Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Bàn về vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.34 KB, 4 trang )

BÀN VỀ VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT PHÁP
TS. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Khoa Luật – Trường Đại học Hoa Sen
1. Định nghĩa và phương thức hình thành án lệ tại Pháp
Pháp là một trong những nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (hệ thống
dân luật), là một quốc gia có hệ thống luật thành văn có ảnh hưởng đến các nước theo hệ
thống dân luật trên toàn thế giới. Tuy nhiên, án lệ cũng góp phần khơng nhỏ hình thành
nên nguồn của luật tại quốc gia này.
Bên cạnh tập quán pháp và học thuyết pháp lý thì án lệ là nguồn gián tiếp của Luật
thành văn tại Pháp. Án lệ được hiểu là “tồn bộ các phán quyết/bản án của Tịa án đã
được công bố trong một khoảng thời gian nhất định hoặc theo từng lĩnh vực (án lệ bất
động sản) hoặc trong cùng một lĩnh vực (án lệ dân sự, án lệ thuế…) hoặc trong toàn bộ hệ
thống pháp luật”138. Tuy nhiên, đây là cách tiếp cận hình thức xem án lệ như là tập hợp
các phán quyết của tòa án hay nói cách khác là cơng bố bản án.
Một cách định nghĩa khác về án lệ là kết quả của việc áp dụng lặp đi lặp lại một
cách áp dụng pháp luật nhất định139. Như vậy, theo nghĩa này, để án lệ có thể coi là một
nguồn của luật thì phán quyết đơn thuần không đủ để thiết lập nên án lệ. Ngược lại, các
thẩm phán phải xây dựng một giải pháp nhất quán mà họ khẳng định lại nhiều lần trong
cùng một tình huống hay một tranh chấp mới tạo thành án lệ.
Theo định nghĩa, án lệ là các phán quyết của tịa án. Nhưng câu hỏi đặt ra có phải
bất cứ bản án nào cũng là án lệ? Để một bản án trở thành án lệ, phải đáp ứng các tiêu chí
về tính lặp đi lặp lại theo thời gian, sự giống nhau của các giải pháp đề cập đến trong
quyết định của tòa án.
2. Giá trị pháp lý của án lệ
Câu hỏi về giá trị pháp lý của án lệ đang gây tranh cãi “đây là quy tắc pháp lý có
hiệu lực bắt buộc hay chỉ là những quy tắc xử sự chung khơng có hiệu lực pháp lý ràng
buộc?”140. Vấn đề lặp đi lặp lại về tính hợp pháp của án lệ thường xuyên được đưa lên
bàn cân tranh luận của các chuyên gia.
Theo quan điểm nhất ngun thì tính pháp lý của quy tắc được đánh giá trên một
tiêu chí duy nhất là những quy tắc nào xuất phát từ một cơ quan được trao quyền theo
Hiến pháp mới được coi là có giá trị pháp lý.



138

G. CORNU, Vocabulaire juridique, 7e ed., Paris, PUF, 2005, p. 970.
F. TERRE, Introduction générale au droit, 6 e ed., Dalloz, 2003.
140
O. Dupeyroux, La doctrine franỗaise et le problốme de la jurisprudence source de droit », Mélanges G. Marty,
Université des sciences sociales de Toulouse, 1978, p. 463 ; F. Zenati, « Clore enfin le débat », RTD. civ., 1992,
« La jurisprudence aujourd’hui », p. 359 ; Xavier Pres, Les sources complémentaires du droit dauteur franỗais,
Presses universitaire dAix-Marseille, 2004, p. 115.
139

87


Theo học thuyết Tam quyền phân lập của Montesquieu thì chỉ có những cơ quan
lập pháp mới làm ra luật141. Theo Điều 5 BLDS quy định “cấm thẩm phán ban hành các
quy định mang tính lập pháp hay lập quy có hiệu lực áp dụng chung cho tất cả các vụ
việc mà mình xét xử” 142. Cơ quan tư pháp chỉ có quyền xét xử bằng cách áp dụng pháp
luật và khơng tạo ra luật.
Tuy nhiên, đó là tư tưởng của thời kì trước. Ngày nay, chức năng của thẩm phán
đã phát triển và không bị giới hạn bởi việc áp dụng pháp luật đơn thuần nữa. Theo Bellet
thì “thẩm phán khơng cịn là người phục tùng của luật pháp nữa, do đó khơng thể giới hạn
vai trị phụ trợ của thẩm phán sau Cách mạng Pháp”143. Các phán quyết của tịa án có sức
mạnh thật sự, nó là kết quả của việc áp dụng các quy tắc là làm phong phú đáng kể cho
pháp luật. Do đó, việc tham gia vào quy định của pháp luật, chức năng truyền thống của
nó là thực thi pháp luật đã đi đơi với chức năng xây dựng pháp luật như chúng ta đã thấy
ngày nay.
Như vậy có thể nói án lệ có các chức năng đáng chú ý sau:
i) Không chỉ áp dụng đơn thuần các quy phạm pháp luật mà còn làm rõ phạm vi

của chúng trong nhiều trường hợp phát sinh trong thực tế. Vì nhà lập pháp ln duy trì ở
một mức độ tổng quát nhất định khi làm ra các quy phạm pháp luật để không phải đưa ra
các quy phạm pháp luật quá nặng nề và cụ thể theo từng trường hợp. Do đó, thẩm phán
phải là “nhà lập pháp” trong những trường hợp cụ thể.
ii) Để khắc phục những lỗ hỏng và những thiếu sót của luật như quy định tại điều
4 BLDS Pháp.
iii) Thích ứng với sự chuyển biến của xã hội và lấp đầy những khoảng trống phát
sinh từ thực tiễn mới.
Ngoài chức năng xét xử, quan niệm về các nguồn của luật cũng thay đổi theo thời
gian. Việc thừa nhận quyền lực của thẩm phán đánh dấu sự ra đời của quan niệm đa
nguyên về nguồn của luật144, mức độ hoàn thiện của nguồn luật tỷ lệ thuận với mức độ tự
chủ được thừa nhận trong các quy tắc của án lệ.
Khơng có văn bản nào quy định một cách trực tiếp là án lệ là nguồn của luật tại
Pháp. Tuy nhiên, Điều 4 BLDS lại có quy định “Thẩm phán từ chối xét xử khi cho rằng
khơng có luật điều chỉnh hoặc thiếu quy định pháp luật hoặc quy định của pháp luật

141

Montesquieu, De l’esprit des lois, Livre XI, chap. 6. - Et spéc, P. Raynaud, « La loi et la jurisprudence, des lumiốres la rộvolution franỗaise ằ, APD, ô La jurisprudence », t. 30. Sirey, 1985, p. 61s.
142
Article 5: Il est défendu aux juges de prononcer par voie de disposition générale et règlementaire sur les causes
qui leur sont soumises. Tra cứu tại : (truy
cập ngày 21/11/2021).
143
P. Bellet, « Servitudes et libertés du juge : les articles 4 et 5 du code civil franỗais ằ, Arguments dautoritộ et arguments de raison en droit, Travaux du Centre national de recherches de logique, éd. Némésis, 1988, p. 145.
144
John Griffiths (1986) What is Legal Pluralism? The Journal of Legal Pluralism and Unofficial Law, 18:24, 155, DOI: 10.1080/07329113.1986.10756387.

88



khơng rõ ràng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự”145. Khi thực hiện soạn thảo các
quy định pháp luật, nhà lập pháp với kiến thức uyên bác của mình có thể dự đốn tối đa
các tình huống xảy ra trong xã hội để đưa ra quy định điều chỉnh. Tuy nhiên, thế giới
luôn vận động biến đổi không ngừng, các quan hệ xã hội ngày càng phức tạp. Nhận thức
được điều này, nhà lập pháp đã xây dựng Điều 4 BLDS, chính vì vậy mà vai trị của thẩm
phán ngày càng quan trọng khi gặp phải những tình huống mà luật chưa có quy định hoặc
quy định khơng rõ ràng, thẩm phán sẽ giải thích các quy định của pháp luật để có thể áp
dụng một cách chính xác trong q tình xét xử, từ đó hình thành nên án lệ.
Án lệ có phải là nguồn của luật? Vào thế kỷ 19, học thuyết thời đó cho rằng chỉ có
văn bản quy phạm pháp luật mới là nguồn chính thống của luật. Tuy nhiên, đến thế kỷ 20,
chủ yếu dưới ảnh hưởng của Gény, nguồn của luật bao gồm văn bản quy phạm pháp luật,
tập quán pháp, án lệ146. Bên cạnh các nguồn khác của luật thì án lệ được thừa nhận bởi
hầu hết các luật gia là nguồn của luật và cuộc tranh luận ngày nay đã hầu như ít được đề
cập về vị trí của án lệ trong các nguồn của luật trừ một vài lĩnh vực đặc biệt như luật hình
sự147. Do dó, án lệ là nguồn thứ cấp hay nói cách khác là nguồn thực tế của luật, nó tồn
tại song song với văn bản quy phạm pháp luật và bổ sung cho luật.
Mượn lời của Bellet để kết luận rằng khi đề cập đến vai trò và quyền tự do của
thẩm phán “hệ thống pháp luật mà nhà lập pháp (thời kỳ cách mạng Pháp) muốn nó chặt
chẽ và cứng nhắc thì ngày nay lại khá linh hoạt và cho phép đảm bảo sự phát triển của
pháp luật đi đôi với sự phát triển của xã hội”148.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. F. GENY, Méthode d’interprétation et sources en droit privé positif, T.2, 1964, no 91.
2. F. TERRE, Introduction générale au droit, 6e ed., Dalloz, 2003.
3. F. ZENATI, « Clore enfin le débat », RTD. civ., 1992, « La jurisprudence aujourd’hui », p. 359.
4. G. CORNU, Vocabulaire juridique, 7e ed., Paris, PUF, 2005.
5. G. STEFANI, G. LEVASSEUR et B. BOULOC, Droit pénal général, Dalloz, no 114.
6. John Griffiths (1986) What is Legal Pluralism? The Journal of Legal Pluralism and
Unofficial Law, 18:24, 1-55, DOI: 10.1080/07329113.1986.10756387.
7. O. DUPEYROUX, La doctrine franỗaise et le problốme de la jurisprudence source de

droit », Mélanges G. Marty, Université des sciences sociales de Toulouse, 1978.
145

Article 4: Le juge qui refusera de juger, sous prétexte du silence, de l'obscurité ou de l'insuffisance de la loi, pourra
être
poursuivi
comme
coupable
de
déni
de
justice.
Tra
cứu
tại
(truy cập ngày 21/11/2021).
146
F. GENY, Méthode d’interprétation et sources en droit privé positif, T.2, 1964, n o 91, p. 238 ; P. DEUMIER et T.
REVET, Sources du droit (problématique générale), Dictionnaire de la culture juridique, Lamy-Puf, 2003, p. 1432.
147
G. STEFANI, G. LEVASSEUR et B. BOULOC, Droit pénal général, Dalloz, no 114.
148
P. Bellet, « Servitudes et libertés du juge : les articles 4 et 5 du code civil franỗais ằ, Arguments dautoritộ et arguments de raison en droit, Travaux du Centre national de recherches de logique, éd. Némésis, 1988, p. 145s., spéc.
p. 157.

89


8. P. BELLET, « Servitudes et libertés du juge : les articles 4 et 5 du code civil franỗais ằ, Arguments d’autorité et arguments de raison en droit, Travaux du Centre national
de recherches de logique, éd. Némésis, 1988.

9. P. DEUMIER et T. REVET, Sources du droit (problématique générale), Dictionnaire
de la culture juridique, Lamy-Puf, 2003.
10.
P. RAYNAUD, « La loi et la jurisprudence, des lumiốres la rộvolution franỗaise ằ, APD, ô La jurisprudence », t. 30. Sirey, 1985.
11.
X. PRES, Les sources complộmentaires du droit dauteur franỗais, Presses universitaire dAix-Marseille, 2004.

90



×