HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
-------------------------
TIỂU LUẬN
HP1 ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT QUÂN
SỰ VIỆT NAM
Sinh viên: ĐÀO THỊ BÍCH NGỌC
Mã số sinh viên: 2156080040
Lớp GDQP&AN: Lớp 22
Lớp: TRUYỀN HÌNH CHẤT LƯỢNG CAO
Hà nội, tháng 11 năm 2021
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã từng nói “Dân ta có một lịng nồng nàn u
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
cướp nước”. Việt Nam chúng ta có lịch sử truyền thống đấu tranh dựng nước và
giữ nước vô cùng oanh liệt. Các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược do nhân
dân ta tiến hành đều là chiến tranh nhân dân chính nghĩa, thu hút được đông đảo
quần chúng tham gia ủng hộ. Trong các cuộc chiến tranh ấy, nhiều trận đánh hay
đã mãi mãi ghi vào sử sách, vào tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Ngày nay, nhìn
lại lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng ta càng tự hào về truyền thống
hào hùng ấy. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân đã được hình thành rất sớm trong
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã trải
qua những bước phát triển trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc từ thấp đến
cao và đạt đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam. Cuộc chiến nào cũng phải có yếu tố nhân dân, phải huy động
được một lực lượng quần chúng tham gia. Quá trình chống kẻ thù xâm lược, giữ
nước hoặc giải phóng dân tộc hoặc bảo vệ Tổ quốc mỗi thời đại lịch sử có khác
nhau, song dù dài, dù ngắn nhân dân ta đều đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giải
phóng được dân tộc. Vận nước có lúc thịnh lúc suy, song mỗi khi có kẻ thù xâm
lược, nhân dân ta lại đoàn kết đứng lên chiến đấu chống bọn xâm lăng, bảo tồn nòi
giống, văn hóa dân tộc Việt Nam.
Xuyên suốt bề dày lịch sử hàng nghìn năm dụng nước và giữ nước, dân tộc ta đã
liên tục anh dũng, kiên cường, bất khuất đấu tranh bảo vệ độc lập, giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc chống kẻ thù xâm lược. Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy
luật tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam. Thực tiễn lịch sử đã tạo nên truyền
2
thống, khí phách hào hùng của dân tộc và để lại nhiều di sản quân sự quý báu mà
không mấy quốc gia có được.Trong đó phải kể đến một di sản vơ cùng q giá, đó
là tư tưởng và nghệ thuật quân sự độc đáo, đặc sắc, thấm đẫm tính nhân văn-văn
hóa quân sự Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam, các cuộc chiến tranh Việt Nam từng bước trở nên vững mạnh, song vẫn
có lúc rơi vào thế yếu, nằm dưới thế gọng kìm. Tuy “mạnh yếu từng lúc khác nhau,
song hào kiệt thời nào cũng có”, chính quyền và nhân dân ta với trái tim yêu nước
cháy bỏng, sự dũng cảm phi thường đã hình thành nên nhiều loại hình, hình thức
đấu tranh vũ trang, quân sự đặc sắc. Trải qua nhiều biến đổi đau thương, thăng
trầm của lịch sự, ông cha ta đã hình thành và đúc kết những chiến lược quân sự,
kinh nghiệm chiến đấu tuỳ theo từng điều kiện vô cùng linh hoạt, khéo léo. Quá
trình biến đổi và phát triển của cách mạng Việt Nam đã rèn đúc và phát triển nền
nghệ thuật quân sự vô cùng ưu việt, đặc sắc lại rất hiệu quả, kịp thời. Chính truyền
thống và nghệ thuật ấy đã góp phần tạo nên những chiến công hiển hách, lẫy lừng
bốn bể năm châu, giúp ta giành lại được độc lập dân tộc, bờ cõi nước nhà. Chiến
tranh qua đi, nhưng những cuộc chiến tranh tàn khốc đã gây ra sự hi sinh mất mát
mà nước ta phải gánh chịu khơng thể xố mờ. Thế hệ đi trước đã nằm xuống vì
độc lập, con cháu ta sau này luôn biết ơn và ra sức xây dựng đất nước, khắc ghi
trong tim truyền thống yêu nước thiêng liêng của dân tộc, ngày càng phát triển
nghệ thuật quân sự để xây dựng đất nước và tiếp tục công cuộc dựng nước - giữ
nước của ông cha ta. Điều này đã chứng minh rất rõ ràng một chân lý, đất nước
Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng con người, dân tộc Việt Nam kiên cường và kiêu hãnh
không một đất nước, một cuộc chiến nào có thể đánh bại, tinh thần yêu nước hoà
cùng sức mạnh toàn dân thống nhất đã phát triển thành truyền thống và nghệ thuật
quân sự ưu việt, độc đáo, hiện đại và hiệu quả trở thành thứ vũ khí đắc lực của đất
nước Việt Nam.
3
2.Mục đích nghiên cứu đề tài
-Làm rõ khái niệm và cơ sở lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam.
-Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
-Nghiên cứu để có thể làm tài liệu tham khảo và làm cơ sở để học mơn “Giáo Dục
Quốc Phịng”.
3.Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của cha
ông ta bao gồm:
-Những buổi đầu lịch sử của đất nước.
-Những yếu tố tác động đến việc hình thành truyền thống và nghệ thuật đánh giặc.
-Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược.
-Nghệ thuật đánh giặc.
4.Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu tập trung về nghệ thuật đánh giặc của ơng cha ta từ đó giải thích
vì sao nghệ thuật đó lại trở thành tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam.
Lấy phạm vi là các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm trong lịch sử.
5.Phương pháp nghiên cứu:
-Sử dụng phương pháp lý luận thông qua việc nghiên cứu thu nhập các tài liệu,
các kênh thông tin quân đội.
-Sử dụng phương pháp hệ thống để thể hiện đầy đủ quá trình hình thành và phát
triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
-Sử dụng các phương pháp về quan điểm lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê,
quan điểm thực tiễn để xem xét nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu và định
hướng cho quá trình nghiên cứu.
4
6.Kết cấu của đề tài:
Đề tài gồm: Mở đầu, 3 chương và tài liệu tham khảo.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TRUYỀN THỐNG VÀ NGHỆ THUẬT ĐÁNH
GIẶC CỦA ÔNG CHA TA.
1.Đất nước trong buổi đầu lịch sử:
1.1 Đất nước trong buổi đầu lịch sử
Lịch sử quốc gia dân tộc Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn gắn liền với lịch sử
dựng nước và giữ nước. Từ mấy nghìn năm trước khi các vua Hùng dựng nước
Văn Lang, nhu cầu tự vệ chống giặc ngoại xâm đã trở nên không thể thiếu trong
mỗi người dân nước Nam. Nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của ta có lãnh thổ
khá rộng và vị trí trọng điểm nằm trên đầu mối những đường giao thông qua bán
đảo Đông Dương và vùng Đông Nam Á. Do có vị trí thuận lợi, nước ta ln bị các
thế lực thù địch nhịm ngó. Sự xuất hiện của chúng ảnh hưởng trực tiếp đến nền
độc lập tự do và vận mệnh của đất nước. Vì thế bảo vệ độc lập, tự do, chủ quyền
đất nước đã sớm xuất hiện trong lịch sử dân tộc ta theo đó tinh thần bất khuất,
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh cũng dần hình thành và tồn tại trong con người
Việt Nam từ những ngày đầu lập nước. Minh chứng cho việc đó, ngày nay ta tìm
thấy ở những di chỉ văn hóa Gị Mun, Phùng Ngun, Đơng Sơn,... (những di chỉ
có niên đại lên đến 3500 -4000 năm) ngồi những cơng cụ bằng đồng dùng trong
trồng trọt, chăn ni thì cịn có những vũ khí thơ sơ để tự vệ như: lưỡi búa, mũi
tên, lưỡi dao, giáo, rìu, dao găm và những mảnh giáp che thân bằng đồng. Bên
cạnh đó cịn có các truyền thuyết như “Thánh Gióng” hay những con người lịch
sử như An Dương Vương, Hai Bà Trưng, bà Triệu,... cũng đã góp phần chứng
minh cho truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông ta.
5
Truyền thống đấu tranh, chống giặc ngoại xâm đã tồn tại trong con người Việt
Nam từ những ngày đầu lập nước. Đó là nguồn gốc để hình thành những nghệ
thuật đánh giặc sau này.
1.2 Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược
1.2.1 Các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm từ thế kỉ III TCN đến
thế kỉ X
Hơn 1000 năm (từ năm 179 trước Công Nguyên đến 938), nước ta phải chịu ách
thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc. Đây cũng là lúc tinh thần bất
khuất, kiên cường quyết tâm đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn, phát huy tinh
hoa của nền văn hóa dân tộc, quyết tâm giành lại độc lập tự do của con người Việt
Nam được thể hiện rõ nhất. Song song với đó là sự hình thành của những nghệ
thuật đánh giặc đặc trưng. - Mùa xuân năm 40 Hai Bà Trưng khởi nghĩa giành lại
độc lập cho đất nước ta. Đây là điển hình đầu tiên của một cuộc khởi nghĩa tồn
dân. Trong những buổi đầu giữ nước, ông cha ta nói chung và Hai Bà Trưng nói
riêng đã biết cách tập hợp, huy động sức mạnh toàn dân kháng chiến chống quân
xâm lược. Đây là một trong những nghệ thuật đánh giặc truyền thống của nhân
dân ta từ xưa đến nay. Bên cạnh đó Hai Bà Trưng cịn sử dụng chiến thuật đánh
vào những điểm trọng yếu của địch khiến chúng bị “mất đầu” nhanh chóng tê liệt
và tan rã. Chiến thuật này ta cũng đã bắt gặp ở những trận chiến sau này.
Năm 248, nhà Ngô xâm lược nước ta, Triệu Trinh Nương (Bà Triệu) đứng lên phất
cờ khởi nghĩa. Bà cùng anh trai tập hợp nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa, ngày đêm luyện
tập võ nghệ để chuẩn bị khởi nghĩa. Trong quá trình khởi nghĩa, bà Triệu làm các
bài hịch và truyền khắp nơi kể tội nhà Ngơ, nâng cao sĩ khí tồn qn, kêu gọi mọi
người hưởng ứng khởi nghĩa. Nghĩa quân của người con gái núi Nưa làm cho quân
thù khiếp sợ. Cũng cần phải nói thêm, ở trong cuộc khởi nghĩa này bà Triệu đã rất
sáng suốt trong việc chọn vùng Bồ Điền để lập căn cứ địa sau khi đánh thắng thành
Tư Phố. Đây là vùng đất thuận lợi cho cả “công” và “thủ”. Từ đây có thể ngược
6
sông Lèn, sông Lâu ra Sông Mã để rút lên Quân Yên hoặc tới căn cứ núi Nga vừa
có thể chủ động tiến công ra Bắc theo lối Trần Phù. Một hệ thống phòng ngự vững
chắc đã được bà dựng lên dựa vào địa thế hiểm yếu nơi đây. Có thể dễ nhận ra
được đây là một trong những nghệ thuật đánh giặc đặc sắc nhất mà cha ông ta đã
để lại cho hậu thế đó là tận dụng địa hình để đánh giặc.Mùa xuân năm 542, một
lần nữa “ngọn lửa khởi nghĩa” của nhân dân ta lại bùng lên mạnh mẽ. Dưới sự
lãnh đạo của Lý Bôn (Lý Nam Đế) nhân dân ta đã đứng lên chống lại nhà Lương.
Vận dụng, kế thừa nghệ thuật chiến tranh nhân dân của ơng cha, Lý Bơn cùng tồn
thể nhân dân Việt Nam đã lật đổ được chính quyền nhà Lương từ đó khai sinh
nước Vạn Xuân (đầu năm 544). Rồi những cuộc khởi nghĩa của các anh hùng như
Lý Tự Tiên, Đinh Kiến năm 687 hay khởi nghĩa Mai Thúc Loan năm 722, khởi
nghĩa Phùng Hưng từ năm 766 đến năm 791 cũng khẳng định được lòng yêu nước
cũng như truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của người nước Nam.
Đặc biệt vào năm 938, bằng chiến thuật “cắm cọc trên sông Bạch Đằng” Ngô
Quyền đã đả bại tồn bộ đồn thuyền của quân Nam Hán, khiến vua Nam Hán phải
bãi binh, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc; mở ra kỉ nguyên độc lập tự chủ của dân
tộc Việt Nam.
1.2.2 Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỷ X đến
thế kỷ XVIII
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược
của thế lực thù địch phương Bắc. Bằng cách vận dụng, kế thừa những nghệ thuật
đánh giặc hay sáng taọ ra chúng, dân nhân Việt Nam đã kháng chiến thành công
thắng lợi. Cụ thể:
Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất năm 981 do Lê Hoàn
lãnh đạo. Hay cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 từ năm 1975 đến 1077 của nhà
Lý do Lý Thường Kiệt cầm quân.
7
Ở cả hai cuộc chiến này, ta đều thấy rõ những nghệ thuật quân sự đặc sắc được áp
dụng một cách triệt để. Về phần chiến lược, cả Lý Thường Kiệt và Lê Hoàn đều
theo dõi sát sao các hành động của quân địch kể từ khi chúng bắt đầu chuẩn bị
quân đến khi chúng tiến vào lãnh thổ nước ta. Ơng cha ta xưa có câu “biết địch
biết ta trăm trận trăm thắng” việc nắm rõ được tương quan lực lượng hai bên giúp
các nhà lãnh đạo đưa ra được những chiến thuật hợp lí, từ đó nắm thế chủ động
trong cuộc chiến. Cụ thể, Lê Hoàn đã phán đến chính xác được đường tiến quân
của địch, chủ động bố trí đánh chặn. Hay Lý Thường Kiệt đã chủ động đưa quân
sang đất Tống đánh phủ đầu nhằm phá các căn cứ quân sự, hậu cần của chúng
khiến chúng phải bắt tay chuẩn bị lại từ đầu rồi cho nghĩa quân lui về xây dựng
phòng tuyến phòng ngự vững chắc trên sông Như Nguyệt chờ cơ hội thuận lợi
phản công tiêu diệt địch. Cả hai cuộc chiến đều ghi đậm dấu ấn chiến thuật của
quân ta khi đã khéo léo kết hợp giữa “công” và “thử”. Chọn những địa điểm trọng
yếu đặt phịng tuyến, mai phục, phục kích nhằm tiêu hao lực lượng giặc tạo điều
kiện cho cuộc phản công với quy mô lớn quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi
nước ta. Với Lê Hoàn chọn cửa quan Bình Lỗ và cửa sơng Bạch Đằng làm hai trận
địa phịng ngự chính. Cịn với Lý Thường Kiệt, phịng tuyến trên sông Như Nguyệt
và bài thơ Nam Quốc Sơn Hà đã gắn liền với tên tuổi của ông. Một phòng tuyến
vững chắc, một bài thơ hào hùng gia tăng sĩ khí tồn qn, làm rối loạn lịng địch
là một trong những điểm nổi bật nhất trong nghệ thuật đánh giặc của Lý Thường
Kiệt. Trận phản công Như Nguyệt (tháng 3 năm 1077) đã quét sạch quân Tống ra
khỏi biên cương Tổ quốc.
8
Lý Thường Kiệt và công cuộc lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam(Việt Sử
Kiêu Hùng)
Đặc biệt là kì tích 3 lần chống quân Nguyên – Mông của nhà Trần ở thế kỉ XIII.
Đây không những là một cuộc đọ sức quyết liệt giữa một trong những thế lực quân
sự mạnh nhất của thế giới bấy giờ và một dân tộc nhỏ bé với ý chí quyết tâm đánh
đuổi giặc, bảo vệ độc lập tổ quốc mà còn là một cuộc đấu trí căng thẳng giữa hai
nền nghệ thuật quân sự Đại Việt và Ngun – Mơng. Qua đó, một lần nữa nghệ
thuật đánh giặc đặc sắc của con người nước Nam lại được thể hiện. Theo dõi, quan
sát tương quan lực lượng giữa hai bên, Trần Quốc Tuấn đã chủ trương rút lui để
bảo toàn lực lượng sau lần tiến công thứ nhất vào năm 1258. Để rồi sau đó, ơng
cũng cố lại qn binh, đóng đại bản doanh và chuẩn bị thế trận ở Nội Bàng để sẵn
sàng đánh địch khi chúng tiến công lần thứ 2 vào năm 1285. Nhưng một lần nữa
Đức Thánh Trần lại phải hạ lệnh lui binh bảo tồn lực lượng vì sức tấn công của
quân Mông- Nguyên thời điểm này là không thể cản nổi. - Nhận thấy việc đối đầu
trực diện với địch là không khả thi khi thế địch lúc này đang rất mạnh, Trần Quốc
Tuấn lập thế trận, cho quân đánh chặn để tiêu hao địch rồi rút lui để bảo toàn lực
lượng và dụ chúng vào thế trận mà ta đã lập sẵn. Kế “dĩ dật đãi lao” – tức lấy nhàn
9
chờ mệt, lấy mạnh chờ yếu, lấy sung sức chờ hao mòn. Như các
anh hùng hào kiệt đi trước, nhà Trần cũng phát huy tối đa sức
mạnh toàn dân, cả nước đánh giặc, vận dụng, sáng tạo ra những
lối đánh đặc biệt: lấy nhỏ đánh lớn, phân tán lực lượng địch,
giành thế chủ động buộc chúng theo lối đánh của ta
Đặc biệt là kế “vườn không nhà trống” đã khiến địch lâm vào
tình cảnh thiếu thốn lương thực, đau ốm vì khơng quen thời tiết
nước ta, lực lượng hao hụt, tạo điều kiện lớn cho cuộc tổng phản
công. Trong trận này ta lại bắt gặp hình ảnh của những chiếc
cọc được cắm trên sơng Bạch Đằng - một hình ảnh quen thuộc
trong chiến thuật dẫn đến thắng lợi của Ngô Quyền trước đội
quân Nam Hán năm 938 mở ra kỉ nguyên độc lập của dân tộc.
Trần Quốc Tuấn đã rất khéo léo trong việc áp dụng, cải tiến
nghệ thuật đánh giặc của cha ông, kết hợp cùng với nghệ thuật
quân sự mới để đánh tan quân xâm lược. Việc kết hợp giữa địa
hình, sức dân, chiến thuật và hai cánh tác chiến “thủy”, “bộ” đã
đem lại cho nhân dân ta một thắng lợi vẻ vang, góp phần to lớn
vào cong cuộc xây dựng, giữ gìn độc lập tự do Tổ quốc.
Thủy chiến trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938.
10
Vào cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy thoái, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần, lập ra
nhà Hồ. Tháng 5 năm 1406, nhà Minh mang danh “phù Trần diệt Hồ” đã đưa quân
sang xâm lược nước ta. Một lần nữa nước ta rơi vào ách đô hộ của phong kiến
phương Bắc. Cũng cần phải nói thêm, trong cuộc kháng chiến chống quân Minh,
nhà Hồ đã mắc phải một sai lầm cực nghiêm trọng trong nghệ thuật đánh giặc. Đó
là: nhà Hồ đã khơng được lịng dân và khơng thể huy động được sức mạnh toàn
dân như các triều đại trước đã làm. Dựa vào đó, thế lực ngoại xâm thừa thế xơng
lên, kích động quần chúng nhân dân dẫn đến việc mất nước là không thể tránh
khỏi. Mặc dù bị đơ hộ nhưng ý chí đấu tranh vì Tổ quốc của con người Việt Nam
chưa bao giờ dập tắt.
Khởi nghĩa Lam Sơn-ngọn đuốc sáng của phong trào giải phóng dân tộc
Các cuộc khởi nghĩa của các tầng lớp nhân dân yêu nước liên tục nổ ra, tiêu biểu
là khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi thống lĩnh. Thành công của cuộc khởi nghĩa là
sự kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc. Lê Lợi và bộ chỉ huy quân
đã “lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hung, phế”, “vua tại đồng tâm, anh em
hỏa mục, cả nước nhà góp sức”, lấy “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”
11
mà khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân, phát huy, lãnh đạo toàn dân khởi
nghĩa. Trải qua 10 năm chiến đấu bền bỉ, ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
đã giành được thắng lợi, đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Chiến thắng đánh dấu sự phát
triển đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, chiến tranh giải phóng của ông cha ta và để
lại một bài học lịch sử quý giá cho thế hệ hậu bối sau này.
Khởi nghĩa Tây Sơn – khởi nghĩa thần tốc, táo bạo và linh hoạt đã tiêu diệt 29 vạn
quân Mãn Thanh xâm lược vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Một cuộc tiến công thần
tốc dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đã góp phần làm phong phú nghệ thuật
đánh giặc của nhân dân ta và bảo toàn độc lập, tự do lãnh thổ. Như đã nêu trên,
các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến của nhân dân Việt Nam ta xưa nay đều đi kèm
với kho tàng nghệ thuật đánh giặc phong phú, độc đáo, hiệu quả. Kho tàng di sản
đó được truyền từ đời này sang đời khác, từ cuộc chiến này sang cuộc chiến khác.
Bằng cách vận dụng, cải tiến, sáng tạo nghệ thuật quân sự, nhân dân Việt Nam đã
giữ được độc lập tự do, bảo vệ biên cương Tổ quốc. Vậy nghệ thuật đánh giặc
được chia làm mấy nhóm và các yếu tố nào đã tác động đến sự hình thành nghệ
thuật đó? Chúng ta cùng tìm hiểu ở chương II.
CHƯƠNG II: TRUYỀN THỐNG VÀ NGHỆ THUẬT ĐÁNH
GIẶC CỦA ÔNG CHA TA
2.1 Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật đánh giặc
2.1.1 Về địa lí
Việt Nam nằm ở khu vực Đơng Nam Á, có vị trí tọa lạc ở một ngã tư chiến lược
cửa ngõ của một lục địa Cổ, nằm bao lơn ra biển có thể kiểm sốt, giao lưu giữa
Nam, Bắc, Đơng, Tây. Nằm trên đường phát triển xuống phía Nam của thế lực đại
dân tộc cổ và lớn nhất hành tinh.Hơn nữa nước ta cịn có điều kiện tự nhiên, địa
hình rất đa dạng, phong phú, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, đường lối giao thơng,
sơng ngịi chằng chịt. Chính vì thế từ xa xưa Việt Nam đã trở thành “miếng mồi
12
ngon” mà các thế lực xâm lược thường xuyênn ngắm đến. Từ đó hình thành nên
nhu cầu kháng chiến chống ngoại xâm đồng thời tận dụng địa hình, điều kiện tự
nhiên của nước ta để biến nó thành “vũ khí” đánh địch.
2.1.2 Về kinh tế
Nền kinh tế nước ta từ những ngày đầu dựng nước chủ yếu thiên
về canh tác nông nghiệp: trồng lúa nước, chăn nuôi,
Các triều đại phong kiến Việt Nam rất coi trọng việc chăm lo
thủy lợi, đắp đê ngăn lũ, chống thiên tai. Trong qúa trình phát
triển đó, tổ tiên ta đã hình thành tư tưởng dựng nước phải đi
đôi với giữ nước, thể hiện qua các chính sách như “phú quốc,
binh cường”, “ngụ binh ư nông”,
Phát triển kinh tế để nâng cao đời sống nhân dân đồng thời
chế tạo vũ khí chống giặc là hai yếu tố được chú trọng nhất.
2.1.3 Về chính trị, văn hóa - xã hội
Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống hịa thuận,
đồn kết. Việc sớm xây dựng được nhà nước, xác lập chủ quyền,
đoàn kết các dân tộc, xây dựng quân đội cùng nhân dân đánh
giặc đã góp phần củng cố đất nước. Đất nước có nhiều dân
tộc, mỗi dân tộc có một phong tục tập quán riêng qua thời gian
chung sống đã cùng nhau gìn giữ và tạo nên những nét đặc sắc
của văn hóa Việt Nam. Từ xưa đến nay dân tộc Việt Nam ln
được biết đến với nền văn hóa truyền thống: Đồn kết, thương
yêu, chung sống hòa thuận, thủy chung, lao động cần cù, siêng
năng, hiếu học và đặc biệt là tình yêu nước nồng nàng, tinh
thần đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất, ...
Tất cả yếu tố đó góp phần ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành, phát triển của nghệ thuật đánh giặc độc đáo, sáng tạo của
dân tộc ta.
2.2 Nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta
13
Đối với dân tộc ta, tư tưởng quân sự ở một khía cạnh nào đó đồng nghĩa với tư
tưởng giữ nước, hay nói đúng hơn là nội dung cốt yếu của tư tưởng giữ nước và
đó cũng là cơ sở quan trọng nhất để hoạch định đường lối quân sự, những chủ
trương lớn và kế sách giữ nước. Bởi vậy, tư tưởng quân sự chi phối mọi hoạt động
quân sự của Nhà nước, từ tổ chức hệ thống quân sự các cấp, tổ chức xây dựng lực
lượng vũ trang (nòng cốt là quân đội) tới phương thức tiến hành chiến tranh, loại
hình tác chiến và các hoạt động liên quan khác. Điều đó cho thấy, tầm quan trọng
đặc biệt của tư tưởng quân sự, mà trước hết là sự tác động có tính định hướng của
nó đến đường lối qn sự - yếu tố quyết định thành bại trong chiến tranh. Tư tưởng
quân sự như thế nào thì đường lối quân sự như thế ấy, có tư tưởng quân sự phù
hợp thì mới có đường lối qn sự đúng và ngược lại.
Tư tưởng tiến công được coi là quy luật để giành thắng lợi, là tư tưởng chiến lược
tiến công. Nét đặc sắc nhất có tính đặc thù của tư tưởng này thể hiện ở chỗ được
thực hiện nhất quán, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc.
Theo tổng kết, dân tộc ta đã tiến hành 14 cuộc chiến tranh chống xâm lược do Nhà
nước Phong kiến Đại Việt tổ chức lãnh đạo, trong đó giành thắng lợi 11 cuộc, có
3 cuộc thất bại. Điểm chung đáng chú ý là, các cuộc chiến tranh mà ta giành thắng
lợi đều thể hiện rõ việc thực hiện tư tưởng tiến cơng, cịn đối với các cuộc thất bại
thì tư tưởng này gần như khơng được thực hiện, mà thay vào đó là tư tưởng phịng
thủ, phòng ngự. Chẳng hạn như cuộc chiến tranh chống quân Minh xâm lược của
nhà Hồ ở đầu thế kỷ XV và cuộc chiến tranh của nhà Nguyễn chống thực dân Pháp
xâm lược ở giữa thế kỷ XIX là những dẫn chứng điển hình. Khi đó, xét về tương
quan so sánh lực lượng, nhà Hồ và nhà Nguyễn không hề kém địch, thậm chí có
mặt cịn hơn, nhưng kết cục đã bị thất bại. Tất nhiên, sự thất bại đó cịn có ngun
nhân khác, nhưng khơng thể phủ nhận là họ đã không thực hiện tư tưởng tiến
công.Trong chiến tranh, xét về mặt nguyên tắc tác chiến, để tiến công thắng lợi thì
14
nhất thiết phải mạnh hơn đối phương, còn nếu ngang bằng hoặc kém đối phương
sẽ dễ thất bại. Thực tế các cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, kẻ địch có tiềm lực
kinh tế-quân sự mạnh hơn hẳn và triệt để phát huy ưu thế về binh lực, vũ khí, trang
bị… để thực hiện đánh nhanh, giải quyết nhanh, đè bẹp ý chí chiến đấu và buộc
nhân dân ta phải khuất phục, nhưng ta lại lấy tiến công làm tư tưởng chủ đạo, thay
vì phịng thủ hoặc phịng ngự thụ động. Như thế liệu có mâu thuẫn khơng? Câu trả
lời là khơng! Khơng những lựa chọn đó khơng mâu thuẫn, mà cịn là lựa chọn
khơn ngoan, phù hợp, bởi những cơ sở thực tiễn và khoa học sau:
Thứ nhất, lựa chọn tư tưởng tiến công là thể hiện tinh thần dám đánh, quyết đánh
và quyết thắng quân xâm lược của cả dân tộc. Từ đó tạo nên sự đồn kết tồn dân,
niềm tin chiến thắng và khơng chịu khuất phục kẻ thù cho dù chúng có mạnh và
hung bạo đến đâu. Ý chí quyết đánh của nhân dân cả nước được thể hiện rõ trong
Hội nghị Diên Hồng của các bô lão và hai chữ “Sát Thát” trên cánh tay của binh
lính thời nhà Trần; hoặc “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của Bà Trưng, Bà Triệu.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa yêu nước, văn hóa quân sự
Việt Nam được kết tinh qua lời kêu gọi, động viên bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Khơng có gì q hơn độc lập tự do,” “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập…” đã thôi thúc tinh thần 54
15
dân tộc thuộc “con Lạc, cháu Hồng” đứng lên cầm vũ khí đấu tranh bảo vệ quê
hương, đất nước.
Chiến sỹ đại đội 3 đoàn X pháo cao xạ bảo vệ Thủ đơ mưu trí, dũng cảm, đã nổ
súng kịp thời và chính xác, góp phần bắn rơi 2 máy bay Mỹ.
Cịn nếu lựa chọn tư tưởng qn sự khác, ngồi tư tưởng tiến cơng thì có nghĩa là
khơng dám đánh địch, sợ địch. Một dân tộc, một quân đội mang theo tư tưởng đó
vào cuộc chiến cũng tức là đã tự tước bỏ sức mạnh nội sinh, đó là: chính trị - tinh
thần – yếu tố cực kì quan trọng trong chiến tranh và như thế có thể nói chưa đánh
đã thua, nếu có đánh cũng sẽ thất bại. Những thất bại của một số vương triều Đại
Việt trong lịch sử đã cho thấy rõ điều này.
Thứ hai, về góc độ quân sự, lịch sử chiến tranh thế giới và dân tộc ta cũng đã chỉ
ra rằng: để đánh bại quân địch, kết thúc thắng lợi chiến tranh chỉ có thể thực hiện
được bằng hình thức tiến cơng, thậm chí cả hình thức phịng thủ, phịng ngự, dĩ
nhiên đó phải là hình thức phịng thủ, phịng ngự tích cực. Đó là địn tiến cơng
chiến lược, có thể là một hoặc nhiều địn kế tiếp nhau, trong đó có trận quyết chiến
chiến lược để giành thắng lợi quyết định. Thông thường trận quyết chiến chiến
lược được ta chủ động tổ chức vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, khi quân
địch đã bị thiệt hại nặng, suy yếu nghiêm trọng cả về thế và lực. Nhưng cũng có
16
những trường hợp được tổ chức ngay đầu cuộc chiến tranh với điều kiện ta hội tụ
đầy đủ các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Chiến thắng Bạch Đằng năm 938
do Ngô Quyền lãnh đạo đánh bại quân Nam Hán là một ví dụ; hoặc Chiến thắng
Ngọc Hồi - Đống Đa đại phá 28 vạn quân Thanh năm 1789 và Chiến thắng Rạch
Gầm - Xoài Mút đánh bại 05 vạn thủy quân Xiêm do Quang Trung - Nguyễn Huệ
lãnh đạo là minh chứng khác tương tự. Những chiến thắng oanh liệt đó tuy khơng
phổ biến, nhưng rất đáng suy ngẫm, bởi nó kết thúc nhanh chóng chiến tranh chỉ
bằng một trận chiến - trận quyết chiến chiến lược, hay còn gọi “cuộc chiến của
một trận chiến”.
Thứ ba, đề cập tư tưởng tiến cơng thực chất là nói đến tư tưởng chỉ đạo tác chiến
chiến lược tiến cơng, cịn gọi là tiến công chiến lược. Ở đây, khi nghiên cứu cần
chú ý một điểm quan trọng đó là sự giống và khác nhau giữa tư tưởng chỉ đạo tác
chiến với hình thức tác chiến (loại hình tác chiến). Nó thống nhất với nhau ở cấp
chiến lược, tức là ở cấp chiến lược chỉ có chiến lược tiến cơng (cả về tư tưởng chỉ
đạo và loại hình tác chiến), hay có thể nói khơng có chiến lược phịng ngự. Cịn ở
cấp chiến dịch, chiến thuật thì về mặt tư tưởng chỉ đạo là tiến cơng, nhưng hình
thức tác chiến thì có thể là tiến cơng hoặc phịng ngự tùy theo điều kiện cụ thể để
vận dụng thực hiện.
Kế thừa tư tưởng quân sự truyền thống của dân tộc, Đảng ta luôn nhất quán thực
hiện tư tưởng tiến công trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tư tưởng
đó của Đảng thống nhất biện chứng với tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh: “Kiên
quyết khơng ngừng thế tiến cơng”. Với đường lối chiến tranh nhân dân độc đáo,
thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, vững chắc, tư tưởng tiến công được thực
hiện một cách sáng tạo bằng các loại hình tác chiến phù hợp với điều kiện và hồn
cảnh cụ thể thì chúng ta sẽ chiến thắng mọi kẻ thù.
17
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 (Ảnh sưu tầm)
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, căn cứ vào so sánh lực
lượng giữa ta và địch, chúng ta đã thực hiện tuần tự qua các giai đoạn: phòng ngự,
cầm cự, phản cơng, tiến cơng với các hình thức tác chiến tương ứng. Nhờ đó, từng
bước chuyển hóa thế và lực theo hướng có lợi cho ta. Đến giai đoạn cuối, lực lượng
ta lớn mạnh và hoàn toàn giành quyền chủ động chiến lược và kết thúc cuộc kháng
chiến trường kỳ bằng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, quán triệt sâu sắc tư tưởng tiến công và triệt để thực hiện
đường lối chiến tranh nhân dân độc đáo, sáng tạo trên cả hai miền Nam - Bắc.
Miền Bắc thực sự là hậu phương lớn, vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam. Miền Nam trở thành tuyến
đầu đánh Mỹ - Ngụy, luôn kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh
quân sự và đấu tranh ngoại giao; chủ động đánh địch bằng ba mũi giáp công, trên
cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị); thực hiện tác chiến
ở mọi quy mô (đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ), trong thế trận chiến tranh nhân dân
rộng khắp, vững chắc. Nhờ đó, liên tiếp đánh bại ba chiến lược chiến tranh của
địch (chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh), hoàn
thành chủ trương chiến lược: đánh cho Mỹ cút, tiến tới đánh cho Ngụy nhào bằng
18
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hồn tồn miền Nam,
thống nhất đất nước.
Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến vĩ đại chứng minh tính đúng đắn của đường
lối chiến tranh nhân dân cũng như nét đặc sắc của tư tưởng tiến công cùng tài thao
lược và sự chỉ đạo chiến lược xuất sắc, nhạy bén, sáng tạo của Đảng ta. Qua đó,
khẳng định việc lựa chọn và triệt để thực hiện tư tưởng tiến cơng là hồn tồn đúng
đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam; đồng thời, là cơ sở
quan trọng nhất cho việc hoạch định và thực hiện đường lối quân sự của Đảng,
phát huy cao độ sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân Việt Nam để giành
thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược, bất kể chúng có hung bạo và sức mạnh quân
sự đến nhường nào.
2.2.2 Về mưu kế đánh giặc
Vận dụng mưu kế là quá trình tư duy sáng tạo và tổ chức điều hành căng thẳng
của người chỉ huy và cơ quan chỉ huy trong chiến đấu. Trên cơ sở nắm vững nhiệm
vụ, mục tiêu tác chiến, hiểu rõ tình hình địch, tình hình ta và mơi trường tác chiến,
người chỉ huy phải đặt ra và giải đáp những câu hỏi: Tập trung tiêu diệt địch ở
19
đâu, lúc nào là có lợi nhất? Và như vậy, phải lừa địch bằng cách gì, cắt, vây, kìm
địch ở đâu? Địch sẽ phản ứng thế nào, ta tiếp tục đánh địch ở đâu, bằng lực lượng
nào… Mưu hay, kế giỏi là phải lừa được địch và điều khiển được địch. Cho nên,
mưu cao nhất là mưu lừa địch, kế hay nhất là kế điều địch.
-Trong lịch sử quân sự Việt Nam, nghi binh, lừa địch là một mưu kế chính đã được
ơng cha ta vận dụng rất linh hoạt, sáng tạo.
Nghi binh, lừa địch là dùng mọi biện pháp để địch không biết đâu là ý định thật
của ta, đi đến phán đoán lầm, hành động sai, bộc lộ sơ hở, tạo điều kiện thuận lợi
cho ta đánh địch ở nơi và vào lúc đã chọn.
Đây là biện pháp được các nhà quân sự từ xưa đến nay hết sức quan tâm và vận
dụng rộng rãi. Clau-dơ-vít viết: “Kẻ dùng mưu chước nhằm làm cho người mình
muốn lừa phạm phải những sai lầm trong suy nghĩ, những sai lầm này cuối cùng
sẽ tập trung vào một kết quả độc nhất là đột nhiên làm biến đổi trước mắt họ bản
chất của sự vật” . Sách “Binh thư yếu lược” có mục “Dùng cách lừa dối” cũng
nhấn mạnh: “Điều cốt yếu để đánh được địch, không phải chỉ dùng sức mạnh để
chống, còn phải dùng thuật để lừa… lừa bằng vụng, lừa bằng khôn, cũng lừa bằng
sự lẫn lộn hư thực…”.
Tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng biện pháp nghi
binh, lừa địch trong tác chiến. Người viết: “…mình phải lừa qn thù khơng chú
ý phòng bị chỗ ấy mà lại phòng bị chỗ khác, nghĩa là náo phía đơng, đánh phía
tây”,“…làm cho chúng mắt mù, tai điếc, hoặc truyền đến cho chúng những tin tức
sai lầm để lừa gạt chúng” .
Nghi binh lừa địch có nhiều cách như tung tin giả, tạo ra các mục tiêu giả, hiện
tượng giả, tiến hành các hoạt động giả nhằm đánh lạc hướng chú ý của đối phương
vào nơi này, hướng này, để rồi bất ngờ hành động thật ở nơi khác, hướng khác.
Ngày nay, với việc sử dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và công
nghệ quân sự, việc tạo giả, tung tin giả, gây nhiễu để thực hiện nghi binh càng trở
20
nên tinh vi, phức tạp hơn. Vì vậy, muốn nghi binh lừa địch có hiệu quả, phải thực
hiện tốt các biện pháp trinh sát để nắm đúng, hiểu đúng địch, đồng thời phải tăng
cường việc ngụy trang, giữ bí mật về lực lượng, ý định tác chiến của mình. Trước
hết, phải không để bị địch lừa rồi mới lừa được địch.
Lịch sử quân sự Việt Nam đã có nhiều bài học thành công về nghi binh lừa địch.
Trong chiến dịch Biên Giới - Thu Đông 1950, ta tổ chức nghi binh rầm rộ ở Lào
Cai và tiến công Bắc Hà trên hướng Tây Bắc, thu hút sự chú ý của quân Pháp vào
hướng đó, để rồi bất ngờ mở chiến dịch trên hướng Đơng Bắc, giành thắng lợi giịn
giã.
Trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên năm 1972, để bảo đảm cho trận mở màn đánh
chiếm căn cứ Tân Cảnh, ta đã tiến hành một loạt biện pháp nghi binh, tạo thế:
Đánh cắt đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku đi Kon Tum và từ Kon Tum đi Tân Cảnh, đồng
thời mở hai đoạn đường quân sự làm gấp ở tây bắc thị xã Kon Tum và phía tây
sơng Pơ Kơ, làm cho địch tin chắc ta sẽ đánh Kon Tum nên tung Lữ dù 3 là lực
lượng dự bị chiến lược ra tây bắc Kon Tum nhằm phá sự chuẩn bị tiến công của
ta. Lực lượng ta được chuẩn bị sẵn đã tiêu diệt một bộ phận quân dù, số còn lại bị
ta giam chân ở đó. Thế là ta có điều kiện bất ngờ tập trung đánh chiếm Tân Cảnh
mà địch khơng có cách gì cứu viện được.
Nghệ thuật nghi binh trong chiến dịch Tây Nguyên 1975 (Ảnh sưu tầm).
21
Trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, ta cũng dùng các biện pháp điều quân,
cắt được giao thông, tác chiến nghi binh để hút địch về hướng Kon Tum, Pleicu
và vây hãm địch ở đó, bảo đảm cho trận mở màn đánh chiếm Buôn Mê Thuột diễn
ra bất ngờ, giành thắng lợi nhanh gọn.
-Trong tình thế ln phải đương đầu với các thế lực xâm lược mạnh và tàn bạo,
đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam ở mọi thời kỳ là động viên toàn dân
đánh giặc.Đây là nét văn hóa quân sự truyền thống, đáng tự hào của dân tộc Việt
Nam. Để giữ vững giang sơn bờ cõi – “non sơng nghìn thuở vững âu vàng,” các
triều đại phong kiến Đại Việt đều nhất quán tư tưởng, quan điểm: cố kết cộng
đồng, phát huy sức mạnh của thế trận “làng-nước,” sức mạnh của toàn dân tạo nên
sức mạnh vô địch để đánh bại kẻ thù xâm lược.Thời nhà Trần đã thực hiện kế sách
“Chúng chí thành thành” lấy ý chí dân tộc mạnh hơn mọi thành lũy, thực hiện
“khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”.
Thời nhà Lê, Nguyễn Trãi cho rằng “phàm mưu việc lớn lấy dân làm gốc”, “yêu
dân như con”,”việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; ông cho rằng “phúc chu thủy tín
dân do thủy” nghĩa là nâng thuyền, lật thuyền mới biết sức dân.
Hay xưa hơn nữa khi Hai Bà Trưng, Bà Triệu phất cờ khởi nghĩa cũng đã ra sức
vận động, tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc. Minh chứng nghệ thuật chiến
tranh nhân dân đã tồn tại, hiện hữu trong kho tàng nghệ thuật đánh giặc của cha
ông ta từ những ngày đầu lập nước, giữ nước.
Đến nhà Hồ, vì khơng được lịng dân, khơng tập hợp được sức mạnh tồn dân nên
đã kháng chiến thất bại trước thế lực quân Minh hùng hậu.Một lần nữa cho thấy
tầm quan trọng của nhân dân và chiến tranh nhân dân.
Mới rồi Toa Đơ, Ơ Mã Nhi, bốn mặt bao vây, nhưng vua tôi đồng tâm, anh em
hịa thuận, cả nước góp sức nên bọn giặc phải chịu bị bắt...Có thu được binh sĩ như
cha một nhà thì mới được. “Dù thời thế nào, cũng phải: nới sức dân, trên dưới
22
đồng tâm, lịng dân khơng ly tán, vua tơi một lịng, anh em hịa thuận, cả nước góp
sức, dùng được người hiền tài”.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng này khơng những được vận dụng sáng tạo,
mà cịn phát triển lên tầm cao mới, được thể hiện tập trung qua khái qt cơ đọng
của Bác Hồ: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết/Thành cơng, thành cơng, đại thành
cơng.”Đường lối, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt sự nghiệp giải phóng dân tộc của
Đảng ta là tiến hành chiến tranh nhân dân, tồn dân, tồn diện, dựa vào sức mình
là chính…Nhờ có đường lối, nghệ thuật quân sự đúng đắn, Đảng ta đã huy động
và tổ chức toàn dân tham gia kháng chiến, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh đổ
từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn
toàn.
-Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản
phẩm của lấy “thế” thắng “lực”, là sự kết hợp của Lực-Thế-Thời-Mưu.”Mạnh
được, yếu thua” từ lâu đã là qui luật của chiến tranh, không đơn giản là sự so sánh
giữa qn số, vũ khí, trong thực tiễn cịn nhiều yếu tố tác động lên sức mạnh trong
chiến tranh.Và ông cha ta đã xác định đúng điều đó.
Chính trong thời gian người anh hùng xứ Cáctagiơ nêu một kiểu mẫu cổ điển vềnghệ thuật hợp vây và tiêu diệt đội quân của đế quốc La Mã có ưu thế về số lượng,
bằng trận hội chiến Can nổi tiếng (năm 216 trước cơng ngun) thì ở bên này lục
địa, người thủ lĩnh Âu Lạc cũng lãnh đạo dân tộc mình đánh bại một đội quân xâm
lược đông gấp nhiều lần bằng một nghệ thuật quân sự riêng biệt của một dân tộc
nhỏ - “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn”.
Trải qua cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán của Ngô Quyền với 2 vạn quân,
đánh bại 5 vạn quân bộ và 3 vạn quân thủy, kết thúc bằng trận thủy chiến đầy mưu
kế giết tướng Hoàng Thao năm 938; đến cuộc chống Tống lần thứ nhất mà Lê
Hoàn với 5 vạn quân đánh bại 10 vạn quân xâm lược, đã mưu lược tách rời hai
đạo thủy bộ, đánh bại chúng ở Bạch Đằng và Chi Lăng, giết tướng Hầu Nhân Bảo
23
năm 981; rồi đến trận Lý Thường Kiệt chủ động đem quân “phá cơ sở hậu cần”
của giặc trước khi đánh bại cuộc tiến quân của chúng vào phòng tuyến sông cầu
với một lực lượng chỉ bằng nửa quân số của địch, chứng tỏ nghệ thuật quân sự ấy
ngày càng có nhiêu cách đánh phong phú, khiến giặc khơng thể lường hết được.
Đến đời Trần Hưng Đạo, với ba lần chiến thắng đạo quân đã chinh phục hầu hết
các nước từ Á sang Âu, nhưng lại không vươn nổi xuống Đơng Nam Á vì bị qn
dân Đại Việt chặn đứng, thì nghệ thuật quân sự giữ nước Việt Nam đã chứng minh
tính vượt trội so với các nền nghệ thuật quân sự đương thời của cả phương Đông
lẫn phương Tây. Có thể coi những lời căn dặn của Trần Hưng Đạo đối với vua
Trần Nhân Tông ngày 24/6 năm Canh Tý (1360) về việc “xem xét và lựa chọn
binh pháp các nhà” như một lời tổng kết nghệ thuật giữ nước của dân tộc, mà hạt
nhân của nó chính là nghệ thuật quân sự “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn”
Với lực lượng vũ trang, phải “chọn tướng giỏi, thu được binh sĩ như cha con một
nhà”, về cách đánh thì tùy theo thời cơ mà ứng biến, nhưng khái quát lại là lấy
đoản chế trường, không sợ kẻ thù lướt đến như lửa cháy, gió thổi mà phải hết sức
phòng loại giặc lấn chiếm như cách tằm ăn.“Lấy đoản chế trường” là ý nói lấy
binh nhỏ, binh ít, để thắng kẻ thù cậy có đơng qn, nhiều tiềm lực, thường đánh
lớn, đánh nhanh.
Thập Nhị Binh Thư: Binh Thư số 10 và số 11: Binh Thư Yếu Lược.
24
Chiến thắng thời Trần cũng là mẫu mực về nghệ thuật quân sự “Lấy đoản binh
thắng trường trận”. Quân Nguyên rất mạnh về sức cơ động, về xạ kích, về bao vây
đột phá... Với một đối phương mạnh hơn mình gấp nhiều lần, nhà Trần đã dùng
nghệ thuật “kết hợp rút lui chiến lược với tiến công về chiến thuật và chiến đấu
thốt khỏi vịng vây, bảo tồn lực lượng, đẩy địch vào thế bị giằng xé, chia cắt,
suy yếu, rồi tiến lên phản công chiến lược mà diệt từng cánh qn địch. Đến
Nguyễn Trãi, tác giả của Bình Ngơ sách thì nghệ thuật quân sự của đất nước đã
được tổng kết lại một cách khá toàn diện: Về cách đánh chiến lược: “Người khéo
dùng binh đem quân yếu mà chống chế qn mạnh, lấy ít người mà đối phó với
quân địch nhiều người, biến khối nhỏ thành khối lớn, xoay thế nguy thành thế
vững”.
Về cách đánh chiến thuật: “Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ, lấy ít địch
nhiều, hay dùng mai phục”. Theo chiến thuật đó, khi chọn mục tiêu cơng kích phải
“bỏ chỗ địch vững, đánh chỗ địch hở, tránh chỗ chắc, đánh chỗ hư. Như thế thì
dùng sức có một nửa mà cơng được gấp đơi”. “Giặc đơng ta ít, lấy ít đánh đơng
thì phải có đất hiểm mới có thể thành cơng”.
Tồn bộ hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn là những mẫu hình rất sinh động của
nghệ thuật quân sự “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn”. Đứng chân từ Nghệ An,
dùng ba đạo quân nhỏ mấy nghìn người thọc sâu vào vùng địch tạm chiếm suốt
dải đồng bằng và trung du Bắc Bộ, dựa vào thanh thế của nghĩa quân và nhân dân
các châu huyện, lấy “Ngô công” - một kiểu võ trang địch vận - mà vơ hiệu hóa
trên 5 vạn quân chiếm đóng trong các đồn lũy địch, tạo một thế mới cho chiến dịch
phản công diệt viện. Dùng một hệ thống trận địa mai phục liên hoàn nhử địch vào
đất hiểm, tiêu hao nặng đạo quân 10 vạn của Liễu Thăng, kiềm chế cánh quân 5
vạn của Mộc Thạnh. Lấy thất bại của tướng trẻ uy hiếp tướng già, của chính binh
uy hiếp kỳ binh, diệt tồn bộ trung quân trên đường tháo chạy. Quay lại diệt tàn
quân của cánh chính rồi lấy tồn bộ chiến thắng viện binh uy hiếp kẻ chờ viện, ép