Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TRÌNH BÀY TƯ TƯỞNG MÁC LÊ NIN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.95 KB, 14 trang )

ĐỀ BÀI
TRÌNH BÀY TƯ TƯỞNG MÁC LÊ- NIN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI. Ý
NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO
CƠNG NGHIỆP HỐ HIỆN ĐẠI HỐ
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

BÀI LÀM
PHẦN MỞ ĐẦU : GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan
trọng nhất của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà ln
được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách
sâu sắc nhất. Không những thế, trong nhiều đề tài khoa học của
xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các
nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học,
sinh học, y học, triết học, xã hội học,... Từ rất sớm trong lịch sử
đã quan tâm đến con người và khơng ngừng nghiên cứu về nó.
Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu
biết và làm lợi cho con người
Phát triển con người là mục tiêu cao nhất của cả nhân loại. Làn
sóng văn minh thứ ba đang đưa nhân loại bước vào một kỷ
nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để họ tìm ra những con đường
tối ưu cho tương lai. Trong bối cảnh đó, sự tan rã của hệ thống
xã hội chủ nghĩa càng dễ khiến cho những tư tưởng tự do đang


tìm kiếm con đường tốt nhất cho sự nghiệp phát triển con người
ở Việt Nam phủ nhận vai trò và khả năng của con người Việt
Nam.Trên thực tế, nhiều người đã đi ngang để tìm khả năng phát
triển đó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về sống lại và
tìm thấy sự hồn thiện của con người trong các tôn giáo và hệ tư
tưởng truyền thống, người ta “sáng tạo” ra những tư tưởng, tôn


giáo mới để “hợp” hơn với người Việt Nam. hiện nay . Nhưng
nhìn lại một cách thực sự khách quan và khoa học sự tồn tại của
chủ nghĩa Mác - Lê-nintrong xã hội ta, có lẽ khơng ai có thể phủ
nhận vai trị ưu việt và đầy hứa hẹn của nó đối với sự phát triển
của con người. Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề
con người, đặc biệt là vấn đề con người trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nước ta hiện nay nên thông qua đề tài:
Quan điểm triết học Mác - Lênin về vấn đề con người sẽ góp phần
làm rõ thực tế Đảng ta đã vận dụng quan điểm đó vào q trình
xây dựng nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay như thế nào.
PHẦN NỘI DUNG : PHÂN TÍCH , TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA MÁC
LÊ NIN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
1.1: Một vài quan điểm trước quan điểm củaMác Lê Nin về vấn
đề con người
- Những tư tưởng triết học đầu tiên về con người xuất hiện ở
phương Đông vào thế kỷ VI trước Công nguyên, biểu hiện ở các
nền văn hóa dân gian khác nhau. Nguồn gốc của con người được
tiếp cận theo hai khuynh hướng. Thứ nhất, con người xuất hiện
từ một bản nguyên “vật chất” hiện thực nhất định nào đó, tức là
từ “bố và mẹ” cụ thể, như “bọc trăm trứng” của Âu Cơ và Lạc
Long Quân (Việt Nam), từ “hỗn độn” của vũ trụ, hoặc do bà Nữ
Oa nặn đất (Trung Hoa) hay từ gốc tre (Philippines). Thứ hai, con
người là do một vị thần thánh xác định nào đó sinh ra, đó chính


là Thượng đế - vị thần tối cao nhất sinh ra trời đất, giới tự nhiên
và con người
- Khác với triết học Trung Hoa, các trường phái triết học Ấn Độ,
điển hình là Phật giáo, định hướng lại vấn đề con người từ góc độ

tư duy về con người và nhân sinh theo chiều sâu triết học siêu
hình học). Một trong những kết luận độc đáo. của Phật giáo
là bản chất vơ ngã, vơ thường và thiện chí của con người trên
chương trình tìm kiếm sự hiểu biết của Giác ngộ. Các trường phái
triết học - tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo nhìn
nhận phẩm chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần
bí hoặc nhị nguyên. Với nhiều triết lý khác nhau, triết học
phương Đông đa dạng và phong phú về biểu hiện, thiên về vấn
đề con người trong các mối quan hệ chính trị và đạo đức. Nhìn
chung, con người trong triết học phương Đông thể hiện yếu tố
duy tâm, với sự pha trộn các tính chất duy trì phẩm chất hồn
nhiên trong các hệ thống tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, bản chất
con người theo quan niệm của học thuyết tôn giáo phương Đông
được phản ánh sai ánh sáng, hướng về thế giới thần linh
- Khi nhắc tới vấn đề con người các nhà triết học phải tự hỏi: Con
người thực sự là gì và để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó thì phải
giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong chính con người. Khi phân
tích các nhà triết học cổ đại đã coi con người là một mô hình thu
nhỏ, một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con
người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời
đất, là chúa của mn lồi, sau các vị thần. Con người được chia
thành hai phần, phần cơ thể và phần linh hồn. Chủ nghĩa duy tâm
và tôn giáo cho rằng: Linh hồn do Thượng đế sinh ra, quy định,
chi phối mọi hoạt động của phần xác định, và linh hồn con người
tồn tại vĩnh viễn. Ngược lại, thuyết duy thần cho rằng phần xác
định và chi phối linh hồn, rằng không có linh hồn là gì cả, và q
trình nhận thức liên tục được khám phá. Ngày càng có nhiều triết


gia tìm ra bản chất của con người và khơng ngừng khơi phục lại

bản chất của con người trước đó.
- Ở phương Tây, tư tưởng về con người xuất hiện từ rất sớm, tiêu
biểu nhất là các hệ thống triết học ở Hy Lạp và La Mã cổ đại. Khái
niệm nguồn gốc loài người cũng cho rằng con người được tạo ra
từ một nguyên bản hoặc sự kết hợp của một số nguyên
bản. Theo chủ nghĩa duy tâm, thế giới nói chung và con người
nói riêng do Thượng đế, hay các vị thần sáng tạo ra và quy định
toàn bộ hoạt động của họ. Theo Socrates, con người là do thần
linh sắp đặt nên nhận thức về linh hồn là một sự xúc phạm đối
với thần linh. Họ chỉ nên nhận thức thế giới và bản thân trong
giới hạn, chẳng hạn như học về đạo đức con người. Mặt
khác, Plato cho rằng cái vĩnh hằng và cái bất biến là bản nguyên
tạo nên toàn bộ thế giới tồn tại, tạo nên cả thể xác và linh hồn
của con người. Thể xác có thể diệt vong, nhưng linh hồn thì vĩnh
viễn bất tử, được chia thành ba loại: lý trí, lý trí và tình cảm, tương
ứng với ba hạng người thống trị và nhà tư tưởng; binh lính, binh
lính, thường dân. Cá nhân khơng có linh hồn sẽ trở thành nơ
lệ. Những quan niệm này là cơ sở lý thuyết cho nhiều niềm tin,
mê tín, dị đoan và những ý tưởng phân biệt chủng tộc. Ngược
lại, các trào lưu duy vật khẳng định nguồn gốc tự nhiên của con
người, cho rằng con người là sản phẩm của quá trình phát triển
của tự nhiên và không bị thần linh chi phối. Vai trị của con người,
trí tuệ, đạo đức và các giá trị khác như tự do, bình đẳng, lý tưởng
đạo đức cao cả ... được đề cao. Khuynh hướng này, cả trực tiếp
và gián tiếp, đều phủ nhận vai trò của các lực lượng siêu nhiên
đối với sự ra đời, tồn tại, phát triển và bản chất của con
người. Con người có khát vọng và con đường riêng của họ. Vì
vậy, giải phóng và phát triển bản chất con người theo hướng tiến
bộ là yêu cầu và điều kiện để phát triển xã hội.
1.2: Quan điểm của Mác Lê – nin về vấn đề con người



1.2.1 : Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật
với mặt xã hội
Theo quan điểm sinh học, quá trình đấu tranh vì chất lượng cơ
bản của sự tồn tại của con người là tự nhiên. Nghĩa là con người
là một sinh vật có thật, là sản phẩm của tự nhiên, xã hội động
vật. Thiên nhiên là “cơ thể vô cơ của con người… sự sống là có
thể xác định được và tinh thần của con người gắn liền với thế giới
tự nhiên”. Con người phải tuân theo các quy định của pháp luật,
các quy định của quy luật sinh học như tính di truyền, các q
trình sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Sự khác
biệt đặc biệt và quan trọng giữa con người và các thực thể sinh
học khác có thể được tìm thấy ở chỗ con người là một bộ phận
đặc biệt và quan trọng của thế giới tự nhiên, nhưng họ có thể
thay đổi khả năng hoạt động một cách tự nhiên. khả năng và bản
thân, dựa trên các quy định của pháp luật của khách hàng. Về
phương diện xã hội, con người là một thực thể xã hội, thực hiện
các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con
người là lao động sản xuất. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con
người "là động vật duy nhất có thể thốt khỏi thân phận là hình
dạng. Lồi vật phải sống hoàn toàn bằng sản phẩm của tự nhiên
và khả năng của mình. Trong khi đó, con người lại sống bằng lao
động sản xuất, cải tạo tự nhiên, tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu
cầu, mong muốn của mình Nhờ lao động sản xuất, con người
không chỉ là thực thể sinh ra mà còn trở thành thực thể xã hội,
chủ thể của “lịch sử tự nhiên”, tính tốn và “bản năng lượng xã
hội”. trong lao động sản xuất con người cũng có hàng loạt hệ
thống xã hội ngày càng phong phú, đa dạng giữa con người với
nhau Con người khơng thể tách rời xã hội vì suy cho cùng xã hội

là sản phẩm của tác dụng giữa con người với nhau nhờ lao động
và giao tiếp xã hội, tư duy của con người và ý thức có thể phát
triển.Ngơn ngữ và tư duy là một trong những biểu hiện nhất định


con người là một thực thể xã hội Xã hội là bản chất đặc trưng
phân biệt con người với động vật.
1.2.2: Con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của
lịch sử.
Lịch sử loài người được hình thành khi con người biết chế tạo ra
cơng cụ sản xuất, con người bắt đầu có nếp sống riêng, tách mình
ra khỏi thế giới. động vật, hình thành thế giới lồi người. Trong
q trình lao động sản xuất, con người khơng ngừng cải tiến cơng
cụ, tích lũy kinh nghiệm, làm cho lực lượng sản xuất của xã hội
dần dần tiến từ trình độ thấp lên trình độ ngày càng cao. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất đã kéo theo những thay đổi của các
quá trình đời sống xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Lịch
sử xã hội từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ đến nay trước hết là
lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất. Trong các chế
độ xã hội, có những quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, chỉ có thể thực
hiện được thơng qua đấu tranh giai cấp. . Cuộc đấu tranh này
diễn ra hết sức quyết liệt mà đỉnh cao là những cuộc cách mạng
xã hội nhằm xóa bỏ những quan hệ sản xuất lỗi thời. Ví dụ: cuộc
đấu tranh của giai cấp chủ nơ xóa bỏ quan hệ sản xuất có tư hữu
nơ lệ, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi xem xét vị
trí của con người trong quá trình phát triển của lịch sử lồi người,
C.Mác đã đi đến quan điểm rằng xu thế chung của quá trình phát
triển của lịch sử loài người là do sự phát triển của lực lượng sản

xuất quyết định. đầu ra - "kết quả của năng lượng thực tế của
con người". Đến lượt nó, hoạt động thực tiễn này lại bị điều kiện
hóa bởi những điều kiện tồn tại của con người, bởi "một hình thái
xã hội đã có trước những lực lượng sản xuất này". Mỗi thế hệ
con người luôn tiếp nhận những lực lượng sản xuất do thế hệ
trước tạo ra và sử dụng chúng như một phương tiện sản xuất
mới. Nhờ sự chuyển giao lực lượng sản xuất này, con người đã


“hình thành mối quan hệ trong lịch sử lồi người, định hình nên
lịch sử lồi người”.
Lực lượng sản xuất và do đó quan hệ sản xuất - xã hội của con
người càng phát triển thì" lịch sử đó trở thành lịch sử loài người
". Với quan niệm này, C.Mác đã kết luận:" Xã hội là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa con người "và" lịch sử xã hội của con
người bao giờ cũng chỉ là lịch sử phát triển cá thể của con
người. Kết luận này cho thấy, trong quan niệm của C. Mác, con
người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, mà còn là chủ
thể của hoạt động lịch sử và sáng tạo ra lịch sử. Bằng hoạt động
thực tiễn, con người đã in đậm dấu ấn sáng tạo của bàn tay, khối
óc vào thế giới tự nhiên, nâng cao đời sống xã hội và từ đó, phát
triển và hồn thiện mình. Con người vừa là chủ thể, vừa là khách
thể của quá trình phát triển lịch sử; con người tạo nên lịch sử
của chính mình, và vì vậy lịch sử là lịch sử của con người, bởi con
người và vì con người.
1.2.3 :Bản chất con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội
Con người là một thực thể xã hội tách biệt với tư cách là lực lượng
đối lập với giới tự nhiên, tác động qua lại giữa sinh vật và xã hội
tạo nên bản chất của con người. chất người. Vì vậy, để nhấn
mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu ra luận điểm

nổi tiếng của Luận cương Feuerbach: "Bản chất con người không
phải là cái trừu tượng cố hữu của cá thể riêng biệt. Trong thực tế
của nó, bản chất con người là tổng thể của các quan hệ xã
hội". Theo luận điểm trên, khơng có con người trừu tượng, thốt
khỏi mọi điều kiện, hồn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Luận
điểm đã khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa là phủ nhận
mặt tự nhiên trong đời sống con người. Ngược lại, nó muốn nhấn
mạnh rằng sự phân biệt giữa con người và động vật trước hết là
bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục khuyết điểm của các
nhà triết học trước Mác là khơng nhìn thấy bản chất xã hội. của
con người. Mặt khác, bản chất với nghĩa là cái phổ quát, cái quy


phạm; Vì vậy, cần thấy được những biểu hiện riêng biệt, phong
phú, đa dạng của mỗi cá nhân về phong cách, nhu cầu và lợi ích
trong cộng đồng xã hội. Con người là sản phẩm của giới tự nhiên,
nhưng con người khơng hồn tồn lệ thuộc vào giới tự nhiên mà
đã vươn lên, tách khỏi giới động vật, trở thành con người của xã
hội, sáng tạo ra lịch sử. Với tư cách là chủ thể của lịch sử, con
người phải được tự do, hạnh phúc và phát huy hết khả năng của
mình. Nhưng khơng phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ
điều kiện để phát triển tồn diện. Vì vậy, một vấn đề được đặt
ra là các quốc gia nói riêng, và nhân loại nói chung phải coi con
người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội.
1.2.4: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-ninvề giải phóng con
người
Bản chất xã hội của con người và tư cách chủ thể sáng tạo lịch sử
của con người đã được Mác khẳng định, C.Mác cũng đi đến quan
niệm rằng, mức độ giải phóng xã hội bao giờ cũng thể hiện ở
quyền tự do xã hội; sự giải phóng cá nhân tạo ra động lực cho sự

giải phóng xã hội và đến lượt sự giải phóng xã hội trở thành điều
kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân; con người tự giải phóng
mình và nhờ đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Con
người ấy được giải phóng và tự do phát triển tồn diện - đó là
một trong những đặc trưng cơ bản của hệ thống xã hội mới, hệ
thống xã hội chủ nghĩa mà giai cấp vô sản - giai cấp công nhân
hiện đại và các chính đảng của nó có sứ mệnh xây dựng. Khẳng
định bản chất xã hội của con người và vị trí là người sáng tạo ra
lịch sử lồi người, C.Mác cho rằng, trình độ giải phóng xã hội luôn
được nâng cao. thể hiện ở sự tự do của xã hội; sự giải phóng cá
nhân tạo ra động lực cho sự giải phóng xã hội, và đến lượt nó, sự
giải phóng xã hội trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng
cá nhân; con người tự giải phóng mình và từ đó giải phóng xã
hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Con người đó được giải phóng và tự
do phát triển tồn diện - đó là một trong những đặc trưng cơ bản


của hệ thống xã hội mới, hệ thống xã hội chủ nghĩa mà giai cấp
vô sản - giai cấp công nhân hiện đại và các chính đảng của nó có
sứ mệnh xây dựng. Với cách đặt vấn đề như vậy, C.Mác đã coi
việc giải phóng con người, phát triển tồn diện con người, "phát
triển sự phong phú của bản chất con người" là "cứu cánh tự thân"
của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giải phóng con người, phát
triển con người toàn diện cùng với phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển “nền sản xuất xã hội” vì sự phồn vinh của xã hội, vì cuộc
sống tốt đẹp hơn của mỗi thành viên trong cộng đồng. cộng
đồng xã hội và cho cả cộng đồng xã hội nói chung là “con đường
duy nhất” để không chỉ “tăng sản lượng xã hội”, mà còn để “sản
xuất ra những con người phát triển tồn diện” và hơn thế nữa,
đây cịn là “một trong những biện pháp mạnh nhất” để cải tạo

xã hội đang tồn tại, đưa cả cộng đồng loài người vào quỹ đạo của
chủ nghĩa xã hội.
PHẦN KẾT LUẬN: ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VẤN ĐỀ LÝ LUẬN. Ý
NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO CƠNG
NGHIỆP HỐ HIỆN ĐẠI HOÁCỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1: Ý nghĩa đối với việc đào tạo nguồn nhân lực cho cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đang là xu hướng phát triển của
các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu
của đất nước ta nhằm thực hiện mục tiêu “xã hội cơng bằng, văn
minh, dân giàu”, cơng nghiệp hố, hiện đại hố khơng chỉ là một
cơng cuộc xây dựng kinh tế mà cịn là một q trình chuyển
đổi. những thay đổi sâu sắc mang tính cách mạng trong lĩnh vực
đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người ..) làm
cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Thành cơng
của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố địi hỏi ngồi trường
ổn định giá trị, phải có các nguồn lực cần thiết như nhân lực, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật. Các nguồn lực này
được liên kết chặt chẽ với nhau. Theo các nhà kinh doanh chủ


nghĩa Mác - Lê-nin, con người vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm
cuối, vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, hay nói cách khác,
con người là chủ thể chân chính của q trình xã hội. Trong điều
kiện kinh tế thị trường, con người khơng chỉ đón nhận những
hoạt động, những hoạt động tiêu cực của nó trước con người,
không chỉ là những cơ hội, triển vọng tươi sáng mà cịn có cả
những cơng thức, hiểm họa, thậm chí là những đám kinh
khủng. Nói đến nguồn nhân lực là nói đến chủ thể tham gia vào
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nó khơng phải là một

chủ thể riêng biệt riêng biệt, mà là một chủ thể có thể được tổ
chức thành một lực lượng thống nhất của suy nghĩ và hành
động. Mặt khác để thấy được vai trị của nguồn sức dân, để đặt
nó trong hệ thống so với các nguồn lực khác và mức độ ảnh
hưởng của nó đến sự thành cơng của cơng ty đổi mới nước. Khi
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại phát triển
mạnh mẽ, lao động trí óc ngày càng tăng cao và trở thành xu thế
phổ biến của mọi tầng lớp nhân dân.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi căn bản kỹ thuật,
cơng nghệ, sản xuất, tăng năng suất lao động, là thực hiện xã hội
hóa nhiều mặt, góp phần ổn định và ngày càng nâng cao chất
lượng cuộc sống. đời sống và văn hóa cao của mọi thành viên
trong cộng đồng. Nó phát triển các mối quan hệ kinh tế giữa các
ngành, các vùng trong nước và các nước, nâng cao trình độ quản
lý kinh tế của nhà nước, nâng cao khả năng liên kết và mở rộng
sản xuất. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa khơng ngừng nâng cao
vai trị chủ thể của con người trong sản xuất, nhất là sản xuất lớn,
cơng nghệ cao. Chỉ khi hồn thành tốt cơng việc hiện đại hóa mới
có thể thực hiện và quan tâm đủ đến sự phát triển tự do và những
con người đại diện. Ngồi ra, cịn tạo điều kiện có chất lượng để
củng cố và tăng cường lực lượng quốc gia đủ sức bảo đảm an
ninh, quốc phòng, yếu tố chất lượng và kỹ thuật đáp ứng u cầu
đó, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác dụng trực tiếp, chủ yếu


tạo nên tiềm lực to lớn cho bảo vệ Tổ quốc. . Cơng nghệ, hiện
đại hóa cịn tạo ra nhiều khả năng để làm tốt công việc và hợp
tác quốc tế về kinh tế, khoa học, cơng nghệ, văn hóa, xã hội, ...
Công cụ thúc đẩy công nghệ hiện đại hóa đất nước địi hỏi chúng
ta phải nhận thức đầy đủ cho yếu tố to lớn và quyết định của con

người có thể tạo ra mọi thứ. cội nguồn của cải lương và văn hóa
tinh thần. Nền tảng cơng nghệ, hiện đại hóa là vì mục tiêu phát
triển tồn diện, con người ở đây được hiểu không chỉ là lao động
sản xuất mà cịn là cơng dân của xã hội, một cá nhân trên thế
giới. tệp, một thành viên trong cộng đồng dân tộc, một trí tuệ
con người trước vận mệnh của dân tộc.
Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại phát
triển mạnh mẽ, lao động trí óc ngày càng tăng cao và trở thành
xu thế phổ biến của mọi tầng lớp nhân dân. Khi một cơng ty gắn
với hiện đại hóa, mà thực chất là hiện đại hóa chất lượng sản xuất
với cách tiếp cận như vậy thì trị chơi quyết định nguồn nhân lực
được biểu hiện ở những điểm sau:
+ các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý
... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng chức năng mà chúng ta chỉ có tác
dụng và ý thức của con người. May mắn thay, con người là lực
lượng duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi, các nguồn
lực khác nhau liên kết với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp
cũng tác động đến quá trình CNH, HĐH. hiện đại hóa. các nguồn
khác nhau đều là khách hàng khả dĩ, chịu sự cải tạo và khai thác
của con người và nói đúng ra là chúng ta đều phục vụ nhu cầu và
lợi ích của con người nên con người biết cách tác động và chi
phối. Vì vậy, trong các tiền tố cơ cấu chỉ lực lượng sản xuất, người
lao động là tiền tố quan trọng nhất.
+ Các nguồn tài nguyên khác có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai
thác. Trong khi đó, các nguồn phụ mà cốt lõi là trí tuệ lại là những
nguồn vơ tận. Vơ tận, trí thơng minh của con người thể hiện ở
chỗ nó khơng có khả năng tái tạo mà tự sản sinh về mặt sinh học,


nhưng không ngừng thay đổi và phát triển về chất trong xã hội

nếu biết cách thiết kế, nuôi dưỡng và khai thác nó. khai thác hợp
lý. Nhờ đó, con người dần dần tự động làm chủ, phát hiện ra
những nguồn tài nguyên mới và tạo ra những nguồn tài nguyên
không có sẵn trong tự nhiên.
+ Trí tuệ của con người có sức mạnh to lớn khi nó được vật chất
hóa và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Thông điệp này
của C.Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển nhanh
chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang
hướng nền tảng kinh tế của các công ty ở các nước phát triển
hoạt động sang nền kinh tế tri thức (mà người ta gọi là tri thức).
+ Kinh nghiệm của nhiều nước và việc thực hiện chính thức của
nước ta đối với thành cơng của cơng cuộc hiện đại hóa phụ thuộc
vào việc hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực
hiện, tức là năng lực nhìn nhận. hiệu quả và hiệu suất của các
hoạt động của con người. Làm và hoàn thành tốt cơng việc, hiện
đại hố có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hồn thiện nhiều
mặt.
Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước. Cơng nghệ, hiện đại hóa thành cơng hay
thất bại, điều đó chỉ có thể trả lời khi yếu tố con người trả lời
được. Mặt khác cũng là trường hợp đại chúng, sự lớn mạnh hiện
nay, chạm đến vấn đề phức tạp của mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên. Đây là vấn đề nan giải của cuộc sống không chỉ với
mỗi quốc gia dân tộc mà đối với nền văn học loại người đời
Minh. Công cuộc CNH, HĐH đạt được kết quả tốt nếu khơng có
những con người u nước, ham học hỏi, lao động, sáng tạo với
tinh thần hợp tác, nâng cao ý chí và sự hài lịng. lịng tự tơn dân
tộc cao, khơng cam chịu đói nghèo, lạc hậu, hiểu biết và tôn trọng
pháp luật và đạo đức, biết kết hợp hài hịa giữa truyền thống và
hiện đại ... Đó là điều chúng ta cần học hỏi nhiều đi trước một

bước, ở đất nước đó coi trọng Nền giáo dục đứng đầu đất nước


vì dân trí kém, khinh tài, đầu ngắn, ghen ghét, thờ ơ với tương
lai. Cộng đồng các dân tộc sẽ là lực cản nguy hiểm của q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, "Phát triển và giáo dục
được coi là những yếu tố quan trọng đối với tiến bộ kinh tế" (Suy
nghĩ của Adam Smith).
1.2: Đánh giá khái quát. Rút ra bài học
Lịch sử loài người đã chứng minh con người là chủ thể của lịch sử
xã hội. Trong các nguồn lực phát triển của đất nước, nhân tố con
người đóng vai trị chủ đạo, cơ bản. Vì vậy, xây dựng con người
cần được coi là một chiến lược trong công cuộc phát triển đất
nước. Thực hiện chiến lược này là trách nhiệm của tồn bộ hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Quan tâm đến sự phát triển của
con người là quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Và cần phải dựa
trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhưng đặc biệt cần vận dụng quan điểm triết học về cá
nhân và xã hội của triết học Mác - Lê-nin để đưa ra các giải
pháp. thiết thực cho đất nước
Là một học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường và cũng sẽ
tham gia vào những nguồn lực tương lai của đất nước, mỗi bạn
trẻ hãy nhận thức rõ ràng trách nhiệm của mình đối với xã hội
đất nước. . Thực tế cho thấy, ngay từ bây giờ, bắt đầu từ việc nỗ
lực học tập, rèn luyện nâng cao năng lực bản thân, trong tương
lai, các bạn có thể dùng chính sức mình để phần nào xây dựng
đất nước Việt Nam ngày càng phát triển giàu mạnh. Bên cạnh
các hoạt động học tập nâng cao trình độ văn hóa, học sinh cần
tích cực hơn nữa trong các hoạt động thể dục thể thao để nâng
cao thể lực và sức khỏe. Điều quan trọng khơng kém là phải có

tư tưởng chính trị đúng đắn, từ đó đặt nền tảng để bản thân phát
triển đúng hướng, có ích cho xã hội.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM



×