MỤC LỤC
A.
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
B.
NỢI DUNG ............................................................................................... 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ..................................... 2
I.
1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với
các lĩnh vực khác ...................................................................................... 2
2.
1.1.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa .................................................... 2
1.2.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác.... 3
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của văn hóa ...................... 4
2.1.
Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng ................... 4
2.2.
Văn hóa là một mặt trận ....................................................................................... 7
2.3.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân ....................................................... 7
3.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóa ............... 8
4.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới ....... 10
4.1
Trước Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 ................................................. 10
4.2
Trong khi kháng chiến chống thực dân Pháp .......................................... 12
4.3
Trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội .................................................. 13
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI
SINH VIÊN HIỆN NAY ........................................................................ 15
1. Nhận thức của sinh viên trong việc học tập và làm theo tác phong,
lối sống của Hồ Chí Minh ...................................................................... 15
2. Thái độ của sinh viên trong việc học tập và làm theo tác phong, lối
sống của Hồ Chí Minh ........................................................................... 16
3.
C.
Sinh viên học và làm theo tác phong lối sống của Hồ Chí Minh .. 18
KẾT LUẬN............................................................................................. 20
BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM .................................................................. 22
1
A. MỞ ĐẦU
Ngày 1 tháng 9 năm 1858, thực dân pháp đã nổ phát súng đầu tiên tại Đà Nẵng,
bắt đầu một cuộc xâm lược thuộc địa ở nước ta. Sống trong ách đô hộ của thực dân
Pháp, Bác Hồ của chúng ta đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong
trào đấu tranh chống thực dân diễn ra thất bại. Đó là do sự lỗi thời của ý thức hệ
phong kiến hay sự bất lực của hệ dân chủ tư sản. Từ thực tiễn trên, một câu hỏi được
đặt ra: Cứu nước bằng con đường nào để có thể đi đến thắng lợi? Vì vậy Người sớm
có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng
bào. Với ý chí và quyết tâm đó, tháng 6/1911, Người đã rời Tổ quốc đi sang phương
Tây để tìm con đường giải phóng cho dân tộc. Trên hành trình tìm đường cứu nước
của mình, Bác đã tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau. Vì thế, tư tưởng của Bác ln
có sự kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại và giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta. Để hiểu rõ Bác đã kết hợp văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại trong
tư tưởng cứu nước của mình như thế nào; và hiện nay nó đã được sinh viên chúng ta
vận dụng ra sao; thì nhóm chúng tơi xin cùng mọi người tìm hiểu đề tài: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa. Sinh viên học và làm theo tác phong, lối sống của Hồ Chí
minh”.
1
B. NỢI DUNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA
I.
1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh
vực khác
1.1.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Tháng 8-1943, khi cịn ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã
đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh
hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa”.
Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ hơn.
Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian
được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực,
những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác
thành kho tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di
sản văn hóa của tồn nhân loại.
Định nghĩa của Hồ Chí Minh khẳng định lý do tồn tại và phát triển của văn hố
“vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”, nhấn mạnh đặc trưng quan trọng
nhất là “sáng tạo và phát minh”, đồng thời chỉ ra các lĩnh vực, loại hình chính của văn
hố với ý nghĩa rộng lớn của nó. Như vậy văn hóa là tồn bộ những sáng tạo, phát
minh về vật chất và tinh thần của con người nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát
triển của cá nhân, cộng đồng và rộng ra là cả quốc gia, dân tộc. Định nghĩa về văn hóa
của Hồ Chí Minh đã khắc phục được những quan niệm phiến diện về văn hóa trong
lịch sử và thời điểm đó.
2
1.2.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác
Về chính trị: Chính trị xã hội có được giải phóng thì văn hố mới được giải
phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hố phát triển.
Khi đất nước cịn bị nơ lệ thì văn hố cũng chung số phận nơ lệ, tuyệt đại bộ
phận nhân dân bị đọa đầy trong cảnh tối tăm, dốt nát. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã vạch ra
một đường lối mới: phải tiến hành cuộc cách mạng chính trị trước mà cụ thể là cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc để giành lấy chính quyền, nhân dân làm chủ đất nước,
để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hố, mở đường cho
văn hoá phát triển. Người chỉ ra rằng, "Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hố của ta
vì thế khơng thể nảy sinh được","dân tộc bị nơ lệ thì văn nghệ cũng mất tự do". Vì vậy
văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong chính trị. Văn hóa phải phục vụ cho
các mục tiêu chính trị.
Về kinh tế: Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển
văn hoá.
Văn hóa khơng thể tách rời kinh tế. Văn hóa khơng chịu sự tác động của kinh
tế 1 cách thụ động mà có tác động ngược trở lại với kinh tế. Kinh tế là thuộc về cơ sở
hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá, xây dựng kiến trúc thượng tầng. Do
đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện
xây dựng và phát triển văn hố. Văn hoá là một bộ phận kiến trúc thượng tầng, nhưng
cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hố mới kiến thiết được và có đủ điều
kiện phát triển được: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và
văn hố”. Vì sao khơng nói phát triển văn hố và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: “Có thực
mới vực được đạo”, vì thế kinh tế phải đi trước.
Về xã hội: Quan hệ giữa văn hóa với xã hội
Giải phóng chính trị đồng nghĩa với giải phóng xã hội, từ đó văn hóa mới có
điều kiện phát triển. Văn học, nghệ thuật của dân tộc Việt Nam rất phong phú, nhưng
trong chế độ nơ lệ của kẻ áp bức, thì vẫn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát
triển được. Vì vậy phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay
3
nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên
địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa. Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại. Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa bền
vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam: là thành quả của quá trình lao động, sản
xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam. Bản sắc văn hóa dân tộc được
nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó, là lịng yêu nước, thường nói, tinh
thần độc lập, tự cường, tự tơn dân tộc... Về hình thức, cốt cách văn hóa dân tộc biểu
hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền thống, cách cảm và nghĩ...
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của văn hóa
2.1.
Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa nằm trong mục tiêu chung của tồn bộ tiến trình cách mạng.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển. Bởi lẽ con người tồn tại, không chỉ cần
những sản phẩm vật chất mà cịn có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần,
con người và xã hội lồi người càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần địi hỏi
ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo sự phát triển
ngày càng nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội.
Nói một cách tổng quát, văn hóa là mục tiêu có nghĩa là quyền sống, quyền
sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của nhân dân về các
giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân chủ - dân là chủ và dân làm chủ công
bằng, văn minh, ai cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành: một xã hội mà đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn luôn được quan tâm và không ngừng
nâng cao, con người có điều kiện phát triển tồn diện.
Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Bao gồm động lực vật chất và tinh
thần; động lực cộng đồng và cá nhân: nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con người
và đều có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực
văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các phương
diện chủ yếu diện sau:
4
Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc
dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Kế thừa
những chuẩn mực xã hội mang tính truyền thống, trong giai đoạn cách mạng
hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu khẩu hiệu nổi tiếng: “Khơng có gì q
hơn độc lập tự do”. Khẩu hiệu đó đáp ứng đúng tâm tư, nguyện vọng của người
dân Việt Nam nên đã có sức lan tỏa vơ cùng rộng lớn. Vì đây là một giá trị tinh
thần được cả xã hội đề cao, nên qua năm tháng nó trở thành một quy phạm đạo
lý chính trị của người Việt Nam.
Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lịng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của
cách mạng. Văn nghệ bao gồm văn học và nghệ thuật, là biểu hiện tập trung
nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, hình ảnh của tâm hồn
dân tộc. Trong tác phẩm “Nhật kí trong tù” (1942-1943), Bác Hồ đã từng viết :
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
Chất “thép” là tính chiến đấu, là nội dung cách mạng của thơ ca nói riêng, đồng
thời cũng là bản chất của văn hóa văn nghệ phục vụ cơng nơng binh, góp phần tun
truyền đường lối kháng chiến.
Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật
phát triển của xã hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dục đào tạo con
người mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách
mạng. Sau “Lễ tuyên bố độc lập”, tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính
phủ (3-9-1945), Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu nhiệm vụ cấp bách phải làm ngay,
trong đó nhiệm vụ “Diệt giặc dốt” đứng hàng thứ hai. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, sự dốt nát là một loại giặc nội xâm, là mẹ
đẻ của mọi thói hư tật xấu, phản lại văn hố”. Vì vậy, Người đề nghị mở ngay
một chiến dịch diệt dốt và đích thân phát động chiến dịch “Chống nạn mù
chữ”, coi đó là bước đột phá đầu tiên để nâng cao dân trí.
5
Văn hóa đời sống: văn hóa là bộ mặt tinh thần của xã hội, vì vậy nó ln là
mục tiêu động lực xây dựng nên xã hội mới tốt đẹp hơn. Thực chất theo Hồ Chí
Minh đó là xây dựng đời sống mới với ba nội dung:
+ Đạo đức mới: Để xây dựng đời sống mới trước hết phải xây dựng đạo đức mới.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của hội dồng chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị
“mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN,
KIỆM, LIÊM, CHÍNH”. Sau này, Người đã nhiều lần khẳng định: “Nếu không giữ
đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”, “nêu
cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”. Việc thiện
dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh; phải làm tốt tự phê bình và
phê bình để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, thường xuyên chống lại mọi
biểu hiện bất chính, mỗi ngày cố làm được một việc có lợi cho cơ quan, đơn vị, cho
Tổ quốc, nhân dân. Khi đó con người sẽ có phẩm chất tốt đẹp, sống lành mạnh và tạo
cho mình các giá trị chân thiện mỹ.
+ Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức. Đó cịn là lối sống
văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn
hoá nhân loại. Con người muốn tồn tại phát triển phải có cách ăn, mặc, ở, đi lại và làm
việc phù hợp với từng hoàn cảnh nhất định; mỗi một hoạt động của chúng ta đều phải
mang tính văn hố. Theo ngơn ngữ hiện nay thì đây chính là phong cách sống và
phong cách làm việc. Chẳng hạn trong quan hệ với mọi người thì chân thành, cởi mở;
giàu tình yêu thương, quý mến, tơn trọng con người. Với mình thì nghiêm khắc, với
người thì độ lượng, khoan dung. Đối với phong cách làm việc, thì phải có tác phong
tập thể - dân chủ đó là mình vì mọi người, tơn trọng ý kiến đa số và có tác phong làm
việc khoa học. Qua đó, mỗi người sẽ học được cái tốt của nhau, làm gương cho nhau
để bản thân ngày càng phát triển góp phần phát triển đất nước.
+ Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới là quá trình làm cho nếp sống mới dần dần
thành thói quen, thành phong tục, tập quán tốt đẹp, đồng thời kế thừa và phát triển
những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đời sống
mới khơng phải cái gì cũ cũng bỏ hết, khơng phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà
xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà khơng xấu nhưng phiền phức thỉ sửa đổi, Cái gì cũ mà
6
tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà tốt thì phải làm, phải bổ sung. Đó là cách chúng
ta tuân theo sự vận động của các quy luật khách quan để hồn thiện mình hơn.
Tóm lại xây dựng văn hoá đời sống mới nhằm biến Việt Nam từ một quốc gia
nghèo nàn thành một quốc gia văn minh và phú cường là một công việc lâu dài
và phải có phương pháp tốt. cơng việc đó địi hỏi sự quyết tâm của cả cộng
đồng dân tộc, song trước hết, phải được bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia
đình, với tư cách là tế bào của xã hội.
Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
2.2.
Văn hóa là một mặt trận
Khẳng định văn hóa là một mặt trận là khẳng định vai trị xung kích của văn
hóa trong sứ mệnh giải phóng dân tộc, là khẳng định một lĩnh vực quan trọng không
thể thiếu được, cùng các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế tạo thành những mặt trận
trong cuộc kháng chiến tồn diện của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là
một mặt trận khơng chỉ qn triệt trong suốt 30 năm kháng chiến chống thực dân, đế
quốc xâm lược mà cả trong thời kỳ đất nước ta đổi mới, phát triển trên con đường
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Đảng ta đã vạch ra đường lối văn hóa
kháng chiến, tạo điều kiện cho các trí thức, văn nghệ sĩ nhận được con đường đi đúng
đắn theo hướng ánh sáng của văn hóa cách mạng. Trong tác phẩm “Kháng chiến nhất
định thắng lợi”, đồng chí Trường Chinh lúc này là Tổng Bí thư Đảng đã nêu rõ tầm
quan trọng của văn hóa đối với công cuộc kháng chiến mang lại ý nghĩa về đường lối,
và lý luận cơ bản về văn hóa kháng chiến. Cho nên, lúc này các nhà văn nghệ, giáo
dục, các anh chị em trí thức phải tham gia kháng chiến, mở một mặt trận văn hóa, tiến
cơng vào dinh lũy văn hóa của địch. Mọi hoạt động văn hóa lúc này phải nhằm vào
khẩu hiệu “yêu nước và căm thù giặc”.
2.3.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng
Văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi hoạt động
7
phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát
vọng của quần chúng.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân là phải miêu tả cho hay, cho thật, cho
hùng hồn, phải trả lời được các câu hỏi: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài liệu đâu
mà viết? Cách viết như thế nào? Viết phải thiết thực, tránh cái lối ham dùng chữ. Nói
ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn, thì quần chúng thích hơn. Trên cơ sở
đó để định hướng giá trị cho quần chúng. Và chính họ là những người thẩm định
khách quan, trung thực, chính xác các sản phẩm văn nghệ. Nhân dân phải là những
người được hưởng thụ các giá trị văn hóa.
3.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóa
Chức năng của văn hố rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hố có ba
chức năng chủ yếu sau đây:
Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp
Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề quan trọng nhất trong đời sống tinh thần
của con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn
hoặc cao đẹp. Chức năng cao quý nhất của văn hoá là phải bồi dưỡng, nêu cao tư
tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp
hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người. Tư tưởng và tình cảm rất phong
phú, văn hoá phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối đời
sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc. Trong đó Tình cảm lớn, theo Hồ Chí
Minh là lịng u nước, thương dân, thương yêu con người; yêu tính trung thực, chân
thành, thuỷ chung, ghét những thói hư, tật xấu, sự sa đoạ… Lý tưởng là điểm hội tụ
của những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, đó là
lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hố là phải làm thế
nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm thế nào cho ai cũng có
“tinh thần vì nước qn mình, vì lợi ích chung và qn lợi ích riêng”. Chẳng hạn như
thời cịn chiến tranh có rất nhiều thanh niên có lý tưởng lớn, tình cảm lớn trong việc
8
giành độc lập dân tộc mà điển hình là Tố Hữu sau khi giác ngộ lí tưởng cách mạng
thốt ra rằng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí
Nói đến văn hố là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, vốn kiến thức của
người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu biết
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vấn đề nâng cao dân trí thực sự chỉ có thể
thực hiện sau khi chính trị đã được giải phóng, tồn bộ chính quyền đã về tay nhân
dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hố trong từng giai đoạn có thể có những điểm
chung và riêng. Trong thời kì kháng chiến, nước ta đề cao diệt giặc đói, giặc dốt để
mọi người có thể tự do, cơm no, áo ấm và phải biết chữ. Trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta địi hỏi dân trí phải có môi trường sống và làm việc chất
lượng, phải đào tạo ra lực lượng tri thức cao nhầm nâng cao trình độ dân trí. Vì thế mà
hiện nay giáo dục nước ta đang là quốc sách hàng đầu. Song tất cả đều hướng vào
mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hố, góp
phần cùng đảng tiến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao
và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Đó cũng là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã vạch ra trong công cuộc đổi mới.
Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh;
hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, tù thói quen của cá
nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong cách thường có
mối quan hệ gắn bó với nhau. Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong
cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc, lới ứng xử trong cuộc sống… Ngoài ra, Người
9
cũng từng nói “có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài làm
việc gì cũng khó”. Như vậy ta có thể thấy, Người đề cao phẩm chất cá nhân hơn vì
nếu khơng có đức sẽ chẳng làm được gì tốt đẹp cho xã hội và xã hội sẽ không cần đến.
Ngược lại nếu khơng có tài mặc dù có thể khơng làm được việc lớn nhưng vẫn có thể
mang lại giá trị nhất định cho xã hội. Nói như vậy khơng có nghĩa là chúng ta chỉ ưu
tiên rèn luyện phẩm chất, cốt cách tốt đẹp mà phải đồng thời rèn luyện tài năng để góp
phần đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác đã từng căn dặn
thế hệ trẻ chúng ta.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp sẽ làm nên giá trị của con người. Văn hố
giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành
mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái tiến bộ với
cái lạc hậu, bảo thủ, ngày càng giảm, vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để hồn
thiện bản thân.
4.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
4.1
Trước Cách Mạng Tháng Tám năm 1945
Tháng 8-1943, cùng với việc đưa ra quan niệm về ý nghĩa của văn hóa, Hồ Chí
Minh quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm nội dung:
Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường
Quan điểm ấy xuất phát từ :
+ Thứ nhất, Hồ Chí Minh coi tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập tự do và là
điều kiện tiên quyết để phát triển quan hệ, vị thế ngoại giao.
+ Thứ hai, Hồ Chí Minh khẳng định phát huy tinh thần tự lực, tự cường là trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong mọi chặng đường lịch sử.
+ Thứ ba, Hồ Chí Minh cho rằng tinh thần tự lực tự cường của dân tộc phải
được xây đắp bằng ý chí tự lực tự cường, tự lực cánh sinh của mỗi cá nhân.
10
+ Thứ tư, Hồ Chí Minh khẳng định việc phát huy tinh thần tự lực, tự cường
hồn tồn khơng loại trừ việc tranh thủ sự giúp đỡ của thế giới trên nguyên tắc lấy nội
lực làm nhân tố quyết định.
Xây dựng luân lý: Biết hi sinh mình, làm lợi cho quần chúng
Mục đích của Hồ Chí Minh trong xây dựng luân lý là đào tạo giáo dục con
người biết đặt lợi ích dân tộc, giai cấp lên trên lợi ích của bản thân. Trong những tình
huống bắt buộc có thể hy sinh mình để bảo vệ lợi ích đó. Vì vậy mỗi người cần có tư
tưởng quan điểm mình vì mọi người. Từ đó Người u cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên
phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải
kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư
tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật
Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân
Khi nói về chủ nghĩa xã hội, nhiều lần Hồ Chí Minh đã đặt “phúc lợi của nhân
dân”là ý nghĩa quan trọng nhất của khái niệm này: “Chủ nghĩa xã hội là mọi người
dân được áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, được học hành” ; “Chủ nghĩa xã hội là làm sao
cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có
thuốc, già khơng lao động được thì nghỉ”... Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận “phúc
lợi” không chỉ đơn thuần là những giá trị vật chất, mà còn là những yêu cầu về “tự
do”, “dân chủ”, “học hành”, “nghỉ ngơi”, những điều kiện cần và đủ cho con người
phát triển một cách toàn diện. Điều ấy cho ta thấy việc phấn đấu cho phúc lợi của
nhân dân là yêu cầu quyết định, thể hiện bản chất của chế độ.
Xây dựng chính trị: Dân quyền
Tiếp thu tinh hoa của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tư tưởng
lấy dân làm gốc trong xây dựng chính quyền. Mọi hoạt động của các cơ quan nhà
nước phải lấy dân làm gốc vì: “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền
nhân dân”.Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ
và dân làm chủ. Người chỉ rõ, địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất
nước và nhân dân là chủ thể của quyền lực
11
Xây dựng kinh tế: phát triển bền vững
Một nền kinh tế phát triển tốt đẹp, bền vững chỉ khi nó gắn bó với những giá
trị văn hóa, kết tinh trong nó những giá trị văn hóa, làm giàu có thêm và thúc đẩy sự
phát triển của những giá trị văn hóa của dân tộc, của đất nước. Ở một khía cạnh nào
đó, có thể thấy tư tưởng phát triển các lĩnh vực văn hóa của Hồ Chí Minh rất gần gũi
với quan điểm phát triển bền vững hiện đại.
4.2
Trong khi kháng chiến chống thực dân Pháp
Mục tiêu, con đường, phương pháp thực hiện cuộc cách mạng văn hóa ở nước
ta trong thời kì kháng chiến chống pháp lúc bấy giờ là phải nắm vững ba nguyên tắc
sau:
+ Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nơ dịch và thuộc địa khiến cho vǎn hóa
Việt Nam phát triển độc lập).
+ Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hóa phản lại
đơng đảo quần chúng hoặc xa đơng đảo quần chúng).
+ Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hóa trái khoa học,
phản tiến bộ)”.
- Đảng ta cũng khẳng định: “Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch
liệt chống những xu hướng vǎn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy
tâm, ... Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng vǎn hóa q trớn của bọn
tờrốtkít”. Ngay sau khi “Đề cương về văn hóa Việt Nam” được cơng bố, những người
cộng sản và các nhà văn hóa, trí thức u nước đã nhiệt tình ủng hộ, tổ chức nhiều
cuộc vận động xây dựng nền văn hóa mới - văn hóa cách mạng. Trong các văn kiện,
sách báo của Đảng, trên các phương tiện thông tin đại chúng lúc bấy giờ, đều nhất
quán khẳng định giá trị tư tưởng, quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” của “Đề cương
về văn hóa Việt Nam”, quyết tâm thực hiện và đưa vào đời sống quan điểm, tư tưởng,
mục tiêu và ba nguyên tắc của nền văn hóa Việt Nam mà Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc đã chỉ ra. Đồng thời, làm cho xu trào văn hóa mới của Việt Nam đang cố
12
vượt hết mọi trở lực để nảy nở, xâm nhập ngày càng sâu, rộng vào đời sống nhân dân
và phong trào cách mạng đang lên.
4.3
Trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ nhân dân miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
chủ trương xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng được biểu hiện như sau:
+ Tính dân tộc: Được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều khái niệm như đặc tính dân
tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến chiều sâu bản chất rất đặc trưng của nền
văn hóa dân tộc, giúp phân biệt, khơng nhầm lẫn với văn hóa dân tộc khác. Đó là
truyền thống văn chương khoa bảng và hiếu học, truyền thống cách mạng, các di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, hấp dẫn. Dân ca ví, giặm, ca trù, chèo
Kiều… cùng tên tuổi nhiều danh nhân đã trở thành tài sản tinh thần quý giá. Về mặt
ngơn ngữ, Người căn dặn: '‘Tiếng nói là một thứ của cải rất quý báu của dân tộc,
chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi”. Đây là đặc tính
quan trọng, mang nét đặc biệt của dân tộc Việt Nam vì thế chúng ta cần phải giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa nước nhà. Để các truyền thống văn hóa ln lưu truyền
mãi mãi đến đời sau những giá trị tốt đẹp.
Người cho rằng, để được như vậy, phải “trau dồi cho văn hố, văn nghệ có tinh thần
thuần tuý Việt Nam”, phải “lột tả cho hết tinh thần dân tộc”, đó là chủ nghĩa u
nước, đồn kết, khát vọng dân tộc, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc…Người cho
rằng, “nếu dân tộc hoá mà phát triển được đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hố
nó, vì lúc bấy giờ văn hố thế giới sẽ phải chú ý đến văn hoá của mình và văn hố của
mình sẽ chiếm được địa vị ngang với các nền văn hố thế giới”. Tính dân tộc của
nền văn hố khơng chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho
phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính
dân tộc của văn hóa. rất tồn diện và sâu sắc, từ nội dung đến hình thức diễn đạt. Bản
thân Người là nhà văn hóa kiệt xuất, là biểu tượng cao đẹp của bản sắc, tính cách, tâm
hồn dân tộc là tấm gương cho các nhà văn hóa - văn nghệ học tập và noi theo.
13
+ Tính khoa học:
Nền văn hố nước ta được xây dựng trên nền văn hố nơng nghiệp cịn mang nhiều
hạn chế: Trình độ khoa học thấp kém, lề lối sản xuất chưa được cải tiến nhiều, cách
thức làm việc chưa khoa học, phong tục tập quán còn nhiều lạc hậu… Để bù đắp
những thiếu hụt về giá trị khoa học của nền văn hố truyền thống Việt Nam, Hồ Chí
Minh chủ trương xây dựng nền văn hoá Việt Nam mang tính khoa học, đưa nền văn
hố Việt Nam bước vào thời đại mới.
Tính khoa học của văn hóa thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, bắt kịp xu hướng
của nhân loại. Nhưng chúng ta phải tiếp thu có chọn lọc chứ khơng phải cái gì hay
cũng xem nó là văn hóa được. Văn hóa nào phù hợp với thuần phong mỹ tục, chuẩn
mực của nước nhà mới được xem là tiếp thu văn hóa có khoa học. Là người dân Việt
Nam ta thường xuyên tiếp xúc với mạng xã hội rất dễ bị ảnh hưởng bởi luồng tư tưởng
xấu. Chính vì lẽ đó người dân cần có ý chí dân tộc và cách mạng vững vàng để không
làm mờ đi nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời tính khoa học của văn hố
địi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ. Phải đấu
tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan, phải biết khơi gợi tinh thần
kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Người giao cho ngành giáo dục phải “dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học, kỹ
thuật, làm cho các cháu yêu khoa học từ nhỏ, để mai sau các cháu trở thành những
ngưịi có thói quen sinh hoạt và làm việc theo khoa học”. Người nhắc nhở ngành văn
hóa: trong việc khôi phục vốn cũ chỉ “nên khôi phục cái gì tốt, cịn cái gì khơng tốt thì
phải loại dần ra", khơng được “khơi phục cả đồng bóng, rước xách thần thánh’’”.
Để tuyên truyền nếp sống vệ sinh, phong cách sống và làm việc theo khoa học. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết các tác phẩm Đời sống mới, Sửa đổi lối làm việc, nhằm tổ
chức lại các quan hệ văn hóa từ trong một nhà, một làng, một trường học đến các cơ
quan, đơn vị bộ đội, v.v. sao cho việc ăn, ở. học tập, lao động... phải tuân theo đời
sống mới, bài trừ các phong tục tập quán cổ hủ, làm cho nếp sống xã hội ta mỗi ngày
một tiến bộ hơn, hợp với khoa học và văn minh.
14
+ Tính đại chúng: thể hiện ở chỗ nền văn hoá ấy phải phục vụ nhân dân và do
nhân dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh nói, “văn hố phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta
phải nói là phục vụ công nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân”; “Quần
chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần
chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là
người sáng tác nữa…” Cho nên Người từng nói: " Những câu tục ngữ, những câu vè,
ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn,
chứ không “trường thiên đại hải”, dây cà ra dây muống.
Vì vậy yêu cầu đặt ra là văn hóa phải biểu hiện được sự phục vụ của mình đối với
quần chúng nhân dân. Tính đại chúng của văn hóa địi hỏi các nhà hoạt động văn hóa
phải tăng cường liên hệ với thực tế, đi sâu vào cuộc sống của nhân dân, vừa để phản
ánh tâm tư, nguyện vọng và cuộc sống của nhân dân, vừa để đem ánh sáng văn hóa
đến với mọi người, mọi nhà.
Mấu chốt của xã hội là đảm bảo công bằng hướng vào phát triển con người, bồi
dưỡng, trọng dụng nhân tài, vừa là mục tiêu, vừa là động của sự phát triển xã hội. Cụ
thể là xây dựng con người có đạo đức cách mạng, con người mới xã hội chủ nghĩa với
đức - tài gắn bó hữu cơ với nhau, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân, trung thành với
sự nghiệp cách mạng xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới. Về xã hội, thực hiện
phân phối theo lao động, thi hành chính sách xã hội vì tồn dân, bình đẳng.
II.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI SINH
VIÊN HIỆN NAY
1.
Nhận thức của sinh viên trong việc học tập và làm theo tác phong, lối sống
của Hồ Chí Minh
Về phong cách làm việc
Bác là người làm việc có khoa học, ln u cầu làm việc gì cũng phải điều tra,
nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu cụ thể, để nắm chắc thực chất tình hình. Làm
việc ln có kế hoạch, làm việc đúng giờ, phong cách đổi mới, sáng tạo, khơng chấp
nhận lỗi cũ, đường mịn, dám nghĩ dám làm. Chính vì vậy mà Người ln hồn thành
15
được mục đích mà mình đã đặt ra và cụ thể là Bác đã thành công trên con đường cứu
nước của mình.
Về phong cách ứng xử
Bác là người khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp, chân tình nồng hậu, tự nhiên, linh hoạt,
chủ động,... Là một người lãnh đạo, tuy nhiên Bác ln vui vẻ hịa nhã, xóa nhịa mọi
khoảng cách của mình với nhân dân, coi nhân dân như anh em, con cháu trong cùng
một nhà. Với phong cách ứng xử đó đã lý giải vì sao, mỗi khi Bác Hồ xuất hiện ở đâu
là ở đó rộn lên niềm vui và tiếng cười hồ hởi không dứt.
Về phong cách sinh hoạt
Bác là người sống “Cần – Kiệm – Liêm - Chính”, “chí cơng vơ tư”. Theo Hồ Chí
Minh “cần” tức là lao động cần cù siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, lao
động với năng suất và hiệu quả cao. “Kiệm” tức là tiết kiệm, khơng xa xỉ khơng hoang
phí. “Liêm” là trong sạch, khơng tham lam, không tham tiền tài, địa vị sung sướng,
danh tiếng,.. ngược lại là đều bất liêm. “Chính” nghĩa là khơng tà, thẳng thắn, đứng
đắn. “Chí cơng vơ tư” là khơng suy nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau mà chỉ biết
vì Đảng vì Tổ quốc, vì đồng bào.
Từ những tác phong và lối sống khoa học, đúng đắn, phù hợp với mọi thời đại của
Người, mỗi người sinh viên chúng ta cần có thái độ học tập và noi theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh
2. Thái độ của sinh viên trong việc học tập và làm theo tác phong, lối sống của
Hồ Chí Minh
Thái độ ham học hỏi
Là những người sinh viên, đang trong quá trình tích lũy tri thức rất cần có thái độ này,
nó như động cơ để dẩy tồn bộ các thái độ, kiến thức, kỹ năng khác giúp cho con
người tiến về phía trước. Một người ham học hỏi là ta ngày càng làm được nhiều việc
hơn, việc khó hơn với thời gian ngắn hơn. Đặc biệt, trong tình hình covid và chúng ta
phải học trực tuyến thì việc có một thái độ ham học hỏi này lại càng cần thiết hơn,
chẳng hạn như: tích cực giơ tay phát biểu xây dựng bài, trong giờ học phải chú ý lắng
16
nghe thầy cô giảng, trao đổi những thắc mắc với giáo viên và sinh viên ngay trong giờ
cũng giúp ích cho chúng ta rất nhiều.
Thái độ nghiêm túc
Thái độ nghiêm túc ở đây được hiểu là sinh viên phải nghiêm túc trong cơng việc,
sống có kỷ luật. Là những người sinh viên và đặc biệt là sinh viên trường Kiểm sát thì
việc có thái độ sống kỷ luật là rất quan trọng. Một người có kỷ luật khơng phải đối xử
với chính mình một cách hà khắc tệ bạc. Nếu hà khắc mà chẳng đi tới đâu thì đó là sự
mù quáng. Với đặc thù của nghành, thì sinh viên Kiểm sát phải biết nhất quán về hành
động, tuân thủ về thời gian, có khả năng tập trung vào cơng việc và phải thật nghiêm
túc trong cơng việc vì nó giúp sinh viên chúng ta làm việc một cách chun nghiệp
hơn. Có như vậy thì sinh viên chúng ta mới trở thành những người Kiểm sát viên
vững về chính trị và giỏi về nghiệp vụ.
Thái độ tự tin, dám nghĩ dám làm
Sinh viên hiện nay cần có thái độ tự tin, dám nghĩ dám làm vì khi con người tự tin thì
khả năng thành cơng sẽ cao hơn. Không những thế sinh viên là những người trẻ tuổi
nên trải nghiệm, khám phá nhiều hơn để tích lũy các kinh nghiệm sống. Chẳng hạn
như trong khi học, chúng ta phải tự tin trong việc đưa ra quan điểm của mình, chúng
ta có thể phản biện lại ý kiến của các bạn. Phản biện ở đây phải có căn cứ chứ không
thể diễn ra một cách tùy tiện. Chúng ta khơng nên sợ sai kiến thức vì nếu có sai thì lần
sau ta sẽ tư duy một cách tốt hơn, ngược lại nếu đúng sẽ cho ta nhiều đột phá mới.
Như thế sẽ giúp sinh viên ta phát triển bản thân hơn.
Thái độ lạc quan
Thái độ sống tích cực, tư duy tích cực,…. chung quy đó là sự lạc quan. Một người lạc
quan thể hiện trạng thái bên ngoài là sự vui vẻ chiếm phần lớn, ít dành thời gian cho
than vãn, luôn thấy mặt tốt của bất cứ vấn đề nào, luôn tin vào thành công vào một
ngày nào đó. Thái độ lạc quan cũng như thái độ nhiệt tình, cần phải trải qua quá trình
học tập và rèn luyện mới có được. Là những người sinh viên cần có lối sơng lạc quan,
tích cực tránh những suy nghĩ bi quan thì mới có thể tự đứng dậy sau những lần vấp
17
ngã, tin tưởng vào cuộc sống hơn, có như vậy thì mới chuyên tâm vào việc học hành
và rèn luyện tu dưỡng bản thân.
Thái độ biết ơn
Bác Hồ đã từng nói: “Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”, chính lịng biết ơn này mà Bác cùng nhân dân lúc bấy giờ giữ
được cho đời con cháu sau này một đất nước hịa bình, tồn vẹn lãnh thổ, phát triển
tồn diện. Là những người sinh viên, biết tập trung, cố gắng sử dụng vào những gì
mình đang có: người biết q trọng thời gian sẽ sử dụng thời gian một cách hợp lý và
có hiệu quả; người biết coi trọng sức khỏe thì bản thân sẽ ngày càng mạnh khỏe hơn...
ngồi ra, cịn biết ơn những gì người khác cho mình: cha mẹ cho hình hài, thầy cơ cho
kiến thức, bạn bè cho sẻ chia... chính những điều này sẽ giúp ta trở thành con người có
tự trọng, tinh thần trách nhiệm, tự chịu trách nhiệm, chủ động... giúp ích cho bản thân.
3. Sinh viên học và làm theo tác phong lối sống của Hồ Chí Minh
Thứ nhất, trong cơng tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường, hội viên, sinh viên cần
Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm gương Hồ
Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đơi với làm.Tự soi mình, sửa
mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời Bác dạy. Phấn đấu
trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, ln nói
đi đơi với làm để cho người khác noi theo.Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào
của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh
hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình
nguyện tốt, Hội nhập tốt.
Thứ hai, sinh viên khơng chỉ có nhiệm vụ tích cực học tập và làm theo Bác mà còn
phải trách nhiệm, trung thực
Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng đắn, đầy
đủ về vai trị, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần trách nhiệm, trung
thực; chỉ rõ tác hại của những hành vi vô trách nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm
một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã hội.Tôn
18
trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải.Sống ngay thẳng,
thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm.Phải tự giác phấn đấu, rèn
luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa chữa khuyết điểm, khắc phục những
mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và mặt tích cực.
Thứ ba, sinh viên cần xác định rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc, với Đảng,
với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp chung của đất
nước
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta khơng một phút nào được
qn lý tưởng cho cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ
nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới". "Nhiệm vụ của
thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã
làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã
vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?".
Thứ tư, không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao
tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đơi với làm
Mỗi sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình.Phải thật sự trung
thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân, bạn bè,...Phải chống lại
thói ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vơ cảm, "đục nước béo cò"
khi người khác gặp hoạn nạn. Phải đấu tranh với việc quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng
giả, mua bán tri thức... Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thối về
tư tưởng chính trị,đạo đức, lối sống trong xã hội.Để làm được như vậy, trước hết phải
nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc và trong
cuộc sống, coi đó là đức tính cân thiết và q báu, là phẩm giá của mỗi người. Sinh
viên cần chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo đức, rèn luyện sức khỏe,
có lối sống lành mạnh, khơng vướng vào tệ nạn xã hội, khơng nói dối thầy cơ, cha mẹ.
19
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, theo Hồ Chí Minh văn hóa có vai trị rất quan trọng với người Việt
Nam. Bởi văn hóa khơng chỉ phục vụ quần chúng nhân dân mà còn là một mặt trận; là
mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng. Chính vì lẽ đó, Hồ Chí Minh từng nói
đến “văn hố soi đường cho quốc dân đi”, “phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để
thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”, phải “xúc tiến cơng tác văn hố để đào tạo con
người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”. Khi ấy cũng như các
chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến,
phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là cơng, nơng, binh. Và văn hóa
phụng sự nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc luôn là một quan điểm
xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố.Vì vậy quan điểm của Người về
xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam phải là là một nền văn hóa tồn diện, giữ gìn
được cốt cách văn hóa dân tộc, bảo đảm tính khoa học, tiến bộ và nhân văn. Sinh viên
chúng ta là những chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta có nhiệm vụ phải học tập
rèn đức luyện tài, sống và làm theo tác phong, lối sống Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là
một biểu tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đơng và phương
Tây. Sinh viên chúng ta là sự tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh và nền tri thức hiện đại.
20
DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO
1. Chương 6, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, năm
2021.
2. Phạm Thị Lan và Trần Thị Minh Tuyết, Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về tự lực,
tự cường đến phát huy nội lực đất nước hiện nay ,Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung
ương, năm 2021.
3. Nguyễn Quỳnh, Bác Hồ với học sinh, sinh viên Việt Nam, Nhà văn hóa thanh niên
thành phố Hồ Chí Minh.
4. Tạ Ngọc Tấn,Vấn đề văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đất nước,
Hội người cao tuổi Việt Nam, năm 2014.
5. Trường đại học Khánh Hòa,Phát huy vai trò của sinh viên trong việc xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, năm 2020.
21