm, nấu cơm độn cho Người từng ấy giống như cán bộ, nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm những việc như thế để thực hiện điều
Người nói: Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng,
đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải
đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm được như vậy, chúng ta
phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thấm nhuần sâu sắc đặc trưng truyền thống văn hóa phương
Đơng là “một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền” nên nhiều khi Người đã giải thích lý luận bằng thực tiễn,
bằng hành động, bằng việc làm, thấy làm đúng, làm phải, mọi người
khắc làm theo. Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời đã nhận
xét: “Mọi lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể. Nói
là làm, thường là làm nhiều hơn nói, có khi làm mà khơng cần nói, tư
tưởng thể hiện trong hành động".
2.1.2. Phải nêu gương về đạo đức
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nêu gương
Nêu gương về đạo đức là làm mẫu, làm trước để người khác noi
theo. Đây là phương pháp giáo dục con người và thực hành theo những
chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận (theo hướng tích cực). Nói một
cách triết lý thì: nêu gương là cách mà con người xã hội hóa nhân cách
cá nhân…, làm “mơ hình” để người khác lấy đó làm mẫu.
Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với các thế hệ
sau là đặc biệt quan trọng. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nêu gương,
Người nói: “Ðối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách
làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ
25