Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài thi tăng cường tính chủ động trong hoạt động tự học của sinh viên (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.34 KB, 10 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Kỹ Năng Mềm
Đề tài : Tăng cường tính chủ động trong hoạt
động tự học của sinh viên

LỜI MỞ ĐẦU
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Về cách học, phải lấy tự học làm cốt”. Tự học
là một thuộc tính vốn có của con người, là con đường phát triển của mỗi cá nhân, của cả dân tộc,
là động lực chính của q trình giáo dục – đào tạo. Đối với đào tạo đại học, hoạt động tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên được coi là công việc thường xuyên và tất yếu, hơn thế nữa, nó cịn là
u cầu bắt buộc và được thế hiện bằng một tỉ trọng thời lượng nhất định trong kết cấu thời lượng
của học phần khi áp dụng đào tạo theo tín chỉ.
Trong q trình học đại học của sinh viên tự học có vai trị vơ cùng quan trọng. Tự học là yếu
tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo bởi nó phát huy tính tự giác, tính tích cực
chiếm lĩnh tri thức của sinh viên. Do đó, bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên là một cơng
việc có vị trí cần thiết trong các nhà trường đại học. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều
con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi sinh viên mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết
tri thức khoa học về đời sống xã hội để từ đó có được sự tự tin trong cuộc sống, cơng việc bằng
chính năng lực tồn diện của mình. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động tự học, tự nghiên cứu của sinh
viên nói chung, trong đó có sinh viên trường Cao Đẳng Quốc Tế Hà Nội chưa đạt được kết quả
cao, thể hiện ở kết quả học tập còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo tín chỉ.Tình
trạng này do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết và chủ yếu do năng lực tự học của sinh viên
cịn hạn chế, chưa có ý thức tự giác làm bài tập đầy đủ trước khi đến lớp. Một phần do đặc thù
của môn học mang tính trừu tượng, hàn lâm nên đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên chưa đạt ở mức độ cao. Vì vậy, việc nâng cao năng lực tự học của sinh
viên trong là địi hỏi cấp thiết đối với giáo dục nói chung và sinh viên trường Cao Đẳng Quốc Tế
Hà Nội nói riêng.

PHẦN 1: NỘI DUNG
1.1 Tự học và năng lực tự học
Có thể hiểu, Tự học là tự mình động não, suy nghĩ sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so


sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất,
động cơ, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó thành sở
hữu của mình và “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện
và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thơng
tin bên ngồi thành tri thức bên trong của mình”


Vậy “Năng lực tự học” là khả năng tư duy, vận dụng kiến, vận dụng kĩ năng và những phẩm
chất cần thiết trong quá trình độc lập chủ động, tự giác, sáng tạo trong học tập, khám phá và
nghiên cứu nhằm nắm bắt, trau dồi, nâng cao tri thức và kĩ năng.
1.2 Sự cần thiết nâng cao năng lực tự tự học cho sinh viên
Trong phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, việc nâng cao năng lực tự học cho sinh viên
có vai trị đặc biệt quan trọng. Đào tạo theo học chế tín chỉ có tính mềm dẻo, linh hoạt, tạo
khả năng cho việc thiết kế chương trình liên thơng giữa các cấp đào tạo đại học và giữa các
ngành đào tạo khác nhau. Trong đó, sinh viên được chủ động thiết kế kế hoạch học tập cho
mình, được quyền lựa chọn tiến độ học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh
riêng của mình. Cùng với việc trao quyền chủ động cho sinh viên, học chế tín chỉ cũng địi
hỏi sinh viên chủ động trong việc học, tránh tâm lí ỷ lại, thầy ghi - trị chép như học theo hình
thức niên chế. Do đó, tự học đóng vai trị quyết định đến kết quả học tập của mỗi sinh viên.
Tự học, tự nghiên cứu không chỉ giúp sinh viên hiểu sâu, mở rộng, củng cố và ghi nhớ tri
thức một cách vững chắc mà cịn phát huy được nội lực từ chính chủ thể người học. Q trình
học học phần cịn là quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện của sinh viên để từng bước hoàn
thiện bản thân, giúp sinh viên sống có mục đích, lí tưởng, ước mơ, hồi bão. Từ đó, sinh viên
sẽ thêm u thích mơn học, có ý thức tích cực học tập, nghiên cứu mơn học. Do đó, việc nâng
cao năng lực tự học cho sinh chống được xu hướng kinh viện, giáo điều mà còn rèn luyện
cho sinh viên thói quen độc lập trong suy nghĩ, giải quyết vấn đề, kích thích hoạt động trí tuệ,
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong việc tìm kiếm, lĩnh hội và tiếp thu tri
thức, từ đó hình thành được những kĩ năng cơ bản như đọc, nghiên cứu giáo trình, tài liệu; trả
lời câu hỏi; giải quyết vấn đề, làm việc nhóm... Đây là những kĩ năng rất cần thiết trong học
tập và trong nghề nghiệp sau này. Từ việc chủ động nắm vững tri thức, tự học giúp sinh viên

có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức trong học tập, trong cuộc sống của bản thân,
đánh giá được tính đúng đắn của các vấn đề trong đời sống thực tiễn xã hội và nghề nghiệp
của bản thân sau này. Do đó, làm thế nào để tích cực hóa, quản lí, đánh giá được hoạt động
tự học, tự nghiên cứu của sinh viên là hoạt động được đặt ra thường xuyên đối với giảng dạy
học phần cũng như đối với tất cả các bài học để sinh viên tự mình bổ sung, cập nhật kiến
thức, nắm bắt và xử lí thơng tin, tự phát triển, hồn thiện mình. Vì vậy, cần có những giải
pháp phù hợp ngay trong quá trình giảng dạy nhằm hình thành và nâng cao năng lực tự học
cho sinh viên là hết sức cần thiết.

1.3 Ý nghĩa của việc tự học
Tự học có ý nghĩa to lớn đối với bản thân sinh viên để hoàn thành nhiệm vụ học tập của họ
đối với chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học - đào tạo trong nhà trường. Tự học là sự
thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong quá trình nhận thức của sinh viên. Trong q trình
đó, người học hồn tồn chủ động và độc lập, tự lực tìm tịi, khám phá để lĩnh hội tri thức
dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giáo viên. Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của
mình, sinh viên cần tự rèn luyện phương pháp tự học, giúp nâng cao hiệu quả học tập. Chính
kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả
cụ thể và làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy
trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.

PHẦN 2: Đặc trưng của hoạt động tự học

2


1 Dạy cách học, nghiên cứu giáo trình
Trong quá trình học tập, mỗi sinh viên tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải
nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai và có tiềm năng vươn lên thích ứng với
những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực tiễn xã hội đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt
động học tập, sinh viên không chỉ phải có năng lực nhận thức thơng thường mà cần tiến hành

hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo
phát triển ở mức độ cao. Điều đó có nghĩa là, dưới vai trị chủ đạo của thầy cơ, sinh viên
khơng nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn mà còn đào sâu hoặc mở rộng kiến thức .
Mặt khác, trong quá trình học tập, sinh viên đã bắt đầu thực sự tham gia hoạt động tìm kiếm
chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các mức độ từ
thấp đến cao tuỳ theo yêu cầu của chương trình. Hoạt động nghiên cứu khoa học này giúp
sinh viên từng bước tập vận dụng những tri thức khoa học, phương pháp luận khoa học,
những phẩm chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết một cách khoa
học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp đặt ra.
2.Tự học và nghiên cứu khoa học
2.1 Tự học
Trong q trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc để chiếm
lĩnh kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng nhưng chính những lúng
túng đó lại là động lực thúc đẩy sinh viên tư duy để thoát khỏi “lúng túng”, nhờ vậy mà thành
thạo lên, và đã thành thạo thì hay đặt những dấu hỏi, phát hiện vấn đề và từ đó đi đến có đề
tài nghiên cứu
2.2 Nghiên cứu khoa học
Việc nghiên cứu khoa học dĩ nhiên tác động trở lại việc học và có phát triển tự học lên đến
nghiên cứu khoa học thì mới có thực tiễn để hiểu sâu mối quan hệ giữa tư duy độc lập và tư
duy sáng tạo.
2.3 Phương pháp tự học có tác dụng bồi dưỡng năng lực tự học, kỹ năng tự học làm cầu
nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên:
Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là loại hình hoạt động rất cơ bản do tính chất
đặc thù của quá trình học ở trường đại học, cao đẳng . Khả năng nghiên cứu khoa học của
sinh viên phải chứa đựng cả mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, tri thức về phương
pháp và đối tượng nghiên cứu và các yếu tố kỹ thuật khác của hoạt động nghiên cứu. Vì thế,
khả năng nghiên cứu khoa học của sinh viên là năng lực thực hiện có hiệu quả các hoạt động
nghiên cứu khoa học trên cơ sở lựa chọn, tiến hành hệ thống các thao tác trí tuệ và thực hành
nghiên cứu khoa học phù hợp với điều kiện và hồn cảnh nhất định nhằm đạt mục đích
nghiên cứu khoa học đề ra. Khi coi hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một loại

hình hoạt động học tập đặc trưng ở đại học, cao đẳng Hoạt động này có thể diễn ra theo các
giai đoạn sau: - Định hướng nghiên cứu; - Xây dựng kế hoạch nghiên cứu; - Thực hiện kế
hoạch nghiên cứu; - Kiểm tra, đánh giá kết quả nghiên cứu; - Báo cáo kết quả nghiên cứu.
Khả năng nghiên cứu khoa học có mối liên hệ chặt chẽ với kết quả nghiên cứu và xa hơn nữa,
đến kết quả học tập và khả năng tự học của sinh viên đại học. Do vậy, khả năng nghiên cứu
khoa học trở thành loại hình kỹ năng học tập rất cơ bản mà sinh viên cần chú trọng bồi

PHẦN 3 : Thực trạng vấn đề nghiên cứu
3


1.Nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học:
Nhiều sinh viên cảm thấy thời gian học tập sao quá nhàn hạ để họ có thể cho phép mình
được vui chơi thoải mái. Thật vậy, biết làm gi đây bởi vì thời gian lên lớp mỗi ngày chỉ có
mấy tiết. Còn tự học ư ? Biết học cái gi khi kiến thức của nhân loại là vô tận và con đường
tiếp cận nó là vơ cùng đa dạng, nhiều nẻo, nhiều đường. Bên cạnh đó tình trạng học “đối
phó” diễn ra phổ biến trong sinh viên. Hầu hết sinh viên chưa chủ động được thời gian, chưa
biết sắp xếp hợp lí thời gian cho tồn bộ chương trình cũng như kế hoạch học tập hàng tháng,
hàng tuần, hàng ngày của mình. Đa số sinh viên chưa biết và cũng chưa có ý thức chủ động
tìm kiếm kiến thức mới. Giảng viên dạy tới đâu, sinh viên học đến đó, giảng viên dặn điều gì
thì sinh viên học và làm điều ấy. Một số sinh viên học theo lối thực dụng: những phần nào
giảng viên cho cho thi, liên quan đến điểm số thì mới đầu tư học tập. Khả năng ứng dụng và
tiêu hoá kiến thức của nhiều sinh viên chưa sâu. Đối với sinh viên , kiến thức ở giảng đường
dường như tách rời thực tế. sinh viên chưa thấy được kiến thức sách vở là bắt nguồn từ cuộc
sống và mục đích cuối cùng của chúng là sẽ trở lại phục vụ cuộc sống. Đối với sinh viên
nhiều vấn đề khoa học trở nên trừu tượng, mơ hồ, chúng tồn tại chơi vơi, dường như khơng
có đất sống. Muốn tìm được mảnh đất sống thực sự cho chúng khơng gì hơn là phải đầu tư tự
nghiên cứu, tự học. Sinh viên cũng chưa thấy được mối quan hệ giữa các các học phần, các
đơn vị kiến thức. Kiến thức mình đang học có liên quan gì với kiến thức trước và sau nó. Do
vậy, sinh viên cũng chưa biết vận dụng cái đã biết để giải quyết những vần đề chưa biết và

cần biết. Từ những đặc điểm nêu trên dẫn đến một hậu quả khá nghiêm trọng là khả năng
nghiên cứu của đa số sinh viên còn yếu kém. Điều này, đồng thời, dẫn đến một hệ lụy sau
cùng là sau khi ra trường, khả năng phát hiện vấn đề, xử lí tình huống, giải quyết cơng việc
của hầu hết sinh viên là không cao. Qua quá trình khảo sát thực tiễn, đa số sinh viên đều hiểu
được vai trò quan trọng của tự học. Tuy nhiên, sức ỉ và tính thụ động của sinh viên cịn rất
lớn. Hoạt động tự học vẫn cịn mang tính hình thức, đối phó với các bài kiểm tra. Theo số liệu
khảo sát, hầu hết các sinh viên được hỏi cho rằng tính chủ động trong học tập của sinh viên
thấp. Có đến 75% ý kiến cho rằng sinh viên khơng có thói quen tự học, chuẩn bị bài trước khi
đến lớp. Một thực tế hiện nay là sinh viên “rất lười đọc sách”. Mặc dù sách tham khảo đã
được giảng viên hướng dẫn cụ thể ở từng nội dung bài học nhưng khi được hỏi về việc này,
số đông sinh viên đều lúng túng. 85% cho rằng họ “có đọc” nhưng chỉ một số cuốn sách
chuyên ngành khi phải trình bày, báo cáo hay làm bài kiểm tra. 15% còn lại cho rằng họ
khơng đọc tài liệu tham khảo, có những sinh viên năm cuối chưa từng một lần đến thư viện
tìm sách. Trong thời đại cơng nghệ thơng tin phát triển như hiện nay, nhiều sinh viên lựa chọn
kênh thông tin từ các trang web. Điều này là tốt nhưng vì quá lạm dụng nên đại đa số sinh
viên đã bỏ lỡ một kho tàng tri thức rất có giá trị từ sách tham khảo. Ngay cả khi tra cứu tài
liệu trên Internet, sinh viên cũng chưa biết cách thu thập và xử lý khối lượng thông tin đa
dạng đó như thế nào để thu được những kiến thức thật sự cần thiết và có hiệu quả. Như vậy,
một cách khái quát có thể thấy rằng nhiều sinh viên chưa nhận thức được đúng đắn về sự cần
thiết của hoạt động tự học. Sinh viên chưa tự giác, tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức cho
mình mà cịn thụ động, phụ thuộc nhiều vào những gì thầy dạy, khơng có nhu cầu mở rộng
hiểu biết, phát huy sáng tạo, đào sâu kiến thức. Một số ít sinh viên có ý thức tự học thì kỹ
năng tìm kiếm và xử lý thông tin phục vụ nhiệm vụ học tập cịn yếu. Phương pháp tự học
theo kiểu đối phó, theo phong trào, học để thi vẫn là hình thức tự học phổ biến hiện nay.
2.Những hạn chế của việc tự học
Qua phân tích thực trạng việc tự học của sinh viên cho thấy còn khá nhiều điều phải bàn để
cải thiện việc tự học của sinh viên. Những trở ngại chính sinh viên cần phải khắc phục trong
q trình học tập: + Nguyên nhân sâu xa và trước hết là sinh viên chưa xây dựng được hình
ảnh về mình với tư cách là một kĩ sư, hoặc thầy giáo với những kiến thức, kĩ năng cần thiết ở
4



tương lai. Để làm được điều này, có lẽ trước hết sinh viên cần xác định cho mình một mục
tiếu phấn đấu: mình phải là một kĩ sư, hay giảng viên có năng lực chun mơn ở một cơ
quan, trường học, hay một xí nghiệp nào đó trong tương lai. Muốn vậy ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường, mình phải học tập và trau dồi kiến thức, kĩ năng tốt nhất thông qua nhiều
con đường: lên lớp đầy đủ, tự học, tự nghiên cứu, học nhóm + Thực tế cho thấy, hầu hết sinh
viên chưa biết khái niệm “tự học”. Cụ thể, sinh viên chưa biết tự học cái gì, làm gì trong thời
gian tự học, cũng như chưa biết lợi ích của việc tự học là gì. sinh viên chưa nhận thức được
rằng kiến thức của môn học là vô hạn, mà thời gian trên lớp là hữu hạn. Dù có bao nhiêu thời
gian trên lớp cũng khơng đủ để giảng viên có thể khai thác hết kiến thức của môn học; do vậy
tự học là một phương pháp tối ưu để có thể đi tới chân trời khoa học. Tự học là một phương
pháp học tập còn khá mới đối với sinh viên , đặc biệt là các khoá mới. sinh viên chưa được
chuẩn bị một tâm thế, một phương pháp học tập mới. Quen với cách học truyền thống ở phổ
thông – giảng viên cung câp kiến thức, sinh viên tiếp nhận thụ động, một chiều – sinh viên
chưa biết mình phải học gì, làm gì để đạt được kiến thức, kĩ năng cần thiết . Nhiều sinh viên
chưa tìm được niềm đam mê, sự thích thú trong học tập, nghiên cứu. Học tập là một nhiệm
vụ, tuy nhiên nếu có cả niềm đam mê và sự hứng thú nữa thì hiệu quả mới cao và người học
mới có thể mong đạt đến đỉnh cao của khoa học. Niềm đam mê và sự thích thú sẽ là động lực
giúp sinh viên vượt qua mọi trở ngại và quyết tâm đi đến điểm cuối cùng. + Khó khăn tiếp
theo là thời gian. Ban ngày, hầu hết sinh viên dành thời gian lên lớp còn thời gian buổi tối hầu
như là dành cho việc học Anh văn hoặc Tin học. Học sinh, sinh viên còn yếu trong khả năng
tự học là bởi chúng khơng được khuyến khích tự học, không được dạy cách tự học. Không
được khuyến khích tự học vì chúng phải học trên lớp q nhiều (có những trường dạy ngun
ngày, rồi cịn học thêm ở trung tâm, học với giáo viên ở nhà). Không được khuyến khích tự
học vì làm tốn theo mẫu, làm văn theo mẫu nên tự học sẽ không được điểm cao. + Tính thụ
động của sinh viên, lười đọc sách, ôn bài ở nhà , chỉ đợi đến giờ lên lớp là vào học, không
đầu tư kiến thức chuyên môn mặc dù đã có trang bị giáo trình, bài giảng sẵn có trong tay. +
Chỉ học những gì giáo viên nêu ở lớp, nếu giáo viên tóm tắt vấn đề thì sinh viên mới nắm
được, đây là kiểu học ở bậc phổ thơng, mang tính từ chương. + Chưa nắm được phương pháp

tự học và cách học ở bậc đại học, nhất là bước chuẩn bị nội dung ở nhà cho lần lên lớp kế
tiếp. Thật ra lần lên lớp kế tiếp cách nhau 1 tuần , khơng thể nói là khơng có thời gian chuẩn
bị cho 1 mơn học. + Một trở ngại lớn nữa là vấn đề mưu sinh, sinh viên gặp phải điều kiện
kinh tế khó khăn, phải đi làm thêm, đôi khi không dự lớp và khơng có thời gian tự học, vì thế
chất lượng học tập kém và không theo nổi việc học. + Vấn đề ngoại ngữ là một trở ngại lớn
đối với việc sinh viên tự học. Khi đã bước sang năm thứ 2 và 3, tất yếu là sinh viên cần phải
đọc thêm nhiều tài liệu chuyên môn, đa phần là sách nước ngồi, tài liệu tiếng Việt khơng
nhiều, vì thế sinh viên khơng thể tích lũy kiến thức chun ngành theo kiểu tự học qua sách,
tài liệu chuyên môn ngoại ngữ. + Việc học nhóm gặp nhiều khó khăn do thời khóa biểu khác
nhau, khơng có phịng cho sinh viên tự học đặc biệt là học nhóm, làm việc nhóm đơi khi cịn
đùn đẩy cho nhau, chưa phát huy hết tính tự giác trong học tập.

PHẦN 4: Giải Pháp Tối Ưu
1. Đối với sinh viên:
*Sinh viên cần chủ động rèn luyện tính tự học: Tự học có thể hiểu là tự mình lao động trí óc
để chiếm lĩnh kiến thức. Bước đầu q trình tự học có thể sinh viên cịn có nhiều lúng túng
nhưng đó cũng chính là động lực giúp sinh viên tư duy để thốt khỏi những khó khăn, lúng
túng đó, nhờ vậy mà thành thạo lên. + Trong quá trình tự học của sinh viên, đọc sách được
5


coi là khâu quan trọng đầu tiên giúp sinh viên tiếp thu tri thức và phát triển phương pháp tự
học hiệu quả Ngồi đọc sách, sinh viên cũng nên có kỹ năng chọn lọc, sử dụng kiến thức cũ
để học kiến thức mới bằng cách: Khi học các kiến thức mới cần phải tái hiện những kiến thức
cũ có liên quan để làm sáng tỏ các kiến thức mới. Dùng kiến thức cũ chứng minh cho kiến
thức mới . +Cần nâng cao tính tự học, giải thích rõ mơi trường học tập ở bậc đại học khác xa
với môi trường học tập ở bậc phổ thông trung học. Rèn luyện phương pháp tự học phải trở
thành một mục tiêu học tập của sinh viên. + Sinh viên cần nắm vững kiến thức của hệ thống
phương pháp học tập tích cực: Trong q trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng
động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là

sinh viên phải có hệ thống kỹ năng +Về khối lượng kiến thức học tập ở bậc đại học, cao đẳng
nhiều hơn so với ở bậc học phổ thông (ở bậc phổ thơng tính ra chỉ bằng nửa học kỳ ở bậc đại
học cao đẳng). Chính vì thế sinh viên khơng tập luyện tính tự học thì khơng thể giải quyết
một khối lượng lớn trong học kỳ. + Về chất lượng kiến thức: ở bậc đại học không chỉ học sự
kiện hay học hiện tượng, không chỉ học biết, học hiểu và vận dụng mà cịn học phân tích, học
tổng hợp, học đánh giá, học tư duy, và nhất là học phương pháp học tập để học biết được
nhiều và có năng lực tự học suốt đời. Việc trang bị phương pháp học tập cho sinh viên khi
mới vào năm thứ nhất là rất quan trọng.
2. Vai trò của giảng viên trong việc rèn luyện tự học của sinh viên:
+Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho sinh viên, vai trò của người
thầy là rất quan trọng. Mỗi giảng viên cần giáo dục cho sinh viên xác định động cơ học tập
một cách đúng đắn. Giảng viên phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học, xem tự học như
là một tiêu chí hàng đầu trong quá trình đào tạo để hình thành phương pháp tự học, tạo nền
tảng cho năng lực tự học trong sinh viên. + Giáo viên nên tăng cường các hình thức dạy học
nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến của mình . Điều này sẽ buộc sinh viên phải
nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể
tham gia đóng góp hoặc tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình. Để định hướng cho sinh viên
vạch ra kế hoạch tự học cá nhân, giảng viên cần đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ học
phần (hoặc từng chương), cung cấp trước cho sinh viên nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và
làm như thế nào trong q trình học tập bộ mơn. + Đi đơi với việc xây dựng đổi mới chương
trình đào tạo, nâng cao chất lượng giáo trình là yêu cầu đổi mới cơ bản phương pháp dạy –
học. Định hướng cơ bản trong đổi mới phương pháp giảng dạy là tích cực chuyển từ lối
truyền đạt kiến thức một chiều từ phía giảng viên sang việc tăng cường tổ chức các hoạt động
học tập cho sinh viên, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực
hành, bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên. Vì vậy, mỗi giảng viên cần
nhận thức một cách đúng đắn tính tất yếu của việc đổi mới, từ đó chủ động suy nghĩ, tìm tịi,
vận dụng linh hoạt các phương pháp phù hợp theo các ngành nghề khác nhau nhằm giúp sinh
viên biết cách tự học, tự nghiên cứu, sáng tạo trong quá trình học tập. Để hòa nhịp với yêu
cầu đổi mới này, lực lượng giảng viên cần nắm vững phương pháp dạy học để : Dạy có nội
dung chọn lọc, dạy có phương pháp phù hợp, dạy phương pháp học môn học nhằm tạo cho

người học có tiềm năng tự phát triển học vấn.
3. Một số kỹ năng giúp việc tự học có hiệu quả:
3.1. Kế hoạch học tập Lập kế hoạch học tập là điều cần thiết, nó sẽ giúp bạn làm chủ được
thời gian. Mỗi người, tùy vào nhu cầu của mình, sẽ lập một kế hoạch học tập riêng, kế hoạch
đó có thể thay đổi khi cần, nhưng điều quan trọng nhất là phải tuân theo kế hoạch đề ra.
+ Học ở đâu: Thư viện, phòng đọc sách và phòng riêng là tốt nhất. Quan trọng là nơi đó
khơng làm phân tán sự tập trung của bạn.
+ Liên hệ việc học hiện tại với những mục tiêu lâu dài: Có sinh viên thích học chỉ là việc học
và cũng có sinh viên nghĩ việc học sẽ có ích cho những mục tiêu lâu dài. Do đó cần hiểu
6


những điều mình học (một bài) lồng ghép vào bối cảnh rộng hơn (một chương, một môn
học ) như thế nào.
+ Học tập một cách tích cực: Đừng học thụ động mà hãy biến việc học tập thành một quá
trình tích cực. Xử lý tất cả những điều đọc được, nghe được bằng ngơn ngữ từ chính mình để
có ý nghĩa hơn. Xác định cách thức học phù hợp với chính mình.
+ Tập kiên nhẫn: Học tập là một q trình địi hỏi sự đầu tư thời gian, khơng thể nóng vội
được và tiến bộ cũng phải từng bước.
+ Sử dụng nhiều phương pháp học: Để cần học thuộc bài chỉ cần đọc lại nhiều lần, tuy nhiên
có nhiều cách để lập lại: xem lại phần ghi chép, lập phiếu, làm bài tập, học nhóm Phương
pháp học tùy theo người học và cũng tùy theo mơn học. Qua tìm hiểu, chúng em biết tới
phương pháp học SQ3R. SQ3R là viết tắt của tiếng anh ( survey, question, read, recite,
review) Quan sát, Hỏi , Đọc, Trả bài và Ôn tập. . Quan sát tổng thể: là nhìn tổng thể về vấn đề
mà bạn sắp đọc trước khi đi vào chi tiết cũng giống như bạn xem bản đồ trước khi lên đường.
Quan sát các biểu đồ, bản đồ, hình vẽ và những hỗ trợ về hình ảnh khác. . Question, đặt câu
hỏi: Những vấn đề quan trọng mà bạn can học thường chính la câu trả lời cho những câu hỏi.
Câu hỏi nên tập chung vào nội dung học( cái gì, tại sao, bằng cách nào, người nào, khi nào và
ở đâu?). Trong quá trình đọc hay học, bạn nên tự đặt cho mình nhiều câu hỏi và sau đó tự trả
lời. Làm như vậy bạn sẽ tiếp thu tài liệu tốt hơn và nhớ các chi tiết dễ dàng hơn. . Read, Đọc:

Chú ý các chữ in nghiêng hay in đậm vì tác giả muốn nhấn mạnh những điều này. Khi đọc
không được bỏ qua các bảng, đồ thị và hình minh họa vì đơi khi chúng có thể diễn đạt một ý
nghĩa nào đó mà cịn rõ ràng hơn cả đoạn văn. Thường các ý chính được minh họa bằng
nhiều ví dụ. . Recite, trả bài: Cố gắng tự xây dựng lại nội dung chính của đoạn bạn vừa đọc
bằng ngơn từ và tư duy của riêng mình. Liên hệ những điều mình vừa đọc với những điều đã
biết. . Review, ôn tập: Trong lúc ôn tập nên xem lại những điều ghi chép để làm sáng tỏ
những điềm bị bỏ sót hay chưa hiểu.
3.2. Một số kỹ thuật học tập có hiệu quả:
*Chuẩn bị để có phương pháp tự học hiệu quả:
+Đọc lướt: Trước khi bắt tay vào làm việc gì, bạn cần đọc lướt qua hướng dẫn, tài liệu giảng
viên cung cấp cho bạn, tạp chí chuyên ngành .Đọc lướt như cách bạn thường làm trong nhà
sách trước lúc mua quyển sách, mượn tài liệu của trường. Bạn có thể lật nhanh từng trang,
hoặc mở ngẫu nhiên một số trang nào đó để định hình cho mình cách bố cục, trình bày, mục
lục, hình minh họa vị trí các phần tóm tắt, kết luận .
+ Nắm ý chính: Nắm được ý chính trong mỗi đoạn văn và hiểu nó theo cách riêng của mình
là điều cốt lõi của việc học có hiệu quả. Bạn nên tập thói quen tìm ra ý chính của các đoạn để
dần dần tóm lược được cả quyển sách.
+ Trích lược những chi tiết quan trọng: Thơng thường mỗi ý chính trong một bài đều có liên
quan với một chi tiết quan trọng. Nhận diện được càng nhiều chi tiết quan trọng thì càng tốt.
Xác định càng nhiều liên hệ giữa các chi tiết và các ý, giữa các ý với nhau thì học tập đạt hiệu
quả càng cao hơn.
+ Đánh dấu trong sách: Dùng bút dạ quang thay vì gạch dưới các đọan vì kinh nghiệm cho
thấy những đoạn được tơ mầu bút dạ quang dễ nhớ hơn. Tuy nhiên, không nên chỉ đọc rồi tơ
những từ quan trọng vì nó ít có hiệu quả.
+ Ấn định thời gian, số lượng: Việc cần làm trước tiên là bạn phải ngồi vào bạn học, sau đó
tự ấn định cho mình một khoảng thời gian cụ thể, xác định bằng con số. Ví dụ như ngồi vào
bàn học, bạn tự đặt cho mình mục tiêu: “đọc 50 trang sách tài liệu chuyên ngành trong vịng
20 phút” chẳng hạn. Ngồi ra việc xác định thời gian, số lượng ngay từ đầu sẽ giúp bạn tránh
được nỗi sợ hãi theo bản năng về những điều bạn chưa biết. Bạn sẽ cảm thấy nặng nề khi phải
đọc 1 cuốn sách mà khơng biết mình sẽ đọc bao nhiêu trang trong bao lâu, nhưng ngược lại


7


nếu bạn ấn định rõ số lượng, thời gian bạn cần đọc quyển sách bạn sẽ thấy nhẹ nhàng. Việc
ấn định thời gian, số lượng sẽ giúp bạn làm việc có hiệu quả, tăng năng suất hơn.
+ Năm phút ghi chú theo sơ đồ tư duy: Sau khi ấn định thời gian, số lượng thì hãy ghi ra giấy
những kiến thức mình đã học, đọc từ mơn học của mình. Bạn nên lưu ý là bạn ghi càng nhiều,
càng tốt, càng nhanh càng hiệu quả, và không được dành quá năm phút cho phần chuẩn bị
này nhé.
+ Nêu câu hỏi và xác định mục tiêu: Sau khi đã dành năm phút ghi chú theo sơ đồ tư duy,
bước tiếp theo bạn cần phải tự đặt câu hỏi, xác định mục tiêu cho chính mình. Đại loại như
mình cần phải đọc sách gì liên quan đến chuyên ngành của mình, và mục đích của việc đọc
sách này là gì, chúng có liên quan đến vấn đề mình đang gặp phải hay không. Tự đặt câu hỏi
và xác định mục tiêu của mình sẽ giúp bạn hạn chế được vấn đề lan mang trong học tập, tăng
sự tập trung cho học tập.
*Sau chuẩn bị sẽ là áp dụng, vậy áp dụng như thế nào trong học tập để có được một phương
pháp tự học hiệu quả:
+ Đọc tổng quát: Sẽ giúp bạn nắm được các phần minh họa trực quan của quyến sách.
+ Đọc trước các chủ điểm: Nghĩa là xem trước nội dung sách, đọc trước các chủ điểm cũng
giống như cách bạn tự vạch ra tuyến đi cho mình từ điểm A đến B nên đi theo đường dài, hay
đường tắt. Lưu ý trong quá trình đọc trước các chủ điểm bạn nên cố nhớ phẩn mở đầu, phần
tóm tắt đầu tiên nhé. Những phần này thường hàm chứa thông cốt lõi, nhờ đó mà bạn có cơ
hội nắm vững nội dung cốt lõi, mà khơng phí tồn bộ thời gian đọc.
+ Đọc chi tiết: Sau giai đoạn đọc tổng quát, đọc trước các chủ điểm nếu bạn cảm thấy thiếu
thơng tin thì hãy đọc chi tiết. Giai đoạn đọc chi tiết này được xem như một phẩn bổ sung cho
những thơng tin cịn bỏ ngỏ.
+ Đọc ơn lại: Sau khi đã hoàn chỉnh các giai đoạn đọc tổng quát, đọc chủ điểm, đọc chi tiết
nếu như vẫn cần thêm thơng tin để hồn thành mục tiêu, hay trả lời vấn đề cần giải quyết. Thì
ở giai đoạn này bạn chỉ cần đọc lại những phần chưa hoàn chỉnh và xem lại những phần mà

bạn đã đánh dấu ở trước đó. Đọc lại những gì ghi chép sau buổi học hay trước khi đi ngủ sẽ
giúp nhớ bài tốt hơn. Sau 9 tuần, những sinh viên xem lại bài trong ngày cịn nhớ 75% bài,
những sinh viên khơng làm điều đó khơng nhớ đến 50% sau 1 ngày và ít hơn 25% sau 9 tuần.
Có thể đọc một tài liệu nhiều lần, mỗi lần với một mục tiêu khác. Do đó, trước mỗi lần đọc,
bạn nên xác định mục tiêu của lần đọc đó là gì và đọc theo đúng mục tiêu đó.

3.3 Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu
Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong q trình dạy học, chú trọng rèn luyện
phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tăng cường tổ chức các hoạt động học tập của sinh viên.
Tăng cường lồng ghép các biện pháp kích thích tính tự học, tự nghiên cứu trong sinh viên, sử
dụng các phương pháp nâng cao tính tích cực học tập của sinh viên như thảo luận, vấn đáp,
nêu vấn đề. Đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự
nghiên cứu, làm cho sinh viên có sự hấp dẫn tự nhiên với vấn đề đặt ra, có mơi trường tự học,
tự nghiên cứu; giảng viên có điều kiện hướng dẫn, dẫn dắt, gợi mở vấn đề; sinh viên tự lực tự
học, tự nghiên cứu vấn đề đặt ra và giải quyết các tình huống đặt ra; kích thích tính độc lập
suy nghĩ, trao đổi, thảo luận, tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
3.4 Kiểm tra, đánh giá năng lực tự học của sinh viên
Để việc tự học đạt kết quả cao, khâu quan trọng trong quá trình đánh giá kết quả học tập của
sinh viên là hướng tới tiêu chí phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Nội
dung kiểm tra phải đảm bảo tính tồn diện về các mặt (kiến thức, kĩ năng, thái độ) thông qua
khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Do đó, cần đảm bảo các yêu cầu:
- Trong hoạt động kiểm tra, đánh giá phải thực hiện một cách thống nhất, theo quy định; bám
8


sát nội dung chương trình;
- Xây dựng hệ thống câu hỏi kiểm tra cho từng phần kiến thức cụ thể và phù hợp với đối
tượng sinh viên theo từng chuyên ngành đào tạo. Giảng viên tổ chức đánh giá thông qua các
hình thức:
+ Đánh giá qua quá trình học tập trên lớp, giảng viên có thể kiểm tra mức độ tiếp nhận và xử

lí thơng tin của người học, đưa ra những câu hỏi để sinh viên trả lời. Qua đó, giúp giảng viên
có thể đánh giá được thái độ học tập, tinh thần xây dựng bài học, tham gia phát biểu ý kiến
của sinh viên
+ Đánh giá qua làm việc nhóm của sinh viên: Sau mỗi chương, bài giảng viên có thể đưa ra
các câu hỏi, phân chia lớp thành nhiều nhóm khác nhau. Tùy theo nội dung và yêu cầu câu
hỏi, giảng viên giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm, sau đó tổ chức, hướng dẫn sinh viên trình bày,
báo cáo, thảo luận các kết quả học tập;
+ Đánh giá qua bài tập lớn (tiểu luận) của sinh viên, giảng viên có thể gợi ý một số đề tài để
sinh viên lựa chọn viết tiểu luận. Thông qua bài tiểu luận sẽ giúp sinh viên tiếp cận với
phương pháp lập luận, chứng minh, làm sáng tỏ và mở rộng vấn đề một cách có khoa học;
đồng thời rèn cho sinh viên kĩ năng tư duy logic, độc lập, sáng tạo.

9


Phần 5; Kết Luận
Trong quá trình học tập ở trường đại học của sinh viên thì tự học, tự nghiên cứu là rất quan
trọng và cái ranh giới học tập. Một số phương pháp, chiến lược và kỹ thuật học tập đã được
trình bày để giúp các bạn sinh viên nâng cao hiệu quả học tập bao gồm: kiểm soát thời gian
học bằng kế hoạch học tập, sử dụng phương pháp SQ3R để tiếp thu bài tốt hơn, có kỹ thuật
đọc nhanh và kỹ hơn, ghi chép nhanh và lưu trữ thông tin ghi chép Tuy nhiên, kỹ năng học
tập có hiệu quả chủ yếu tùy thuộc vào ý chí và quyết tâm của bản thân muốn tiến bộ và học
thật tốt. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học cần phải có sự quản lý sát
sao của mọi người liên quan đến hoạt động tự học của sinh viên, đặc biệt giảng viên phải đổi
mới phương thức tổ chức dạy học và đòi hỏi cao hơn tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của sinh
viên trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. Nếu bạn khơng chịu cố gắng và hy sinh
thì có hướng dẫn bao nhiêu cũng vơ ích. Bạn chính là người chịu trách nhiệm về việc đào tạo
của mình và học có hiệu quả có thể giúp bạn làm điều đó tốt hơn. Cuối cùng xin có một lời
nhắn nhủ với các bạn sinh viên là: hãy học một cách thông minh, đừng học một cách khổ sở.


10



×