Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SK biện pháp GD kỹ năng tự phục vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.62 KB, 23 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến
Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ nhân
tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội Việt Nam “ Trẻ em hôm
nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục trẻ phải có
sự chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội. Nhưng trước sự phát triển
mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh có
rất ít thời gian để quan tâm đến con. Và cũng khơng ít trẻ mầm non vì quá được
cưng chiều, cha mẹ làm thay hết mọi việc nên trẻ có thói quen ỷ lại và chỉ biết
trông chờ người khác phục vụ. Thiếu kỹ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến hệ lụy trẻ lười
biếng, thụ động và khó khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể. Vì vậy
việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự phục vụ nói riêng cho trẻ là
điều rất cần thiết. Việc rèn luyện kĩ năng sống tự phục vụ bản thân ngay từ nhỏ là
vô cùng cần thiết đối với trẻ mầm non. Nếu các con khơng có kĩ năng tự phục vụ
bản thân, các con sẽ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống hiện đại.
Nếu trẻ biết tự phục vụ bản thân , trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, ni dưỡng
những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ,
giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng : Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ
và tinh thần, từ đó sẽ xây dựng những kỹ năng sống hịa nhập với môi trường xung
quanh. Ở mỗi lứa tuổi, trẻ rất cần những tác động khác nhau đên kỹ năng sống của
trẻ. Chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp
trẻ phát triển tồn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ, là nền tảng cho
quá trình học tập suốt đời của trẻ.
Theo nghiên cứu trẻ ở lứa tuổi 3,4 tuổi não bộ dễ dàng tiếp thu và thay đổi, đặc
biệt là trong những tình huống kích thích cảm xúc của bé và sau khi trẻ chơi những
trò chơi địi hỏi sự hoạt động cơ thể. Vì thế những kinh nghiệm tích cực mà trẻ thu
được trong thời kỳ này rất quan trọng đối với sự phát triển kỹ năng lâu dài và toàn
1 / 23



2

diện của bé. Trong những năm sau đó, bộ não sẽ tiếp tục được định hình thơng qua
việc kết nối các khớp dây thần kinh. Đây là quá trình tăng cường các phần não bộ
được sử dụng thường xuyên và bỏ qua những phần ít khi được sử dụng tới. Trong
giai đoạn này, mọi sự kiện tích cực có thể giúp trẻ nâng cao kỹ năng và mọi sự
tương tác xã hội có thể giúp trẻ hình thành nhân cách. Bạn có thể tưởng tượng điều
này như một quả cầu tuyết ngày càng to ra khi nó lăn. Nhưng đừng qn rằng
những cách hành xử và thói quen khơng mong muốn cũng có thể sẽ tăng lên nếu trẻ
bị ảnh hưởng xấu từ những tác nhân bên ngồi.
Chính vì vậy việc dạy trẻ những kỹ năng sông, kỹ năng tự phục vụ ngay từ
giai đoạn này là rẩ tốt. Nó giúp trẻ hình thành những thói quen tốt ngay từ nhỏ, trẻ
có sự chủ động trong cuộc sống sau này.Song chưa được chú trọng nên đa phần trẻ
lớp tôi nhận khơng có những kỹ năng tự phục vụ bản thân. Vậy làm thế nào để trẻ
có các kỹ năng tự phục vụ tốt? Phương pháp, và dạy dưới những hình thức nào là
phù hợp?
Xuất phát từ lý luận trên, chúng tôi chọn sáng kiến “Thực trạng giáo dục kĩ
năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở Trường mầm non 8-3 Thành phố Lạng
Sơn ” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở
Trường mầm non 8-3 Thành phố Lạng Sơn, từ đó đưa ra một số định hướng giáo
dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3, 4 tuổi.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến của vấn đề nghiên cứu .
3.2. Tìm hiểu thực trạng giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở
Trường mầm non 8-3 Thành phố Lạng Sơn
3.3.. Đưa ra một số định hướng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3, 4
tuổi.

2 / 23


3

4 . Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
4.1. Khách thể nghiên cứu
Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3,4 tuổi ở trường mầm non.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở Trường
mầm non 8-3 Thành phố Lạng Sơn
5 . Phạm vi nghiên cứu.
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên chúng tơi chỉ tập trung vào đề tài nghiên cứu ở
nhóm trẻ 3,4 tuổi ở trường mầm non 8/3 thành phố Lạng Sơn.
6 . Phương pháp nghiên cứu.
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý
luận của vấn đề nghiên cứu thực tiễn.
6.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1.Phương pháp quan sát
Dự giờ, thăm nhóm lớp trẻ mầm non 3,4 tuổi trường MN thành phố Lạng Sơn,
quan sát tìm hiểu khả năng tự phục vụ của trẻ
6.2.2. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi với giáo viên và trẻ về phương pháp giáo dục cũng như khả năng tự
phục vụ của mỗi trẻ.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả thu được qua các
phương pháp nghiên cứu thực tiễn.

3 / 23



4

Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Kỹ năng
Là khả năng vận dụng những kiến thức, hiểu biết của con người để thực hiện
một việc gì đó, có thể là việc nghề nghiệp mang tính kỹ thuật, chun mơn hoặc
việc liên quan cảm xúc, sinh tồn, giao tiếp,…
1.1.2. Kỹ năng tự phục vụ (KNTPV)
KNTVP là khả năng thực hiện có kết quả những hành động mang tính chu
trình phù hợp với điều kiện cho phép nhằm duy trì sức khỏe và vệ sinh cá nhân
như: ăn, mặc, vệ sinh thân thể, chơi, học phù hợp với điều kiện cho phép nhằm duy
trì sức khỏe và vệ sinh cá nhân
1.1.3. Kỹ năng tự phục vụ của trẻ mầm non
Kỹ năng tự phục vụ của trẻ là những thói quen sinh hoạt thường ngày trong
giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người xung quanh. Tập
những kỹ năng sống.
Tự phục vụ là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội nhập,
tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi thử thách.
Tự phục vụ chính là chiếc chìa khóa sự sống cịn , sự phát triển và sự thành
cơng của mỗi con người.
Khi nhắc đến dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non, nhiều người cho rằng
đó là một cái gì đó to tác, cao siêu nhưng thực tế dạy trẻ tự phục vụ là dạy trẻ
những thói quen sinh hoạt thường ngày trong giao tiếp, ứng xử của trẻ đối với bản
thân và mọi người xung quanh.
1.2. Dấu hiệu của trẻ thiếu kỹ năng tự phục vụ
Từ 1 tuổi trở đi, trẻ sẽ dần hoàn thiện nhiều kỹ năng, trong đó có kỹ năng tự
phục vụ. Ở mỗi độ tuổi, trẻ sẽ dần chinh phục các kỹ năng khác nhau. Nếu người

4 / 23


5

lớn quan sát thấy những điều này ở trẻ là dấu hiệu trẻ đang thiếu các kỹ năng tự
phục vụ cơ bản.
- Trẻ mầm non khơng tự mình làm được những kỹ năng cơ bản như xúc ăn, tự lấy
nước uống, mặc quần áo,…
- Trẻ ỷ lại, luôn muốn người khác phục vụ mình.
- Khơng chủ động tự đáp ứng được nhu cầu của bản thân khi cần.
- Gặp tình huống bất ngờ trong cuộc sống, trẻ lúng túng, không tự xử lý được, phải
nhờ người khác giúp.
- Trẻ khó thích nghi với các mơi trường mới khi khơng có ba mẹ cạnh bên.
Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ là người lớn đang tạo điều kiện để trẻ phát triển
toàn diện. Và chuẩn bị nền tảng vững chắc cho tương lai của trẻ. Trẻ có khả năng tự
phục vụ mình sẽ:
- Có ý thức và tự chăm sóc tốt cho bản thân trong mọi hoàn cảnh.
- Khả năng vận động tinh khéo léo, trẻ học được cách làm việc chi tiết, cẩn thận,
gọn gàng.
- Rèn luyện cho trẻ khả năng lập kế hoạch, lập mục tiêu và kiên trì thực hiện mục
tiêu.
- Quá trình tự phục vụ giúp trẻ tư duy sáng tạo, tập trung, có khả năng tự xử lý vấn
đề.
- Trẻ tự tin, tự lập và chủ động trong cuộc sống, làm chủ bản thân mình.
- Trẻ có thể giúp đỡ những bạn khác, người lớn. Giúp vun đắp tình bạn, trẻ được
yêu mến, tin tưởng.
- Dễ dàng thích nghi ở nhiều mơi trường khác nhau.
- Trẻ hiểu được giá trị và yêu lao động, trách nhiệm với công việc, biết ơn khi được
giúp đỡ.

- Trẻ học các tôn trọng mọi người xung quanh, yêu thương, cảm thơng, chia sẻ.
- Dần hình thành nhân cách sống tốt đẹp.
5 / 23


6

Với những lợi ích thiết thực như trên, Thầy cơ và các bậc cha mẹ nên kiềm chế
mong muốn làm thay con mà thay vào đó, hãy tiến hành dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ
bản thân.
1.3. Tự phục vụ ở trẻ mẫu giáo 3,4 tuổi
Trẻ ở giai đoạn 3- 4 tuổi đây là giai đoạn quan trọng đối với sự phát triển của
trẻ.Ở độ tuổi này , trẻ bắt đầu hình thành khả năng suy nghĩ muốn tự lập, muốn làm
cái này, cái kia một mình. Tính tự lập là một biểu hiện tâm lý có ảnh hưởng trực
tiếp đên quá trình phát triển và hình thành các phẩm chất nhân cách cho trẻ.Một số
dấu hiệu bắt đầu hình thành tính tự lập , đó là như cầu tự khẳng định mình xuất
hiện.Trẻ muốn làm một số cơng việc đơn giản trong sinh hoạt hằng ngày.Giáo dục
tính tự lập cho trẻ ngay từ lúc cịn nhỏ khơng những tạo cho trẻ khả năng tự lập
trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng giúp trẻ
hình thành sự tự tin, năng động ,sáng tạo làm cơ sở hình thành các kỹ năng sống
cho trẻ sau này.
Thực tế cho thấy, đối với mỗi gia đình hiện nay, đặc biệt là cha mẹ mắc phải
sai lầm khi giáo dục nói chung và giáo dục trẻ có tính tự lập nói riêng. Thứ nhất là
cha mẹ nng chiều con quá mức chỉ biết hưởng thụ dần hình thành tính ích kỷ,
vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống.Thứ hai là cha mẹ không tin vào khả năng của
con mình, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu,
nên người lớn thường xót ruột và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh
dần hình thành tính ỷ lại, lười biếng, mất tự tin ở trẻ.
Đối với giáo viên đa số đã có nhận thức đầy đủ và có thái độ đúng trong việc
giáo dục tính tự lập cho trẻ lên ba.Song về hướng dẫn hoạt động để trẻ có kỹ năng

tự phục vụ thì vẫn cịn hạn chế.Ngun nhân là do người giáo viên cho rằng trẻ còn
quá nhỏ để dạy trẻ tính tự lập, bên cạnh đó là cơ giáo ngại khó, sợ tốn thời gian. Vì
vậy để hình thành và phát triển tính tự phục vụ cho trẻ nói chung và trẻ mẫu giáo bé
nói riêng thì giáo viên mầm non cần kết hợp với cha mẹ trẻ để có những biện pháp
6 / 23


7

phù hợp nhằm phát huy khả năng tự phục vụ bản thân, làm cơ sở cho sự hình thành
và phát triển nhân cách ở trẻ sau này.

7 / 23


8

NỘI DUNG
Chương 2: Thực trạng giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở
Trường mầm non 8-3 Thành phố Lạng Sơn
2.1. Một số nguyên nhân dẫn đến trẻ thiếu kỹ năng tự phục vụ
Trong xã hội hiện đại ngày nay, có rất nhiều trẻ kém khả năng tự phục vụ
mình. Khơng chỉ là trẻ khơng tự mình làm được những việc cơ bản để có thể chăm
sóc tốt bản thân. Mà cịn trực tiếp ảnh hưởng đến suy nghĩ, tính cách và hành vi của
trẻ. Trẻ rất dễ hình thành lối suy nghĩ mình là trung tâm, sống ích kỷ, chỉ nghĩ
đến bản thân.
Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
2.1.1. Môi Trường Gia Đình
Một số gia đình có điều kiện nng chiều con em mình q mức. Ba mẹ
q bận rộn khơng thể dành nhiều thời gian cho con. Giao phó con hoàn toàn cho

bảo mẫu, người giúp việc. Mà nhiệm vụ chính của họ là làm hết cho con, chăm sóc
cho con tốt nhất từ A-Z. Chứ khơng có trách nhiệm dạy dỗ trẻ, đặc biệt là kỹ năng
tự phục vụ.
Ba mẹ khơng có nhiều thời gian bên con, hiểu rõ con thiếu hụt tình cảm gia
đình. Nên khi ở bên con lại ra sức chiều chuộng để bù đắp tình cảm cho con.
Một số gia đình khơng có điều kiện cũng nng chiều con q mức. Vì suy
nghĩ bé cịn nhỏ, đã biết làm gì đâu. Trẻ làm cái gì cũng vụng về nên để người lớn
làm cho nhanh, cho gọn gàng, cho hiệu quả. Thêm vào đó, là tâm lý thương con,
xót con muốn con được chăm sóc đầy đủ nhất. Nên càng ra sức chiều chuộng con.
Nghĩ là thương nhưng thực ra lại là hại con.
2.1.2. Môi Trường Trường Học
Phần lớn các cô giáo, bảo mẫu nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn
trẻ kỹ năng tự phục vụ. Tuy nhiên, vì lớp q đơng, có q nhiều bé cần chăm sóc
8 / 23


9

mà thời gian lại có hạn. Các cơ khơng thể nào đợi tất cả các trẻ tự làm. Đôi khi các
cô cũng không kiềm chế được mong muốn giúp đỡ khi trẻ gặp khó khăn.
Bên cạnh đó, nội dung dạy kỹ năng của mỗi trường khác nhau. Có trường sẽ
chú trọng đào tạo, dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thật tốt. Nhưng phần lớn các trường
mầm non vẫn thiên nhiều hơn về dạy học, dạy chữ, năng khiếu,… hơn là kỹ
năng.
2.1.3. Công nghệ thông tin
Trẻ đang sống trong thời đại vây quanh trẻ là tivi, điện thoại, iPad – những
“công cụ cầm chân” trẻ. Khiến trẻ ngồi yên, dần trở nên thụ động và lười suy nghĩ,
lười làm việc.
Xem ti vi, máy vi tính... nhiều cũng sẽ làm tăng nguy cơ béo phì do trẻ lười
vận động. Ngồi hàng giờ liền trước màn hình ti vi sẽ làm chậm khả năng trao đổi chất

của cơ thể, khiến chất béo được dự trữ nhiều hơn thay vì bị đốt cháy.
Do đó, thầy cơ và cha mẹ hãy quan tâm đến trẻ nhiều hơn, dạy trẻ kỹ năng tự
phục vụ bản thân. Để trẻ có thể tự chăm lo tốt cho mình, người lớn cũng sẽ n tâm
hơn khi khơng ở bên con.
Trong xã hội hiện đại, khi mà ngày càng có nhiều người, máy móc, thiết bị
làm thay cho trẻ. Thì việc dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ đã trở thành mục tiêu quan
trọng hàng đầu của các nhà trường trong đó có trường mầm non 8/3. Khơng chỉ
chuẩn bị cho trẻ kỹ năng tự chăm sóc bản thân khi khơng có cha mẹ cạnh bên. Mà
việc rèn luyện các kỹ năng thường xuyên kể cả khi gặp khó khăn, sẽ giúp trẻ tơi
luyện ý chí, bản lĩnh. Trẻ khơng ngại khó, khơng ngại khổ, sẵn sàng chinh phục các
mục tiêu đến cùng. Đây chính là nhà trường đang chuẩn bị cho trẻ những kỹ năng
sống thiết thực. Chuẩn bị tốt nhất cho trẻ trong tương lai.

9 / 23


10

2.2. Khảo sát thực trạng về kỹ năng tự phục vụ của trẻ đầu năm học
(khảo sát ngẫu nhiên 39 trẻ / 94)
TT

Nội dung khảo sát

Đạt

Chưa đạt
Số
Tỷ lệ


Số

Tỷ lệ
%
51,3
56,4
71,8
76,9
61.5
74,4
79,5
48,7
51,3
64,1
76,9
38,5
64,1
30,8
76,9

lượng
19
17
11
9
15
10
8
20
19

14
9
24
14
27
9

%
48,7
43,6
28,2
23,1
38,5
25,6
20,5
51,3
48,7
35,9
23,1
61.5
35,9
69,2
23,1

30,8
10,3

27
35


69,2
89,7

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Xếp hàng đúng cách
Tự lấy và cất ghế
Tự xúc cơm ăn
Tự lấy cốc và uống nước đúng cách
Tự rửa tay
Tự xúc miệng nước muối sau khi ăn cơm
Tự lấy tay che miệng khi ho
Tự biết cách lau mặt
Tự biết lau miệng đúng cách
Tự biết mặc, cởi áo
Tự biết cách cất dép và đi dép

Tự biết cài khuy áo
Tự biết lấy và cất gối
Tự biết cách cầm kéo, cầm dao
Tự cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy

lượng
20
22
28
30
24
29
31
19
20
25
30
15
25
12
30

16
17

định
Tự biết cách gấp, mắc quần áo
Khả năng trẻ tự làm được không cần cô

12

4

nhắc nhở
Trong quá trình tìm hiểu số liệu khảo sát thực tế của nhà trường, chúng tôi
thấy khả năng nhận thức của trẻ còn chưa cao, khả năng tự phục vụ còn khá hạn
chế. Có nhiều trẻ nói có phát âm tốt, một số kỹ năng tự phục vụ đơn giản như
muốn uống nước nhưng chưa biết cách lấy nước uống, cách cầm cốc lấy nước sao
cho đỡ đổ, một số trẻ có nhu cầu đi vệ sinh nhưng khơng biết cởi quần và mặc quần
nên thường hay bị ướt quần, ... Bên cạnh đó có những trẻ nghe chưa kịp hoặc
khơng hiểu những hiệu lệnh của cô nên không thực hiện được. Tuy nhiên cơ một số

10 / 23


11

trẻ lại có những kỹ năng tự phục vụ rất tốt nhưng thiếu tính chủ động nên trẻ ln
chờ đợi người lớn nhắc nhở mới thực hiện.
Có thể hiểu ở đây hai vấn đề: hành động và kỹ năng. Khi chúng tôi thấy các cô
dạy trẻ rằng: con hãy lau mặt cho sạch, trẻ thực hiện yêu cầu của cô, đó là hành
động. Hầu hết các trẻ lứa tuổi mầm non đều biết các hành động đơn giản: nhặt rác,
chào hỏi người lớn, xin lỗi và cám ơn... Nhưng để những hành động đó trở thành
kỹ năng thì lại cần một quá trình giáo dục. Hành động của trẻ trở thành kỹ năng khi
trẻ thấy tay bẩn trẻ đi rửa tay, mặt bẩn trẻ đi lau mặt, ăn cơm xong là đi chải răng
chứ khơng cần ai nhắc nhở, vì khi đó trẻ làm vì ý thức: thấy tay bẩn, mặt bẩn thì đi
rửa tay, rửa mặt, chải răng ngay sau khi ăn để răng sạch chứ khơng làm vì người
khác sai bảo.
Như vậy, bên cạnh việc dạy trẻ các hành động vệ sinh cá nhân: rửa tay, lau
mặt, chải đầu tóc, gấp quần áo hay nói chung là giữ gìn vệ sinh cá nhân... chúng ta
cần dạy trẻ ý thức được những việc làm đó và trẻ thực hiện các hành động đó vì ý

thức trẻ hiểu chứ khơng phải vì người lớn bắt trẻ phải làm, khi đó kỹ năng sống của
trẻ được hình thành và theo trẻ đến suốt cuộc đời. Khi hiểu được bản chất của việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ: "đưa hành động vào trong ý thức" thì việc dạy kỹ năng
sống cho trẻ nên đơn giản và các bậc cha mẹ và thầy cơ đều có thể thực hiện được
mà khơng phải băn khoăn là làm sao để dạy trẻ kỹ năng sống.
2.3. Một số định hướng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3,4 tuổi
2.3.1. Lập kế hoạch thực hiện rèn trẻ các kỹ năng trong 1 năm học
Đối với trẻ 3- 4 tuổi thì nhận thức của trẻ là cịn hạn chế. Vì vậy để trẻ dễ
hiểu hơn và để dễ đánh giá kết quả của trẻ. GV cần phải định ra các kế hoạch và
lồng ghép vào các hoạt động trong ngày theo từng tháng.
TT

KỸ NĂNG

T8

1

Cách xếp hàng

x

T9

T10 T11 T12 T1

11 / 23

T2


T3 T4 T5


12

2
3

Cách lấy và cất ghế
Cách cất dép và đi dép

x

x

4

giầy
Cách cất đồ dùng , đồ

5

chơi đúng nơi quy định
Cách sử dụng bát,

x

6

thìa,cốc đúng cách

Cách lấy nước và uống

x

7
8
9

nước
Cách lấy và cất gối
Cách rửa tay
Cách xúc miệng nước

10
11
12

muối
Cách sử lý khi ho
Cách lau mặt
Cách mặc và cởi quần

13

áo
Cách gấp và mắc quần

14
15


áo
Cài khuy áo
Cách cầm dao, kéo

x
x

x
x
x
x
x
x
x
x
x

Ngoài việc thường xuyên nhắc nhở, dạy trẻ các kỹ năng. GV cần vạch ra kế
hoạch đưa các kỹ năng vào các tháng để chú trọng hơn, để biết trong tháng này
ngoài các kỹ năng trẻ đã biêt thì sẽ dậy trẻ kỹ năng gì mới. Hơn nữa làm nhưu vậy
trẻ sẽ nhớ hơn là dậy trẻ liền một lúc nhiều kỹ năng , sau rồi trẻ khơng nhớ gì. Đưa
các kỹ năng theo tháng cô giáo cũng dễ định hướng là tháng này cần dạy trẻ kỹ
năng gì mà khơng bị bỏ qn, hay xót các kỹ năng.
2.3.2. Nắm vững kiến thức trọng tâm về kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ cho
trẻ thông qua các hoạt động vệ sinh cá nhân hàng ngày.
a. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ.
- Thói quen vệ sinh cần rèn luyện.
12 / 23



13

- Ngồi những thói quen vệ sinh ở lớp, giáo viên cần rèn luyện thêm cho các
cháu những thói quen vệ sinh sau:
- Trẻ tự rửa mặt, rửa tay: trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh răng.
- Có ý thức giữ vệ sinh nơi cơng cộng, tôn trọng người khác như: không khạc
nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch..
- Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng
sạch sẽ.
- Biết gấp cất trải nệm, gối.
- Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn
ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.
- Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa.
- Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống
văn minh.
- Các kỹ năng cần rèn cho trẻ.
- Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh cá nhân.
- Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.
- Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi…
b. Giáo viên cần nắm được các trình tự để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
- Cô giáo hướng dẫn cho trẻ được nội dung yêu cầu thực hiện các thao tác vệ
sinh cá nhân.
Ví dụ: Để trẻ thực hiện được các thao tác rửa tay, cô giáo cần làm mẫu từng
bước rửa tay cho trẻ quan sát và thực hiện theo.
- Các cháu mẫu giáo nhỡ tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được
những kiến thức thơng thường vì vậy cơ cần phải hướng dẫn cho các cháu biết
những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực
hiện đúng u cầu đó, lời hướng dẫn của cơ phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dể
hiểu.
13 / 23



14

Ví dụ: Cơ giáo cần giúp trẻ hiểu vì sao mỗi khi học tập xong, sau khi đi đại
tiện trẻ cần phải rửa tay sạch sẽ? Ngoài phương pháp dùng lời, cơ có thể kèm với
lời giải thích bằng tranh, phim ảnh...
- Chuẩn bị lời hướng dẫn và động tác mẫu. Các cháu có thể làm tốt các cơng
việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cơ cần
chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích.
Cơ có thể tập trước cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm
theo.
Ví dụ: Thực hiện đúng lịch hoạt động vệ sinh hàng ngày của trẻ để hình thành
nền nếp kỹ năng tự phục vụ vệ sinh cá nhân cho trẻ.
c) Giáo viên tổ chức một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động
vệ sinh cá nhân trẻ:
- Vệ sinh môi trường nề nếp của lớp:
Các cháu ở tường mầm non thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ
mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái
đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ.
Ví dụ: Lớp học sạch đẹp cháu sẽ không vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ
chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp đều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.
Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng
giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói
quen tốt cho trẻ.
- Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh: Đặc điểm của trẻ là hay
bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai,
cái xấu. Vì vậy cơ giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân
thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đơi với
việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.


14 / 23


15

Ví dụ: Trang trí, sắp xếp lớp học gọn gàng, ngăn nắp; rửa tay sau mỗi hoạt
động dạy học; giữ vệ sinh môi trường trường lớp sạch đẹp...
2.3.3. Dạy trẻ kỹ năng tự phục thông qua các hoạt động hàng ngày.
a. Muốn thực hiện được những quy định thì phải có phương tiện thực hiện.
- Tham mưu nhà trường, phụ huynh học sinh tạo điều kiện vật chất tối thiểu
cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những quy định về vệ sinh.
Ví dụ: Cơ dạy các cháu bỏ rác vào sọt (giỏ rác) thì lớp phải có giỏ rác cho các
cháu bỏ, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà,
cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cơ cùng gia đình kết
hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực
hành vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
- Trang bị, bổ sung đủ các trang thiết bị vệ sinh cá nhân trẻ ở lớp.
Ví dụ: Mỗi cháu 1 khăn mặt, 1 bàn chải răng, 1 cốc uống nước riêng có kí hiệu
tên trẻ; Khăn thêu tên, bìa hồ sơ để lưu bài học theo chủ đề, đồ dùng học tập của cá
nhân trẻ đều ghi tên kí hiệu riêng từng cháu.
- Giữ sạch sẽ nhà vệ sinh của trẻ:
Nhà vệ sinh nếu không được giữ vệ sinh sạch sẽ là nơi dễ mang mầm bệnh, vì
thế nhà vệ sinh dành cho trẻ cần được chú ý giữ gìn sạch sẽ, thơng thống khơng để
có mùi hôi. Thường xuyên chà rửa, lau chùi nhà vệ sinh bằng dung dịch nước vệ
sinh, nước lau nhà vừa vệ sinh sạch sẽ vừa giúp phòng tránh được các mầm bệnh
cho trẻ, giúp trẻ thoải mái khi sử dụng nhà vệ sinh.
Ví dụ: Chà sạch sẽ nhà vệ sinh mỗi ngày, giữ sạch sẽ các dụng cụ vệ sinh.
Ngoài ra, cịn dán các hình ảnh thực hiện các thao tác và hành động thực hiện
vệ sinh dán trên vách lớp, trong nhà vệ sinh ngay chỗ đặt bồn rửa tay của trẻ hoặc

nơi trẻ tiểu tiện với mục đích thường xuyên nhắc nhở trẻ có thói quen vệ sinh đồng
thời thực hiện tốt các thao tác vệ sinh và các hành vi văn minh.

15 / 23


16

Tham mưu cùng nhà trường trang bị đầy đủ các dụng cụ vệ sinh cho trẻ:
khăn lau tay, lau mặt, bàn chải đánh răng, ca múc nước, xà phòng… chú ý sắp xếp
ngăn nắp, vừa tầm tay trẻ giúp trẻ dễ lấy sử dụng.
Ví dụ: Xà phịng để trong rổ nhỏ hoặc túi lưới treo cạnh bồn rửa tay; các loại
khăn treo trên giá thấp ngang tầm với trẻ và thường xuyên giặt sạch, phơi khô dưới
ánh nắng mặt trời; bàn chải đánh răng rửa sạch phơi nắng và cắm vào trong một giá
để bàn chải…
b. Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày
* Giờ đón trẻ: tơi đón trẻ vào lớp nhắc trẻ phải chào ba, mẹ ; chào cơ, tơi
hướng dẫn trẻ xếp mũ nón bảo hiểm, cặp vào kệ, giúp trẻ chải lại đầu tóc, hướng
dẫn trẻ xếp dép đúng chân ngay ngắn lên kệ dép.
* Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay, lau mặt, mời cô, các bạn, cầm muỗng đúng tay.
Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội.
Không ngậm thức ăn lâu trong miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói
chuyện, đi lại lung tung.
* Khi trẻ uống nước: dạy và nhắc trẻ uống nước từ từ, không làm đổ, khơng
làm rơi cốc, khơng rót nước q đầy, khơng thị tay vào thùng chứa nước thừa,
khơng uống nước sống...
* Hoạt động vệ sinh: rửa tay – rửa mặt:
Rửa tay – rửa mặt: đúng cách, đúng kỹ năng vệ sinh tay – mặt cô hướng dẫn.
* Dạy trẻ biết tự mặc quần áo: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ - không
mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần

áo – thường xuyên tắm rửa thay quần áo.
Ví dụ: Cho trẻ xem tranh ảnh các bạn nhỏ ăn mặc quần áo sạch sẽ khi đi
học, khi đi đến những nơi cơng cộng hoặc dự lễ hội.
* Giờ đón và trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô giáo dục các cháu
kỹ năng tự phục vụ của trẻ.
16 / 23


17

Ví dụ: Trao đổi với phụ huynh các thao tác rửa tay hoặc giờ giấc hoạt động
của trẻ trong một ngày.
Nhắc nhở phụ huynh cho con tự cất đồ dùng cá nhân của mình vào đúng tủ,
đúng nơi quy định, đúng ký hiệu. Bố mẹ cùng hướng dẫn con cất các đồ dùng đó
ngay ngắn. Tuyệt đối bố mẹ khơng nên làm hộ con. Hơn nữa bố mẹ khi đưa con đi
học cùng kiểm tra xem con đã cất đúng đồ dùng cá nhân của mình chưa cùng với
các cơ.
Ví dụ: Trẻ khi đi đến lớp sẽ tự cầm dép của mình và cất vào chỗ có ký hiệu để
dép của mình, để ngay ngắn; cất bap đúng nơi quy định.
* Giờ ngủ: Cho trẻ làm giúp cô những việc vừa sức của mình và rèn cho trẻ có
các thói quen tốt. Đó là cho trẻ xếp hàng đi lấy gối, xếp gối và cất gối đúng nơi quy
định sau khi ngủ dậy
* Thực hiện đúng chế độ hoạt động vệ sinh của trẻ:
Để hình thành thói quen và nền nếp thực hiện các kỹ năng cho trẻ, GV thực
hiện đúng theo lịch hoạt động vệ sinh ở trường.
Thực hiện chế độ sinh hoạt vệ sinh đều đặn, hợp lý: luôn luôn tổ chức cho trẻ
thực hiện các thao tác vệ sinh đúng giờ, chú ý quan sát, theo dõi khi trẻ để kịp thời
nhắc nhở trẻ làm theo quy định.Nhắc nhở trẻ, động viên trẻ kịp thời để trẻ tiếp thu
và thực hiện tốt nhất.
Ví dụ như: Khi dậy trẻ vào các hoạt động cần dùng đến ghế để ngồi, GV rèn

trẻ cách bê ghê đúng cách, bê bằng hai tay, lấy lần lượt từ trên xuống, không chen
lấn nhau khi lấy, khi cất ghế trẻ cũng phải bê ghê hai tay, xếp lần lượt, ngay ngắn,
đúng nơi quy định, không xếp quá cao.
2.3.4. Lồng ghép một số bài thơ khi dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
Để trẻ dễ nhớ, dễ thực hiện thì khi dậy trẻ kỹ năng nào tôi sẽ dạy trẻ một bài
thơ. Trẻ sẽ đọc thơ và làm theo.Như vậy trẻ sẽ sẽ rất hứng thứ vì trẻ vừa đọc thơ và

17 / 23


18

vừa được diễn lại. Trẻ khơng có cảm giác bị ép buộc khi học. Và lại khi đọc thơ trẻ
sẽ rất nhớ các bước hơn là mình nói bằng lý thuyết.
Ví dụ: Khi dạy trẻ kỹ năng xếp hàng tơi sẽ lồng ghép bài thơ “ Quy tắc xếp
hàng”
Quy tắc xếp hàng
Trong lúc xếp hàng
Bé đừng chen lấn
Đợi chờ kiên nhẫn
Có gì khó đâu
Đến trước, đứng trước
Đến sau , đứng sau
Nét đẹp văn hóa
- Hay khi dạy kỹ năng rửa tay có rất nhiều kỹ năng khó và các bước. Trẻ rất
khó nhớ. Thậm chí khi thực hiện trẻ sẽ sợ và làm không đứng yêu cầu kỹ năng cần
đặt ra. Vì vậy, để cho trẻ nhớ tơi sẽ vừ cho trẻ đọc bài thơ “ Rửa tay” và trẻ thực
hiện.
Bài thơ: Rửa tay
Bé làm ướt tay nào

Bánh xà phòng nho nhỏ
Em xát lên bàn tay
Nước máy đầy trong vắt
Em rửa đơi bàn tay
Xoa lịng bàn tay nào
Rồi đến kẽ ngón tay
Đổi bên làm lại nào
Tiếp đến xoay cổ tay
Ơi bé thật là giỏi
18 / 23


19

Đổi bên xoay tiếp nha
Chụm đầu ngón tay lại
Rửa cho sạch nhé bé
Khăn mặt đây thơm phức
Bé hãy lau khô tay
Đôi bàn tay be bé
Nay rửa sạch, xinh xinh
Cùng giơ tay vỗ vỗ.
- Và khi dậy kỹ năng lau mặt tôi cho trẻ đọc bài thơ “ Bé tập rửa mặt”
Bài thơ: Bé tập rửa mặt
Một tay chẳng làm được
Bé phải lau hai tay
Bắt đầu từ mắt này
Lau từ trong ra nhé
Nhích khăn lên các bé
Lau sống mũi xuống đi

Sau đó đến cái gì
Cái miệng xinh của bé
Cơ cất giọng nhỏ nhẹ
Làm thế nào nữa đây?
Bé gấp đôi khăn ngay
Lau hai bên má đỏ
Gấp đôi một lần nữa
Lau cái cổ cái cằm
Mắt bé nhìn chăm chăm
Kìa cơ khen bé giỏi.

19 / 23


20

- Tiếp khi dậy đến kỹ năng xử lý khi ho tôi cũng tự sáng tác bài thơ “Cô dạy
bé” để cho trẻ dễ nhớ.
Bài thơ: cô dạy bé
Bé đến lớp
Cô dạy bé
Bé nhớ nhé
Nếu bị ho
Hay hắt hơi
Bé lấy ngay
Tay che miệng
Thế mới ngoan
Ai cũng yêu.
- Nhờ có việc dậy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các bài thơ nên trẻ rất
nhớ, và thực hiện khá tốt các kỹ năng được học.

2.3.5. Tuyên truyền, phối hợp phụ huynh học sinh dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ
Muốn trẻ hình thành được các kỹ năng tự phục vụ tốt thì nhà trường và gia
đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông
báo, yêu cầu biện pháp giáo dục kỹ năng phục vụ cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ
huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp
giáo dục rèn luyện cho trẻ.
Ví dụ: Cần duy trì thực hiện nề nếp cho trẻ lau miệng, xúc miệng nước muối
sau bữa ăn ở trường cũng như ở nhà.
Để thu hút sự chú ý của phụ huynh đến góc tuyên truyền cần trang trí thật đẹp
bảng thơng tin tun truyền dành cho phụ huynh. Các bậc cha mẹ có thể đọc, quan
sát theo dõi dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết
quả giáo dục của con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các
bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức
20 / 23


21

khỏe, ngược lại cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao
đổi với giáo viên.
Ví dụ: Giáo viên có thể tun truyền về hình ảnh hướng dẫn các bước rửa tay,
kết quả tình hình sức khỏe của trẻ... Phụ huynh có thể ghi chép một số bài hát, bài
thơ, câu chuyện có nội dung dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ
Ngoài ra cần tiếp tục xây dựng thư viện cho bé tại lớp, tại nhà, khuyến khích
các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe. Để duy trì bổ sung nhu cầu đọc
sách của trẻ, cần thường xuyên vận động cha mẹ quan tâm tặng sách cho góc thư
viện của lớp và trang bị phong phú cho góc sách ngay tại gia đình.
Ví dụ: Tạo điều kiện mời phụ huynh đến tham quan góc thư viện của bé, quan
sát giờ đọc sách, xem tranh của bé. Qua đó, vận động phụ huynh tặng sách cho góc
thư viện của lớp.

Quan trọng nhất là hàng ngày giáo viên cần kiểm tra kỹ năng trẻ về một số
vấn đề đơn giản như: trước khi đi học các con đã rửa tay, chân, mặt mũi sạch sẽ
chưa?…. Và phải động viên kịp thời khi trẻ thực hiện đúng được một trong những
vấn đề vệ sinh như đã rửa tay chân , rửa mặt sạch.
Ví dụ: Đưa vào tiêu chuẩn nêu gương để giúp trẻ thực hiện tốt theo quy định.
Bên cạnh đó cần động viên, khuyến khích những trẻ chưa thực hiện tốt lần sau
cố gắng thực hiện tốt như các bạn.
Thường xuyên nhắc nhở trẻ bỏ rác đúng nơi quy định, treo áo, mũ, để dép vào
đúng nơi quy định, quét dọn lớp khi lớp bẩn, biết kê bàn ghế lại cho gọn gàng khi
bàn ghế để không ngay ngắn.
Trước khi ra về, cô nhắc trẻ về nhà tắm rửa sạch sẽ, rửa tay sạch trước khi ăn
và sau khi đi vệ sinh.,….Cứ như thế, hàng ngày, hàng ngày cô động viên kịp thời
trẻ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, để dép, mũ,…đúng nơi quy định sẽ giúp cho trẻ dần
dần hình thành được thói quen tốt .
KẾT LUẬN
21 / 23


22

Trong suốt quá trình thời gian thực tế và tìm hiểu bản thân tơi đã tích lũy được
ra một số điều cần làm và cần tránh trong dạy trẻ mầm non những kỹ năng sống cơ
bản kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động vệ sinh cá nhân như sau:
Trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử
công bằng với trẻ và đảm bảo an tồn cho trẻ.
Người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và
trẻ sẽ làm tốt hơn kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ.
Cơ giáo chịu khó trị chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ,
không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa trẻ.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều.

- Khơng bao bọc trẻ một cách thái quá sẽ làm trẻ yếu đuối: Cha mẹ thường
không đánh giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ cịn nhỏ sẽ khơng làm được một
điều gì cả. Sự bảo bọc thái quá sẽ dẫn trẻ đến ý nghĩ rằng bản thân trẻ không thể
làm điều gì nên thân. Hãy nhớ: đừng bao giờ làm những gì mà trẻ có thể làm được.
- Khơng yêu cầu những điều không phù hợp với lứa tuổi của trẻ vì những yêu
cầu ở trẻ phải thực hiện một hành vi chính chắn mà trẻ chưa có khả năng hoặc trẻ
phải làm các u cầu khơng mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép
hoặc cấm đốn sẽ ảnh hưởng khơng tốt đến sự phát triển tính nhận thức ở trẻ.
- Khơng nên giáo huấn q nhiều vì ảnh hưởng của những luồng ngơn ngữ đó
làm cho đứa trẻ ngưng hoạt động nhưng trong thực tế đứa trẻ không thể ngưng hoạt
động sẽ dần làm cho trẻ nghĩ rằng trẻ là người có tội, làm nảy sinh tính tự ti, đánh
giá tiêu cực về bản thân sau này.
-Lựa chọn những kỹ năng phù hợp với độ tuổi như: Dạy trẻ tự rửa mặt, vệ sinh cá
nhân, tự lấy ghế, cất đồ chơi đúng nơi quy định, kê bàn, kê giường…Cơ giáo có
thể trẻ phát triển các kỹ năng tự phục vụ thông qua việc tổ chức lồng ghép
các hoạt động và ở mọi lúc mọi nơi. VD: Khi chơi ở hoạt động góc trẻ tự lấy
đồ chơi và cất đúng nơi quy định, giờ ăn trẻ có thể hộ cơ kê bàn và lấy khăn
22 / 23


23

lau lấy đĩa đựng cơm rơi, giờ ngủ trẻ tự kê giường lấy gối, buổi chiều trẻ
cùng cô sắp xếp đồ dùng… Cơ giáo có thể sử dụng nhiều hình thức khuyến
khích động viên trẻ hứng thú thực hiện các kỹ năng tự vục vụ.
- Xây dựng kế hoạch dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ: Cô giáo cần xây dựng
kế hoạch ngay từ đầu năm dựa trên kế hoạch của nhà trường để đưa ra những
nội dung phù hợp tránh tình trạng bỏ sót các hoạt động.
- Cơ giáo và phụ huynh cần xây dựng môi trường để dạy kỹ năng cho trẻ:
Gia đình và nhà trường đều phải phối hợp tạo môi trường, và là những tấm

gương cho trẻ noi theo.
- Lồng ghép nội dung dạy kỹ năng cho trẻ vào các hoạt động mọi lúc mọi
nơi: Trong các hoạt động cơ đều có thể dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ:
- Việc phối hợp với phụ huynh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc rèn kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ để giúp các kỹ năng mà trẻ được dạy ở lớp được rèn
luyện và thực hành ngay tại nhà là điều vô cùng cần thiết. Tuyên truyền cho
phụ huynh thấy rằng nên cân bằng giữa việc ni dưỡng và khuyến khích sự
độc lập để trẻ khám phá và trải nghiệm giúp trẻ tự tin hơn trong cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình giáo dục mầm non
2. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non các
độ tuổi.
3. Nguyễn Thị Thu Hà (2010). Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non.
Tạp chí Giáo dục Mầm non, số 03/2010
4. Phạm Quỳnh Ni (2015). Phát triển kĩ năng tự phục vụ cho trẻ
5. Tài liệu tập huấn giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non
6. Tài liệu tâm sinh lý của trẻ mầm non

23 / 23



×