Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

sang kien kinh nghiem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.02 KB, 24 trang )

I.PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài:
Chúng ta vẫn biết rằng đạo đức là một hình thái xã hội bao gồm những nguyên tắc và
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích
hạnh phúc của mình, sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ con người với con người,
con người với tự nhiên. Giáo dục đạo đức là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch
đến học sinh nhằm giúp nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh
có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ của cá nhân với xã hội. Trong
tất cả các mặt giáo dục thì giáo dục đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng vì Hồ Chủ
Tịch cũng đã nêu “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức, đức là đạo đức
cách mạng đó là cái gốc rất quan trọng, nếu khơng có đạo đức cách mạng thì có tài cũng
vơ dụng”. Như vậy vấn đề thứ nhất tôi đặt ra trong sáng kiến kinh nghiệm này là: người
giáo viên – đặc biệt là giáo viên dạy môn ngữ văn phải nhận thức rõ trong nhà trường
THCS giáo dục đạo đức - kĩ năng sống là mặt giáo dục phải được đặc biệt coi trọng vì
nếu cơng tác này được coi trọng thì chất lượng tồn diện sẽ được nâng lên vì đạo đức có
mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác, mà để thực hiện những yêu cầu về nội
dung giáo dục đạo đức đức - kĩ năng sống cho học sinh thì vai trị của tập thể sư phạm lại
giữ một vị trí quan trọng và có tính quyết định. Thế nhưng điều quan trọng là giáo dục như
thế nào bởi vì giáo dục đạo đức - kĩ năng sống không chỉ là việc truyền thụ khái niệm tri
thức đạo đức mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình cảm,
niềm tin, hành động thực tế của học sinh.
1.
Giáo dục đạo đức - kĩ năng sống nó là cả một q trình lâu dài phức tạp địi hỏi phải
có cơng phu kiên trì liên tục. Muốn làm được điều này người giáo viên dạy văn phải nắm
được đặc trưng của bộ mơn mình phụ trách. Ai cũng biết rằng mơn Ngữ văn có vị trí đặc
biệt ngồi việc giúp các em bước đầù có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ
trong nghệ thuật, năng lực sử dụng Tiếng Việt như một cơng cụ để tư duy và giao tiếp thì
việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho học sinh góp phần hình thành ở học sinh biết
thương yêu, quý trọng gia đình, bạn bè, có lịng u q hương đất nước, lịng nhân ái bao
dung, tinh thần tơn trọng lẽ phải, sự cơng bằng, lịng căm ghét cái xấu, cái ác. Giáo dục
đạo đức – kĩ năng sống cho học sinh không phải là một vấn đề mới trong mục tiêu,


phương pháp giáo dục nhưng nó cũng khơng bao giờ cũ đối với mỗi người giáo viên dạy
văn. Chính vì thế năm học 2016- 2017 trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi muốn đưa ra
một số thực nghiệm về vấn đề kết hợp giáo dục tình cảm đạo đức – kĩ năng sống cho học
sinh lớp 8A,B thông qua: - Giờ đọc hiểu văn bản - Giờ tập làm văn - Hoạt động ngoại
khóa văn ngữ văn 8 của trường PTDTBT- THCS Quảng Sơn.
2.
2. Mục đích nghiên cứu
3.

Điều 23- Luật giáo dục đã nêu rõ: “Mục tiêu của giáo dục phổ thơng là giúp học
sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm
hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
4.
Trường PTDTBT-THCS Quảng Sơn nơi tôi đang công tác là ngôi trường nằm trên
địa bàn xã vùng cao biên giới Quảng Sơn ở phía tây bắc huyện Hải Hà, có 5 dân tộc cùng
chung sống gồm người Dao, Kinh, Sán Chỉ, Hoa và Tày trong đó dân tộc Dao chiếm


93,66% dân số. Học sinh trong trường chủ yếu là con em đồng bào dân tộc thiểu số (chủ
yếu là dân tộc Dao).Người dân nơi đây có trình độ dân trí thấp, cuộc sống cịn rất khó
khăn vất vả nên con em cũng khơng có nhiều điều kiện học tập. Tuy nhiên trong những
năm gần đây nhà trường đã tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất – xây dựng được khu kí
túc xã cho học sinh ăn ở tại nhà trường . Khi các em đã ăn ở sinh hoạt tại trường thì ngồi
việc dạy cho các em các kiến thức văn hóa, chúng tơi cịn phải giáo dục đạo đức cho các
em, giúp các em có ý thức đạo đức tốt, trở thành con ngoan trò giỏi và đặc biệt do các em
xa gia đình nên chúng tơi cịn phải giáo dục cho các em các kĩ năng sống để các em thích
nghi, hịa nhập với cuộc sống nơi tập thể nhà trường, hình thành được các kĩ năng sống cơ
bản để các em tự tin hơn khi hòa nhập với cuộc sống cộng đồng.
Nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này là tôi muốn nắm được thực trạng của công
tác giáo dục đạo đức – giáo dục kĩ năng sống của học sinh trong nhà trường nói chung từ

đó đề xuất một số biện pháp phối hợp giáo dục đạo đức – giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 8AB của tơi nói riêng thơng qua việc giảng dạy bộ môn Ngữ Văn ở cấp THCS
một cách có hiệu quả giúp thế hệ trẻ các em trở thành những người cơng dân có ích trong
thế kỷ XXI, đáp ứng được mục tiêu của ngành giáo dục nói chung và bộ mơn Ngữ văn nói
riêng. Qua sáng kiến kinh nghiệm này là tơi cũng có một mong muốn sẽ cùng với các bạn
đồng nghiệp cùng nhau đưa ra những giải pháp thiết thực góp phần nhỏ bé của mình vào
việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
3. Thời gian địa điểm
Kinh nghiệm mà tôi nghiên cứu, áp dụng ở đây trong phạm vi hẹp là “Giáo dục đạo
đức – kĩ năng sống cho học sinh lớp 8AB trường PTDTBT-THCS Quảng Sơn, huyện
Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh thông qua môn ngữ văn 8 ” trong năm học 2016 - 2017. Đối
tượng áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này là những học sinh đại trà ở vùng miền núi, các
em chủ yếu là học sinh người dân tộc thiểu số ( dân tộc Dao) ở tất cả các khối lớp, đặc biệt
là lớp 8AB tôi đang trực tiếp giảng dạy, điều kiện kinh tế cịn gặp nhiều khó khăn, sách
vở tham khảo của các em cịn vơ cùng hạn chế. Tôi thực hiện áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm từ ngày tháng 8/2016 đến tháng 4 năm 2017.
4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn
Sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng cho tất cả học sinh các khối lớp đã và đang
được tôi áp dụng trực tiếp tại lớp đang giảng dạy là 8AB trường PTDTBT-THCS Quảng
Sơn năm học 2016 – 2017. Đây cũng là năm học thứ hai tôi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm này vào thực tế giảng dạy tại nhà trường. Sáng kiến này đã được tôi áp dụng trong
năm học 2015- 2016 tại lớp 7A và cũng đã thu được một số kết quả nhất định. Năm học
này với việc tiếp tục dạy học ngữ văn và được theo các em học sinh lên lớp 8, tôi tiếp tục
áp dụng kinh nghiệm này vào giảng dạy bộ mơn để có được kinh nghiệm và kết quả tốt
hơn năm học trước.
Sáng kiến kinh nghiệm này tơi muốn đóng góp thêm với các bạn đồng nghiệp dạy bộ
mơn Ngữ văn lớp 8 nói riêng và bộ mơn Ngữ văn lớp 6,8,9 cấp THCS nói chung về thực
trạng vấn đề giáo dục đạo đức học sinh trong tình trạng hiện nay. Một vấn đề mà tồn xã
hội đang quan tâm và đề cập đến rất nhiều những vấn đề về phạm trù đạo đức, vấn đề giáo
dục đạo đức – kĩ năng sống trong trường học và giáo dục tình cảm đạo đức – kĩ năng sống

cho học sinh thơng qua bộ mơn văn hóa.


Trường PTDTBT - THCS Quảng Sơn nằm trên địa bàn miền núi, là một xã vùng cao
đặc biệt khó khăn. Vì điều kiện cuộc sống nên thường thì gia đình phó mặc việc giáo dục
con em họ cho nhà trường. Trong mấy năm gần đây hành vi đạo đức của học sinh trong
trường đã có những biểu hiện khơng tốt. Hiện tượng học sinh khơng chào hỏi thầy cơ giáo,
nói chuyện với thầy cô giáo trống không... hoặc gây gổ đánh nhau, phá hoại cơ sở vật chất
của nhà trường có dấu hiệu gia tăng. Đi sâu vào chuyên đề giáo dục đạo đức học sinh
thông qua giảng dạy bộ mơn mình phụ trách là tơi muốn đưa ra một số biện pháp mà bản
thân tơi đã làm để đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc thực hiện mục tiêu của
ngành giáo dục là đào tạo các em trở thành con người toàn diện. Qua việc thực hiện đề tài
này tơi nhận thấy có nhiều kết quả khả quan, vấn đề đạo đức của học sinh trường
PTDTBT - THCS Quảng Sơn có những biến chuyển rõ rệt. Tơi thiết nghĩ nếu giáo viên
chúng ta ai cũng có nhận thức đúng đắn và kết hợp một cách có hiệu quả trong các mơn
học của mình và các hoạt động trong nhà trường thì hiệu quả giáo dục đạo đức – giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh của nhà trường chắc chắn sẽ tốt hơn rất nhiều.
Sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng cho tất cả học sinh cấp Trung học cơ sở từ
lớp 6 đến lớp 9. Giáo viên lớp đầu cấp (lớp 6) nên áp dụng nội dung sáng kiến kinh
nghiệm này vào hoạt động dạy học xuyên suốt cả năm học sẽ thu được những kết quả khả
quan trong việc giáo dục đạo đức – kĩ năng sống cho học sinh.
Bên cạnh đó sáng kiến kinh nghiệm này sẽ giúp giáo viên góp phần đổi mới phương
pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học, giúp giáo viên tạo khơng khí vui tươi, thi đua
trong học tập của học sinh. Từ đó tạo thói quen, ý thức rèn luyện đạo đức – KNS trong
học sinh và chính là cơ sở để học sinh học tốt môn Ngữ văn và các môn khác. Một phần
khơng thể thiếu là góp phần giúp học sinh trở thành con ngoan, trị giỏi, thành những
người cơng dân tốt cho đất nước mai sau.
II.PHẦN NỘI DUNG
1.CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1.Cơ sở lí luận

Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:
- Nghĩa hẹp: Theo Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng "Đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác
điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với
tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội ". - Nghĩa rộng:
Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người
với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình.
- Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là tồn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên.
Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách rất sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục "Tiên học lễ,
hậu học văn ", "Lễ " ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và phát triển tốt các tri thức và
kỹ năng. Ngày nay, với phương châm " Dạy người, dạy chữ, dạy nghề " cũng thể hiện rõ
vai trò của hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường. Bác Hồ đã dạy: “Dạy
cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc
quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc
sống xã hội sẽ khơng phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định...”. Ngồi ra, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đã từng nói " Có tài khơng có đức chỉ là người vơ dụng. Có đức mà


khơng có tài thì làm việc gì cũng khó ". Bởi vậy, giáo dục đạo đức học sinh trong trường
học có vai trị hết sức quan trọng. Nó góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện các em, để
các em trở thành người có nhân cách, vừa có đức vừa có tài đáp ứng được u cầu của
cơng cuộc cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước và đó cũng chính
là nhiệm vụ hàng đầu của thanh niên, học sinh trong giai đoạn hiện nay.
“Kỹ năng sống” (được nhắc đến như một thuật ngữ) là cụm từ hay “xuất hiện” những
năm gần đây trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, cộng đồng. Kỹ năng
sống là gì? Đó “là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thơng qua giảng dạy
hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong
cuộc sống hàng ngày của con người” (Bách khoa toàn thư mở Wkipedia). Theo Tổ chức y
tế Thế giới WHO định nghĩa, kỹ năng sống là “khả năng thích nghi và hành vi tích cực

cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống
hàng ngày”. Theo các định nghĩa trên và với mục tiêu giáo dục là nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người…thì các
nhà trường phổ thơng hồn tồn có thể và cần thiết, thậm chí cấp bách để đưa giáo dục kỹ
năng sống vào các mơn học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục tồn diện một cách hợp lý,
nhẹ nhàng và hài hòa hơn. Tuy vậy, vấn đề trên không phải lúc nào cũng được chú trọng
thường xuyên, kỹ lưỡng và hiệu quả thiết thực, rõ nét. Nói cách khác, nhà trường phần lớn
chỉ thiên về kỹ năng học tập và giáo dục tư tưởng đạo đức, đơn thuần là “dạy chữ”, “dạy
văn hóa” chứ chưa đi sâu vào “dạy kỹ năng sống” theo đúng nghĩa của nó dù là qua các
mơn học được lồng ghép.
Như đã trình bày từ các định nghĩa trên, KNS là các khả năng để có hành vi thích ứng
và tích cực; giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước nhu cầu và thách thức của cuộc
sống hằng ngày. Đó là năng lực ứng xử tích cực của mỗi người đối với tự nhiên, xã hội và
chính mình; là khả năng tâm lý xã hội của mỗi cá nhân trong hành vi tích cực để xử lý
hiệu quả những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống. Nói cách khác KNS là khả năng thực
hiện một hành động hay hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức,
kinh nghiệm đã có để hành động phối hợp với mục đích và điều kiện thực tế. Cùng với ý
nghĩa đó, có và rèn luyện kỹ KNS tức là đã có một “vốn liếng” (theo một nghĩa nào đó)
trên bước đường học tập và cơng việc của đời sống, trước mắt và lâu dài.
Điều đó càng ích lợi và thiết thực hơn đối với lứa tuổi học sinh khi các em cịn q ít
ỏi kinh nghiệm sống; đó cũng là mục tiêu giáo dục tồn diện, phù hợp mà theo quan niệm
củaUNESCO: học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để chung sống. KNS giúp học
sinh thích ứng được với cuộc sống đầy những biến động khôn lường, những tác động của
tự nhiên và xã hội, nhất là xã hội hiện đại, phát triển. Trên cơ sở đó, có thể nói KNS thúc
đẩy những hoạt động mang tính xã hội, phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố tiêu
cực, xây dựng môi trường trường học thân thiện, học sinh tích cực. Điều đó cịn góp phần
hiệu quả cho việc đổi mới phương pháp học tập của các em hiện nay.
1.2.Cơ sở thực tiễn
Đặc điểm chung của đồng bào dân tộc xã Quảng Sơn

Quảng Sơn là một xã vùng cao biên giới ở phía tây bắc huyện Hải Hà. Phía bắc giáp
xã Quảng Đức huyện Hải Hà và Đồng Văn huyện Bình Liêu. Phía Nam giáp xã Đường
Hoa, xã Quảng Long huyện Hải Hà, phía đơng giáp xã Quảng Thịnh – Hải Hà. Phía Tây


giáp xã Quảng Lâm huyện Đầm Hà và xã Tình Húc huyện Bình Liêu. Tổng diện tích của
xã là 16.137ha. Xã có 12 thơn bản, 862 hộ dân với 4.292 nhân khẩu, có 5 dân tộc cùng
chung sống là người Kinh, Dao, Sán Chỉ, Hoa và Tày trong đó dân tộc Dao chiếm 93,66%
dân số.
Họ thường cư trú quanh các dãy núi và tập hợp theo thôn, bản. Người Dao ở Quảng Sơn là
cư dân nông nghiệp, cư trú chủ yếu trong vùng nông thôn và miền núi. Kinh tế chính của
họ là sản xuất nơng nghiệp, ngồi sản xuất nơng nghiệp họ cịn chăn ni gia súc, gia cầm.
Nhìn chung, những gia đình sống ở nơng thơn đa số kinh tế khó khăn chủ yếu làm ruộng,
rẫy và có trình độ học vấn thấp, chính vì điều đó họ rất ít quan tâm đến con em mình, nhất
là việc học. Đặc biệt khi vào mùa cưới hỏi, lễ hội, học sinh thường trốn học đi chơi, đôi
lúc uống rượu bia gây gỗ đánh nhau vi phạm nội quy nhà trường.
Đặc điểm, tình hình của trường PTDTBT-THCS Quảng Sơn.
Trường PTDTBT-THCS Quảng Sơn nằm trên thôn Quảng Mới của xã Quảng Sơn.
Trước đây là trường THCS Quảng Sơn. Do điều kiện đi lại của học sinh nơi đây gặp rất
nhiều khó khăn do các em ở các thôn bản cách trường khá xa như Lý Van, Tài Chi... nên
nhà trường đã có sự tham mưu với lãnh đạo cấp trên và đến năm 2011 trường PTDTBTTHCS Quảng Sơn được thành lập. Cơ sở vật chất của trường gồm: 06 phòng học, 1 thư
viện, 1 phòng thiết bị, 1 phòng đội, phòng công vụ giáo viên, 1 khu nhà 3 tầng gồm có
phịng ăn và khu ký túc xá cho học sinh bán trú. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà
trường có 30 người. Các thầy, cơ giáo ở đây rất nhiệt tình, hết lịng thương u học sinh,
có chun môn, nghiệp vụ vững vàng. Năm học 2015 – 2016: Trường có 09 lớp, với tổng
số học sinh là 294 em. Trong đó học sinh người Dao chiếm 95%, học sinh người Kinh
chiếm 5%. Đa số học sinh ở đây có hạnh kiểm tốt, chăm ngoan, có động cơ, thái độ học
tập đúng đắn, có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập và rèn luyện.
Một trong những thách thức của nhà trường là do các em học sinh bán trú tại trường
nên việc quản lý về vấn đề nội trú cũng như học tập của các em khá nặng nề với BGH

cũng như các thầy cô giáo. Không chỉ dạy tốt mà các đồng chí giáo viên của nhà trường
cịn phải tích cực giáo dục đạo đức – kĩ năng sống cho học sinh vì các em là người dân tộc
thiểu số hạn chế nhiều về nhận thức. Vì vậy việc giáo dục đạo đức học sinh thơng qua các
môn học trong nhà trường là hết sức cần thiết và cấp bách. Người giáo viên lên lớp ngoài
nhiệm vụ là hướng dẫn các em tiếp nhận kiến thức văn hóa mà cịn phải hình thành cho
các em những khái niệm về nhân cách đạo đức. Vì xưa nay trong việc đào tạo con người,
văn chương vẫn được sử dụng như một cơng cụ đắc hiệu. Khơng ai có thể phủ nhận tầm
quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội, đúng như vai
trị xã hội- nhân văn của nó. Nếu nói người giáo viên là những kỹ sư tâm hồn thì điều đó
đúng nhất đối với các thầy cơ giáo dạy văn. Vì văn học chính là bộ mơn dễ gây xúc động
vui buồn, tác động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người. Hơn nữa việc bồi đắp
tâm hồn dân tộc cho thế hệ trẻ lại càng cần thiết trong xu thế hội nhập thế giới hiện nay để
họ khơng tự đánh mất mình mà phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của dân tộc trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy vậy trên thực tế giảng dạy, nhiều giáo viên còn coi nhẹ điều này mà họ cho rằng
dạy đạo đức trong nhà trường là việc của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên giảng dạy bộ
môn giáo dục công dân. Trong mục tiêu bài dạy có mục giáo dục tình cảm, thái độ cho học
sinh thế nhưng khi lên lớp giáo viên lại chỉ lo làm sao truyền thụ được hết được đầy đủ


kiến thức sách giáo khoa là tốt lắm rồi, mà khơng chú ý đến việc giáo dục tình cảm thái độ
cho học sinh. Nói về sự xuống cấp của đạo đức học sinh có nhiều ngun nhân, gia đình
thì chỉ quan tâm đến việc con học được mấy điểm chứ đâu có quan tâm đến việc con chơi
thế nào? chơi với ai? cịn nhà trường thì chú trọng nhiều đến dạy kiến thức hơn là dạy đạo
đức. Chính vì vậy mới dẫn đến tình trạng học sinh thiếu tinh thần ý thức trong học tập,
lười học, các giờ học nói tự do, nói leo với các thầy cơ giáo, về nhà nói dối cha mẹ. Kỹ
năng ứng xử trong giao tiếp hạn chế, tình trạng học sinh nói trống khơng với thầy cơ, với
bố mẹ khơng phải là ít. Trong cuộc sống thì tỏ ra ích kỷ, khơng biết quan tâm chia sẻ với
những người xung quanh, ham chơi đua địi... Như vậy để nâng cao chất lượng giáo dục
tồn diện thì người giáo viên phải có những nhận thức đúng đắn và đưa vấn đề giáo dục

đạo đức vào trong giảng dạy của mình. Đó là nội dung mà tơi muốn đặt ra trong bài viết
này.
Ngồi giáo dục đạo đức cho học sinh thì giáo dục KNS cũng vơ cùng quan trọng.
KNS cần cho mọi người, mọi lứa tuổi, ngành nghề khác nhau trong đời sống xã hội. Tuy
nhiên hơn ai hết, điều đó đặc biệt cần thiết đối với lứa tuổi học sinh (đặc biệt là Tiểu học
và THCS); bởi các em còn là lứa tuổi “ăn chưa no lo chưa tới”, khả năng và điều kiện
sống gần như hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ, người lớn và gia đình. Thậm chí có khi cha
mẹ, người lớn vẫn không theo kịp những biến động xã hội ngày càng dồn dập và diễn biến
phức tạp, khó lường. Thêm nữa, với sự bùng nổ thông tin, các em tiếp cận với đủ thứ loại
tác động tốt lẫn xấu; có khi các em phải rời bỏ gia đình để bươn chải kiếm sống, phải làm
cả trách nhiệm của người lớn. Lúc đó có nhiều việc các em phải một mình quyết định nên
không thể biết được thế nào là điều hay lẽ phải…Lúc đó, các em sẽ cần đến KNS nhiều
hơn để có thể có khả năng hành động đúng theo nhận thức. Chính lẽ đó nhà trường sẽ là
nơi dẫn dắt, định hướng, tạo điều kiện giúp đỡ các em “tham gia cuộc sống” một cách tích
cực để giải quyết những nhu cầu và thách thức của đời sống xã hội, nhất là xã hội hiện đại,
phát triển. Vấn đề giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh khơng phải là điều hồn tồn
mới lạ. Song, có lẽ do “sức ép” thực tế quá lớn của chương trình, điểm số, thi cử, thành
tích, lối học “hàn lâm”…,việc giáo dục KNS không phải không bị xao lãng, hời hợt ở từng
lúc, từng nơi. Điều đó làm cho các em vốn khơng có KNS lại càng hạn chế, bất lợi hơn và
thuật ngữ KNS đôi khi trở thành…xa lạ với các em. Điều đó cho thấy cách dạy và học
theo kiểu cũ (giảng sng, sáo mịn, máy móc, áp đặt, học vẹt) sẽ làm hạn chế rất nhiều
đối với việc giáo dục và rèn luyện KNS, như một rào cản khiến các em càng trở nên thụ
động. Với ý nghĩa và quan niệm đó, qua thực tế giảng dạy cũng như việc học tập của học
sinh, tôi mong muốn từng bước đưa việc giáo dục KNS (bằng cách lồng ghép) vào bộ môn
ngữ văn (THCS) theo yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhiều năm qua. Như
đã nói, dù đó khơng phải là điều hồn tồn mới lạ, nhưng vấn đề là tiềm năng để thực
hiện, nhằm khắc phục những hạn chế đã nêu, phần nào cải thiện được tình hình mà tơi
cảm thấy chưa hài lịng với bản thân trong q trình dạy học bộ mơn ngữ văn, nhất là việc
giáo dục, rèn luyện KNS cho các em như thực tiễn đã nêu. Cũng nói thêm, với đặc trưng
khá “nhạy cảm”, mơn ngữ văn có phần thuận lợi hơn trong việc giáo dục, rèn KNS cho

học sinh so với các môn học khác. Bởi bản thân môn ngữ văn đã chứa đựng trong đó yếu
tố có thể bao hàm KNS. Thậm chí, việc tưởng như đơn giản, chỉ một câu chào hỏi thân
thiện, chỉ một lời “cảm ơn, xin lỗi”, một cử chỉ, hành động thích hợp trong tình huống nào
đó…đều chứa đựng nội dung ít nhiều từ KNS. Nói cách khác, mơn ngữ văn dạy cho các


em biết nói “khơng” với sự “vơ cảm”. Đó là tính nhân văn, “dạy người” mà bản thân đặc
trưng mơn ngữ văn có được.
2.CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1.Thực trạng
* Khảo sát – thống kê
Để biết được tình hình rèn luyện giáo dục đạo đức và học tập của học sinh, tôi đã tiến
hành xem lại kết quả xếp loại về đạo đức và học lực của các em năm học trước cụ thể như
sau:
Về học lực:
Lớp Sĩ số Loại giỏi
Loại khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8A 35
0
11

31,4
24
68,6
0
8B
31
2
6,5
8
25,8
20
64,5
1
2,9
Về hạnh kiểm:
Lớp Sĩ số Loại tốt
Loại khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8A 35
27
77,1

7
20
1
2,8
8B
31
16
51,6
14
45,2
1
2,9
* Đánh giá, phân tích
Thực tế mấy năm trở lại đây tình trạng xuống cấp trong đạo đức, lối sống của một bộ
phận học sinh (lớp người đang giữ vai trò là chủ nhân tương lai của thế kỷ XXI) lại đang
diễn ra
ngày càng nghiêm trọng và chưa có những dấu hiệu về một sự thay đổi theo
hướng tích cực. Vấn đề này đã được cảnh báo từ lâu và gần đây lại được dư luận quan tâm
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Trong văn kiện hội nghị lần thứ IX Ban
chấp hành TW khóa X cũng đã đánh giá một trong những mặt hạn chế yếu kém trong lĩnh
vực giáo dục như sau: “Trong sự nghiệp giáo dục toàn diện dạy làm người và dạy nghề là
yếu kém nhất, giáo dục về lý tưởng sống, phẩm chất đạo đức yếu. Học sinh thiếu hiểu biết
về truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc của Đảng về quyền lợi nghĩa vụ công dân, chất
lượng giáo dục cịn bng lỏng, nhất là giáo dục đạo đức lối sống của học sinh, sinh viên
có nhiều biểu hiện rất đáng lo ngại”.
Qua đó ta thấy rằng vấn đề xuống cấp trong đạo đức của học sinh đã đến lúc báo động.
Nói như tiến sĩ tâm lý học Vũ Kim Thanh: “Nếu khơng có sự quan tâm đúng mức chúng
ta sẽ mất cả một thế hệ”. Như vậy việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện
nay là một vấn đề “nóng” khơng chỉ của ngành giáo dục mà cịn là của tồn xã hội.
Đất nướcViệt Nam của chúng ta đang bước vào thời kì mới - thế kỉ của cơng nghiệp

hố, hiện đại hoá - và trong thế kỉ này con người được đặt ở trung tâm chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, trong đó lớp thiếu niên nhi đồng hơm nay sẽ là những công dân,
những người chủ tương lai của đất nước. Do đó giáo dục và kĩ năng sống cho học sinh
đặc biệt là học sinh ở lứa tuổi THCS ngày càng trở nên quan trọng.
Bản thân tôi là một giáo viên đang trực tiếp làm công việc “Trồng người” tôi không
thể thờ ơ trước một vấn đề mang tính xã hội như vậy. Chính vì thế năm học 2016 - 2017
này tôi tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu đề tài:“Giáo dục đạo đức – kĩ năng sống cho học
sinh lớp 8AB trường PTDTBT – THCS Quảng Sơn thông qua môn ngữ văn 8”.


2.2 Các giải pháp
2.2a. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức.
Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, đời sống tinh thần con người cũng dần được
nâng cao. Các giá trị văn hóa văn học càng được trân trọng. Song, nhiều người cũng đang
dần lãng qn vai trị đích thực của văn học trong đời sống, đặc biệt là học sinh. Nếu như
yêu cầu kiến thức của các môn tự nhiên tốn, lý, hố ngày càng cao thì câu hỏi của bao
học sinh “Học văn để làm gì trong xã hội hiện đại?” được đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết.
Đây thật sự là một vấn đề cần được suy nghĩ và bàn bạc thấu đáo.
5.
Muốn giúp các em có lịng u thích bộ mơn văn thì điều đầu tiên người giáo viên
dạy văn phải giúp các em hiểu văn học là gì? Học văn là để làm gì? Để làm được điều này
thì ngay trong buổi học đầu tiên tôi không chú tâm ngay vào việc dạy ngay kiến thức của
bài học hơm đó mà tơi dành thời gian khởi động : cơ trị tìm hiểu về nhau qua khâu giới
thiệu tên, tuổi, sở thích...( vì đây là lớp học lần đầu tiên cơ và trị gặp gỡ).
6.
Tiếp theo đó tơi sẽ phát cho các em một phiếu thu thập thông tin dựa theo bảng hỏi
KWLH như sau:
K
W
L

H
Em hiểu văn học là Em có mong muốn
gì? Học văn để làm và đề xuất gì khi
gì?
học mơn ngữ văn
lớp 8?

Em đã học thêm
được những điều gì
qua mơn ngữ văn
lớp 7?

Khi học văn em
thấy những nội
dung kiến thức nào
có thể vận dụng vào
trong cuộc sống?

Với phiếu hỏi KWLH tôi sẽ nắm được những mong muốn, những trăn trở của các em, từ
đó mà có định hướng rõ nét hơn trong việc mình sẽ dạy cho các em những gì? Dạy như
thế nào để các em thêm yêu văn học, yêu thích bộ môn ngữ văn mà cô giáo đang giảng
dạy và giáo dục các em những điều gì thơng qua mơn văn. Nếu ngay từ đầu không nâng
cao được nhận thức về tầm quan trọng của mơn văn thì sẽ khơng giúp các em u mơn học
này được. Tơi có thể đưa ra rất nhiều lí do để giúp các em nâng cao nhận thức về môn ngữ
văn như: Đây là một môn học rất quan trọng không thể thiếu trong các nhà trường, có hệ
số điểm nhiều, cao, có vai trò quyết định trong việc xếp loại học lực của mỗi học sinh.
Đây cũng là môn học bắt buộc trong rất nhiều kì thi như thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp
THCS, THPT, trong các kỳ thi cao đẳng và đại học chun nghiệp... Nhưng trên tất cả
điều đó tơi phải giúp các em hiểu được đúng giá trị đích thực của môn văn và khi học văn.
Trước hết ta hiểu, học văn bao gồm việc tìm hiểu về nhiều lĩnh vực khác nhau, song

về cơ bản vẫn là học về ngơn ngữ, tiếng nói, văn chương của Tiếng Việt. Thơng qua đó, ta
học cách để nói, viết, để xây dựng ngôn ngữ diễn đạt riêng cho bản thân sao cho phù hợp
với cấu trúc ngữ pháp cũng như văn hố Tiếng Việt. Nhìn chung, tất cả đều nhằm đáp ứng
nhu cầu giao tiếp hằng ngày của chúng ta. Song, học văn đâu chỉ học những con chữ, mà
qua đó, ta cịn được học về văn hố, tình cảm, tư duy nghệ thuật của nhân loại thông qua
những tác phẩm văn chương đặc sắc. Gần gũi hơn với đời sống, học văn là cách học diễn
đạt trôi chảy ý nghĩ của bản thân, tạo nên những câu nói đẹp, những bài luận sắc sảo.
Ngồi ra, văn học cịn là lăng kính phản chiếu một cách sinh động hiện thực của cuộc
sống. Thông qua việc học văn ta nhận thức được nhiều điều bổ ích về con người trong quá
khứ cũng như hiện tại. Đâu chỉ có vậy, học văn cịn là để đi tìm về với nguồn cội của dân


tộc, đến với lịch sử hào hùng của cha anh. Học “Thiên đô chiếu”, “Nước Đại Việt ta” để
thêm yêu quý bờ cõi dân tộc, khẳng định ý chí tự tôn dân tộc, học “Hịch tướng sĩ” để
căm thù bọn giặc hung tàn, bồi đắp cho bản thân niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương,
đất nước con người, hay học “Tức nước vỡ bờ”,“Lão Hạc”,“Trong lòng mẹ” để khâm
phục, để hiểu thêm về những con người Việt Nam chân chất, hiền lành dù sống trong tận
cùng của khổ đau. Tất cả đều giúp ta tạo nên sự cân đối trong việc phát triển trí tuệ, tài
năng cũng như hình thành nhân cách con người. Vậy chẳng phải học văn trong xã hội hiện
đại này là cần thiết lắm hay sao!
Việc học văn quả thật rất quan trọng, song văn học cũng như viên ngọc quý tiềm tàng
mà không phải ai cũng nhìn thấy và biết trân trọng. Đâu đó vẫn cịn nhiều bạn tỏ ra lơ là,
khơng quan tạm đến việc học văn. Bạn say mê học toán? Bạn có mơ ước trở thành một
nhà khoa học tài giỏi? Đó đều là những mơ ước chân chính và đáng trân trọng, nhất là
trong xã hội “tên lửa” ngày nay. Song chỉ học tốn mà khơng chú ý đến việc học văn thì
bạn sẽ thành người khập khiễng trong sự hiểu biết và cả tâm hồn nữa! Học toán giỏi mà lại
học tốt văn, cũng như thơng minh, trí tuệ mà cịn ăn nói lưu lốt, tâm hồn thánh thiện thì
bạn sẽ dễ thành đạt hơn. Ai dám bảo chỉ cần học tốn, lý, hố,… giỏi thì có thể trở nên nổi
tiếng và được kính trọng. Điển hình là thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký hay giáo sư Trần Văn
Khê, nhờ vào tài năng văn chương xuất sắc cũng như khả năng ăn nói thuyết phục, học đã

chạm tay đến thành công và được vô vàn người nể phục. Nếu cuộc sống của bạn chỉ có
những con số khơ khan thì chẳng phải nó sẽ tẻnhạt và tâm hồn sẽ “khơ héo” đến nhường
nào. Vì vậy, ngay từ bây giờ, hãy ra sức học tập tồn diện cả tốn lẫn văn, những mơn tự
nhiên lẫn xã hội, từ đó tạo cho mình một nền tảng kiến thức tồn diện và bền vững, cũng
như xây dựng cho mình một nhân sinh quan tốt đẹp, có vậy khi đi sâu vào một ngành nào
cũng dễ dàng nắm bắt. Hiểu được điều đó, bạn sẽ cảm thấy có hứng thú học tập văn tốt
hơn và dần u thích nó.
Tóm lại, văn là một mơn học khơng thế thiếu trong nhà trường. Để có thể dễ dàng
thành công trong xã hội, nhất định phải học văn thật nghiêm túc, đó sẽ là nền tảng vững
chắc cho mỗi người trong tương lai.
2.2b. Luyện kỹ năng thực hành
Như đã trình bày, với đặc trưng của một môn học khá nhạy cảm (khoa học xã hội và
nhân văn, mang tính thẩm mỹ cao…), ngồi kiến thức cơ bản, mơn ngữ văn có điều kiện,
“thế mạnh” riêng trong việc bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mỹ và
định hướng “thị hiếu lành mạnh, trong sáng” trong tâm hồn và cảm xúc các em để từ đó
dần hồn thiện nhân cách. Tóm lại, với “khả năng đặc biệt” đó, người dạy có thể có điều
kiện thuận lợi hơn trong việc giáo dục, rèn luyện KNS cho học sinh như nội dung, mục
đích đề tài đã nói trên. Đó là việc làm mà bước đầu tơi đúc kết được (và tiếp tục nghiên
cứu, đầu tư, rút kinh nghiệm…) cho những năm học tiếp theo với mong muốn giáo dục và
rèn luyện KNS cho học sinh qua môn ngữ văn THCS. Như đã biết, KNS là một chuỗi các
hoạt động rộng lớn bao gồm nhiều hoạt động khác nhau và trong các lĩnh vực cũng khác
nhau (theo các lứa tuổi, nghề nghiệp,môi trường sống và làm việc...) Ở phạm vi đề tài này,
tôi chỉ đề cập, nhấn mạnh đến một vài biện pháp trong việc giáo dục và rèn luyện KNS
cho học sinh lớp 8AB thông qua: - Giờ đọc hiểu văn bản - Giờ tập làm văn - Hoạt động
ngoại khóa văn ngữ văn 8 của trường PTDTBT- THCS Quảng Sơn, từ đó các em có thể


vận dụng thích ứng cho nhiều kỹ năng khác liên quan.
+ Kỹ năng tự nhận thức:
Hoạt động nhận thức là hoạt động phản ánh sự vật, hiện tượng trong thế giới khách

quan. Có thể nói, nhờ có hoạt động nhận thức mà con người làm chủ được tự nhiên, làm
chủ được xã hội và làm chủ được chính bản thân mình. Đây là hoạt động tâm lý xuất
hiện đầu tiên trong đời sống tâm lý của con người và nó là cơ sở, nền tảng để hình thành
các hoạt động tâm lý khác như: tình cảm, ý chí, nhân cách...
Việc nhận thức của con người về thế giới khách quan diễn ra từ mức độ thấp đến
mức độ cao, từ đơn giản đến phức tạp. Mức độ thấp là nhận thức cảm tính, bao gồm cảm
giác và tri giác, trong đó con người mới chỉ phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những
cái đang tác động trực tiếp đến các cơ quan cảm giác tương ứng của con người. Mức độ
cao hơn là nhận thức lý tính, bao gồm tư duy và tưởng tượng, trong đó con người phản
ánh được các thuộc tính bản chất bên trong, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật
của các sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan. Nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau.
Chúng là cơ sở cho mọi hoạt động tâm lý của con người. Dạy học môn ngữ văn theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh người giáo viên cần chú ý đến giáo dục lĩ năng tự
nhận thức cho các em. Vì thế trong giờ hiểu văn bản bước đầu tiên tôi muốn tạo hứng thú
cho giờ học văn bằng cách dẫn dắt vào bài một cách hấp dẫn. Vào bài mới là tạo tâm thế
ban đầu, tạo khơng khí cho một giờ học văn, học sinh có cảm giác tị mị muốn khám phá
trước khi đến với một tác phẩm văn học. Việc làm này có thể có giáo viên cịn coi nhẹ,
vào giờ văn sau khâu kiểm tra bài cũ, giáo viên bị ức chế do học sinh không học bài,
không soạn bài rồi thầy cơ qt mắng học sinh. Sau đó vào bài mới bằng một nhan đề trên
bảng, như vậy thì làm sao tâm hồn các em có thể rung động với cái hay, cái đẹp của văn
chương. Cho nên khâu kiểm tra bài cũ trong môn văn cũng nên nhẹ nhàng, thoải mái
không nên lạm dụng, ôm đồm bắt học sinh phải trả lời những câu hỏi quá khó hoặc quá
vụn vặt. Lời giới thiệu bài nhẹ nhàng, hấp dẫn của giáo viên ngay từ giây phút đầu tiên đã
đưa các em vào khơng khí văn chương.
7.
Ví dụ: Dạy bài “ Tôi đi học” bài ngữ văn đầu tiên trong chương trình ngữ văn 8 tập
1, tơi sẽ vào bài bằng hình thức trị chuyện với các em bằng những câu hỏi rất giản đơn:
8.
– Em còn nhớ lần đầu tiên khi em vào học lớp 1 ai đã đưa em đến trường khơng?

9.
– Em có nhớ được mẹ đã chuẩn bị cho em những gì để đi học khơng? Khi được mẹ
đưa tới trường cảm giác của em như thế nào?
Đối tượng học sinh của tôi là người dân tộc thiểu số, nhận thức chậm và bản tính rất
rụt rè, nhút nhát nên khi đặt câu hỏi cho các em tôi thấy mức độ câu hỏi cần phù hợp, ngắn
gọn gần gũi để các em có thể tư duy được và trả lời câu hỏi được. Qua câu hỏi trên sẽ giúp
các em nhận thức được vai trò của nhà trường, của gia đình ( sự quan tâm của mẹ)….
Khơi gợi trong các em các cảm xúc cụ thể về thầy cơ, mái trường, gia đình.
10.
Khơng những thế trong giờ đọc hiểu văn bản người giáo viên biết kết hợp khéo léo
với việc giáo dục tình cảm học sinh qua phương pháp đọc sáng tạo. Bởi đọc là một trong
những hình thức hoạt động nhận thức của con người. Nó phản ánh năng lực tư duy bằng
ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Riêng đối với văn học, đọc phản ánh những tình cảm,
những ý chí, những ước vọng, những động lực của tâm hồn và cùng với tiếng lòng của nhà
văn thể hiện trong tác phẩm. Đọc là tiếng đồng vọng của con người trước thời đại và lịch


sử. Đọc nó giống như một hoạt động tinh thần, một hoạt động nhận thức. Đọc cũng giúp
con người có ý thức khám phá những giá trị chân, thiện, mỹ. Chính vì thế dạy văn khơng
thể khơng hướng dẫn học sinh đọc văn phải hướng dẫn các em đọc chuẩn văn bản có
nghĩa là phải đọc đúng, đọc rõ, đọc diễn cảm, đọc hay, đọc như là một sự tự biểu hiện, như
là sự tự cảm nhận nên khi đọc phải hướng dẫn các em dựa trên đặc điểm thể loại của văn
bản, tính cách của nhân vật, phong cách của tác giả để điều chỉnh giọng đọc cho phù hợp.
Người giáo viên văn phải coi phương pháp đọc sáng tạo là phương pháp đặc biệt đối với
môn văn mà trong đó đọc diễn cảm chỉ là một phần của đọc sáng tạo. Giáo viên phải biết
vận dụng phương pháp này trong suốt giờ học cho đến khi bài học kết thúc, chứ khơng
phải chỉ là đọc gây khơng khí đầu giờ học như một số người thường nghĩ. Tóm lại “đọc”
là một hoạt động quan trọng hàng đầu cho sự cảm nhận và hiểu biết, trong hoạt động
“đọc” thì phần đọc mẫu của giáo viên vô cùng quan trọng trong một giờ dạy văn. Cơ
giáocó giọng đọc truyền cảm, hấp dẫn tự nhiên sẽ làm cho học sinh chú ý, háo hức theo

dõi. Vì đối với nghệ thuật của văn chương, sự tồn tại của âm thanh ngôn từ vơ cùng quan
trọng. Ví dụ khi dạy một bài thơ trữ tình nếu giáo viên luyện cho học sinh đọc ngân vang
lên bằng âm điệu tiết tấu, bằng cái vỏ âm thanh của ngơn từ thì sẽ góp phần tạo nên những
rung động sâu xa, những cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn học sinh. Như vậy là chúng ta
đã góp phần giáo dục, giáo dưỡng tâm hồn, tình cảm học sinh qua giờ văn học.
Tơi lấy ví dụ: Khi dạy bài “Thông tin về ngày trái đất năm 2000-Ngữ văn 8” giáo
viên đâu chỉ có cung cấp cho học sinh kiến thức về mơn sinh học, hố học mà từ hệ thống
câu hỏi tìm hiểu bằng những từ ngữ câu văn giàu hình ảnh, điểm vài lời nhận xét, so sánh
ý nhị, người giáo viên cần dẫn dắt các em đi tìm hiểu tác hại của bao bì ni lông với cảnh
quan môi trường, với đời sống con người...để hình thành nên kỹ năng sống cho các em
như biết bảo vệ mơi trường, bảo vệ sức khoẻ chính chúng ta từ những việc nhỏ nhất nhưng
lại có một tác dụng vô cùng to lớn...
Hoặc khi dạy văn bản “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng (Ngữ văn 8- tập I). Từ
niềm khắc khoải nhớ mong da diết của bé Hồng vì hồn cảnh phải xa mẹ - người giáo viên
phải thổi vào tâm hồn các em tình cảm thiêng liêng của tình mẫu tử, biết trân q, biết ơn
cơng lao sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Bằng một hệ thống ngôn từ, nghệ thuật ẩn dụ
đặc sắc, người giáo viên văn cần phải cho học sinh nhận thấy tình cảm đẹp đẽ và thấm
đẫm của mẹ đối với con và con đối với mẹ trong lúc hiện thực xã hội cịn có những hiện
tượng tiêu cực: Con chửi lại cha, cháu cãi lại bà thì vấn đề gắn với giáo dục đạo đức học
sinh qua giờ Ngữ văn là rất cần thiết, làm sao để qua một giờ học văn giáo viên góp phần
tích cực thực hiện mục tiêu đào tạo của trường phổ thông cơ sở là bồi dưỡng tư tưởng, tình
cảm, xây dựng nhân cách con người mới cho học sinh, giáo dục cho các em tình yêu quê
hương đất nước và tinh thần quốc tế vô sản, tư tưởng làm chủ tập thể, thái độ lao động
XHCN và những đức tính tốt đẹp khác như lịng nhân ái, tinh thần dũng cảm, ý thức chủ
động sáng tạo trong cuộc sống.
Đối với học sinh THCS điều này là cần thiết bởi lứa tuổi các em dù không còn nhỏ
nhưng cũng chưa gọi là lớn. Nhận thức ở đây là nhận thức chính mình và nhận thức qua
bài học; nhận thức về con người và xã hội. Cần biết mình là ai, đứng ở đâu, đang và sẽ
làm gì cho bản thân, gia đình và xã hội…là điều rất quan trọng. Muốn thế trong quá trình
giảng dạy, chúng tơi ln tìm cách khơi gợi, xác định trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với

bản thân và đối với mọi người. Từ đó có những hành động thiết thực, hữu ích góp phần


vào cuộc sống chung tốt đẹp. Bởi về bản chất thì rèn luyện KNS là quá trình đưa nhận
thức (qua kiến thức và thái độ) thành hành động (hành vi tích cực). Kết hợp với bài học và
thực tế cuộc sống (qua phương tiện thông tin đại chúng chẳng hạn), giáo viên đưa ra
những tấm gương vượt khó học tập, gương cứu người quên mình với một tinh thần nhân ái
đáng trân trọng và khâm phục, thậm chí có cả những “tấm gương” xấu, mặt trái xã hội,
những nhân vật phản diện trong tác phẩm…để qua đó các em có ý thức tự nhìn và tự đánh
giá bản thân mình đã... “sống” đến đâu, tự thấy được những nhược điểm và ưu điểm của
mình nhằm tự soi rọi lại mình mà có thái độ và hành động sống tích cực hơn nữa. Đặc biệt
những em học sinh cá biệt, yếu kém cũng sẽ dần chuyển biếntheo kiểu “mưa dầm thấm
lâu”, ít nhất là trong nhận thức con non trẻ của các 6 em. Đó là một trong những cách giáo
dục, rèn kỹ năng tự nhận thức cho các em từ thực tế cũng như sự lồng ghép thích hợp mà
chúng tơi thường làm. Về các bài học trong chương trình, có thể nói tồn cấp (ngữ văn
THCS) đều là những bài khá đặc sắc để nâng cao nhận thức của học sinh.
Vì phạm vi có hạn tơi khơng thể nêu đầy đủ và chi tiết, chỉ xin nhắc đến một vài tác
phẩm tiêu biểu để giáo dục nhận thức (GDNT) cho các em trong chương trình ngữ văn lớp
8 cụ thể:
- Bài “Trong lịng mẹ”,“Tơi đi học”,“Tức nước vỡ bờ”GDNT về vai trị của gia đình,
đặc biệt là của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, đặc biệt là tình cảm gia đình trong việc
phát triển nhân cách của các em.
- Bài “Lão Hạc”,“Tức nước vỡ bờ” GDNT về số phận con người trong xã hội phong
kiến mong manh và oan trái, để từ đó các em liên hệ tới mặt tốt của xã hội đang sống…
- Bài “Hịch tướng sĩ; Nước Đại Việt ta” GDNT về lòng yêu nước, tự tôn về chủ quyền
dân tộc, tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng trong quá trình dựng nước và giữ
nước vĩ đại của dân tộc, từ đó giúp các em thêm yêu quê hương đất nước, cos ý thức giữ
gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp cảu dân tộc ta.
Ở nhiều bài học khác và các lớp khác cũng tương tự. Mục đích là để các em tự nâng
cao nhận thức qua từng bài học khác nhau (có sự khơi gợi, kích thích, dẫn dắt của giáo

viên hoặc qua bài tập…). Qua đó chẳng những kiến thức bài học được khắc sâu hơn mà kỹ
năng tự nhận thức của các em luôn được củng cố, nâng cao. Từ đó có thể đề ra phương
châm hành động và quan niệm sống tích cực cho mình.
+ Kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ:
Đây cũng là một trong những “thế mạnh” khác của môn ngữ văn cần được khai thác,
vận dụng. Bởi văn học là nhân học. Tính nhân văn và giáo dục thẩm mỹ đã luôn nằm
trong tác phẩm rồi. Trước hết bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt, văn học, văn
hóa, tình u gia đình, thiên nhiên, đất nước và lòng tự hào dân tộc; nâng cao ý chí tự lập
tự cường; thậm chí đến những điều bình thường tưởng như đơn giản nhất như tình bạn, lẽ
sống, lòng thương yêu, sự bao dung tha thứ…Tinh thần đó gần như có tất cả ở các bài học
trong chương trình ngữ văn THCS. Vấn đề là xây dựng, củng cố và định hướng thị hiếu,
năng lực cảm thụ thẩm mỹ của các em qua các bài học. Đây là việc làm khó bởi sự nhạy
cảm, tinh tế, rung động qua từng từ ngữ, hình ảnh, nghệ thuật và nhiều yếu tố khác không
phải dễ dàng khai thác, khám phá hết một lúc mà đòi hỏi thời gian và đặc biệt là khả năng
cảm thụ của các em cũng khác nhau. Vì đó là “sợi dây” tình cảm, tâm hồn. Tuy nhiên
cũng xin nêu một vài ví dụ:
- Ở bài “Bài toán dân số ” (lớp 8) người giáo viên phải đi đến được cái đích cuối


cùng là cho học sinh thấy được sự bùng nổ dân số sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu cho mỗi cá
nhân, gia đình và tồn xã hội. Từ đó giáo dục các em phải có ý thức tuyên truyền cho gia
đình về các chính sách của Đảng và nhà nước để hạn chế gia tăng dân số là góp phần làm
cho dân giàu nước mạnh xã hội ổn định phồn vinh
- Ở bài “Quê hương” (lớp 8) ta thấy được cái đẹp trong tâm hồn của con người làng
chài – mộc mạc, khoẻ khoắn, thấy được tâm hồn, tình cảm sâu đậm của tác giả dành cho
quê hương.Qua đó chúng ta có thể giáo dục các em về tình yêu quê hương đất nước.
+ Kỹ năng tư duy sáng tạo:
Với kỹ năng này, thường tôi rèn luyện qua phân môn tập làm văn, đặc biệt là văn nghị
luận và văn tự sự. Bởi tập làm văn là môn tổng hợp kiến thức, đòi hỏi khả năng tư duy và
sáng tạo rất cao. Thông thường các em làm bài theo một “lối mịn” có sẵn (do lười suy

nghĩ, thiếu cố gắng,máy móc, rập khn, khơng sáng tạo…) Trong khi đó đã là văn nghị
luận thì phải bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, tư tưởng và trình bày những nhận xét, đánh giá
của cá nhân trước một vấn đề nào đó, nên thiếu khả năng tư duy, sáng tạo (dù là về bài học
trên lớp chứ chưa nói xa hơn) thì khó đạt được yêu cầu của một bài làm trọn vẹn, chặt chẽ.
Để rèn luyện và nâng cao kỹ năng này, ngoài phần lý thuyết cơ bản khi dạy và học tập làm
văn; tôi thường chú ý những yêu cầu sau đối với học sinh:
-Ví dụ đối với thể văn thuyết minh ở lớp 8 học sinh cần nắm:
+Khái niệm văn thuyết minh và các phương pháp làm văn thuyết minh.
+ Bố cục trong bài văn thuyết minh.
Giáo viên nên ra thật nhiều đề bài mang tính thời sự cập nhật để các em bày tỏ quan điểm
của mình một cách chân thực nhất. Ví dụ như các dạng đề thuyết minh như sau:
Đề 1: Giới thiệu về trang phục dân tộc Dao Thanh Y ( Dao Thanh Phán) xã Quảng
Sơn quê em.
Đề 2: Thuyết minh về chiếc xe đạp ( xe máy).
Đối với các dạng bài thuyết minh khác cũng tương tự như thế. Làm thế nào để khơi
gợi sự tư duy, sáng tạo của các em càng nhiều càng tốt nhằm tránh sự máy móc, rập
khn, học vẹt khi làm bài là một điều khó mà người giáo viên ln phải hướng tới. Qua
đó cịn rèn kỹ năng nhận thức, khiến các em bày tỏ quan điểm của mình về lẽ sống, tình
cảm yêu thương, đồng cảm, chia sẻ, nghĩa tình trong cuộc sống.
+ Kỹ năng giao tiếp:
Mục đích của giao tiếp là truyền tải được các thơng điệp, những điều mình muốn nói
(qua suy nghĩ, ý tưởng, cảm nhận..) đến với người nghe, người tiếp nhận. Nếu không,
những ý tưởng ấy sẽ không được phản ánh, thậm chí gây hiểu lầm và tạo ra những rào cản
khiến ta khơng đạt được mục tiêu. Đó cũng là một trong những KNS nói chung. Riêng
mơn ngữ văn, có thể giúp các em rèn luyện từng bước kỹ năng này, trước hết trong học tập
và sau nữa là trong cuộc sống tương lai. Tôi chú ý rèn luyện kỹ năng này cho học sinh
bằng những hoạt động sau:
+Thuyết trình trước lớp, trường…
+Truyền đạt thông tin từ một bài học, sự việc, sự kiện nào đó.
+Lắng nghe và thu thập thơng tin hoặc nhận xét (ví dụ sau một lần tham quan, dã ngoại, di

tích lịch sử, văn hóa nào đó)
+ Hoạt động nhóm.
+ Tiết luyện nói hoặc rải rác qua các bài học trên lớp mà nội dung có thể lồng ghép kỹ


năng này. Ví dụ qua bài “Thuế máu” (lớp 8) có thể cho học sinh trình bày suy nghĩ, ý
kiến, nhận xét…của các em về tội ác của thực dân Pháp gây ra cho đồng bào ta hoặc có
thể hỏi: “Nếu em là người bị bắt đi lính vào thời điểm đó em sẽ xử trí như thế nào?
Hay khi học bài “ Nhớ rừng” (lớp 8) để kích thích khả năng tư duy sáng tạo và đặc
biệt khả năng giao tiếp ta có thể đưa ra các câu hỏi như:
? Bài thơ kết thúc bằng lời nhắn gửi thống thiết của con hổ tới rừng thiêng nơi nó từng
ngự trị. Lời nhắn gửi ấy có ý nghĩa ntn đối với tâm trạng của con người VN thuở ấy ?
? Nỗi đau ấy p’ ánh khát khao mãnh liệt nào của con hổ ở vườn bách thú và cũng là
của con người ?
? “Nhớ rừng”là bài thơ tiêu biểu của thơ lãng mạn, qua đó giúp em hiểu gì về thơ lãng
mạn VN ( nghệ thuật )?
? Nhà phê bình văn học Hồi Thanh có nhận xét về bài thơ “Nhớ rừng”: “Ta tưởng
chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường”. Em hiểu
sức mạnh phi thường ở đây là gì?
Khi nhận được câu hỏi các em sẽ phải tư duy tìm hướng trả lới và quan trọng nữa là phải
thực hiện thao tác trình bày trước lớp sao cho dễ hiểu và hay nhằm thuyết phục thầy cô và
các bạn. Càng trả lời nhiều thì càng trau dồi tốt hơn cho mình kỹ năng giao tiếp, càng tự
tin hơn khi phải trình bày trước đông người.
+ Kỹ năng thực hành, ứng dụng:
Thực hành, ứng dụng trong mơn ngữ văn chính là qua hệ thống các bài tập, bài làm, bài
viết..mà các em thực hiện trong q trình học tập. Chỉ có chủ động và tích cực thì các em
mới có thể làm tốt việc này. Các em có thể hiểu bài, có kiến thức bài học nhưng chưa hẳn
sẽ làm bài tập tốt, viết tốt, vận dụng đúng…Để rèn được kỹ năng này, chúng tôi thường
thực hiện các dạng sau (từ mức độ thấp đến cao, dễ đến khó hơn và chú ý đến các đối
tượng học sinh):

Ví dụ :
Khi học xong bài “ Lựa chọn trật tự từ trong câu” tôi sẽ ra các bài tập viết ngắn về
sự cảm nhận của em trong quá trình học tập và sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình như thế nào
cho đúng và hay.
Khi học xong phần tập làm văn tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận – trong
tiết luyện nói , tơi sẽ ra bài tập luyện nói cụ thể : Em thích học mơn học gì nhất? Vì sao?
Ở bài luyện nói này tơi u cầu các em làm và trình bày trước lớp, thơng qua đó sẽ rèn cho
các em kỹ năng trình bày, thực hành ứng dụng cụ thể và qua đó cũng biết được tâm tư
nguyện vọng của các em mà có điều chỉnh thích hợp trong quá trình giảng dạy của mình.
Những hình thức trên được thực hiện lồng ghép, đan xen trong các tiết học, tiết ơn tập
hoặc hoạt động ngồi giờ lên lớp…Qua đó có điều kiện rèn và nâng cao kỹ năng thực
hành, ứng dụng từ lý thuyết các bài học mà các em đã được học. Hơn nữa giúp các em có
dịp cọ xát với những tình huống sẽ gặp trong thực tế sau này khi ra đời, dù chỉ là viết một
biên bản trong cuộc họp, một báo cáo thơng thường khi làm việc. Đó cũng là một trong
những đặc trưng mà mônngữ văn làm được.
+ Kỹ năng giải quyết vấn đề:
Đây là kỹ năng cần có trong mọi lĩnh vực đời sống, mọi môn học. Mặc dù cách giải quyết
vấn đề trong đời sống và cách GQVĐ trong mơn học khơng phải hồn tồn trùng khớp
nhưng cũng là “một cách thức suy nghĩ nhằm làm rõ và đưa ra giải pháp thực thi…” để


giải quyết, đáp ứng một yêu cầu nào đó. Với mơn ngữ văn, giải quyết vấn đề khơng ngồi
các tình huống, các vấn đề, các yêu cầu đặt ra từ bài học và theo khả năng ứng xử, quan
điểm của mỗi cá nhân. Cũng trong thực tế cuộc sống, khi đứng trước một tình huống nào
đó, mỗi người sẽ giải quyết, ứng xử một cách khác nhau tùy theo “kỹ năng” của họ. Học
sinh cũng thế, từ cách giải quyết của các nhân vật, tư các tình huống khác nhau các em
cũng sẽ tìm và chọn cách giải quyết tối ưu cho mình một khi có…kỹ năng. Ví dụ sau khi
học xong văn bản “ Ông đồ” ( Ngữ văn 8 tập 2) tơi sẽ ra các tình huống cụ thể để các em
tìm cách giải quyết như:
? Em có nhận xét gì về tình cảnh ơng đồ ở đây?

? Tại sao ơng lại rơi vào tình cảnh đó?
? Từ bài thơ em có những suy nghĩ gì về giá trị tốt đẹp của dân tộc?
2.2c. Tăng cường cơ sở vật chất
Người giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn ngữ văn nên phối kết hợp chặt chẽ với nhà
trường, đặc biệt bộ phận thiết bị và thư viện trường học để cung cấp đầy đủ cho các em
trước tiên là đầy đủ SGK, SBT để các em học tập. Ngồi ra cịn cung cấp cho các em
những sách tham khảo như sách học tốt, sách nâng cao, sách về giáo dục đạo đức, kĩ năng
sống, những cuốn truyện về các tấm gương sáng, về các nhân vật lịch sử... để các em đọc
và bồi đắp tình cảm giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, cách ứng
xử, giao tiếp v.v. Việc đọc sách cũng là một biện pháp tốt giúp các em nâng cao nhận
thức về bản thân và những người xung quanh. Và chính quá trình đọc sách, sự tập trung và
tinh ý sẽ giúp các em hình thành những kĩ năng ngơn ngữ cần thiết.
Ngồi ra cần có thêm những phịng chức năng để các em sinh hoạt như phịng vui chơi
giải trí với các phương tiện như ti vi, máy vi tính, loa đài... để các em có thể tiếp cận thơng
tin bên ngồi một cách cập nhật nhất vì điều kiện của các em học sinh người dân tộc rất ít
đi ra ngồi, đi xa, ít tiếp xúc với xã hội rộng lớn bên ngồi... nên tầm nhìn và hiểu biết của
các em cịn rất hạn hẹp. Nếu có được những phịng chức năng đầy đủ , được tiếp cận với
những trang thiết bị hiện đại như vậy sẽ giúp các em khơng cịn sự rụt rè, nhút nhát, sẽ có
nhiều sự tự tin hơn khi gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với mọi người.
2.2d. Kiểm tra đánh giá
+ Đối với quá trình kiểm tra
Phải thực hiện kiểm tra thường xuyên theo định kỳ hay đột xuất, thông qua nhiều kênh
thông tin: Đoàn - Đội, Quản lý nội trú, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ mơn,... nhằm
mục đích đánh giá đúng và kịp thời để khích lệ, biểu dương, khen thưởng học sinh phấn
đấu vươn lên; đồng thời cũng ngăn chặn, phê bình những hành động sai trái, vi phạm đạo
đức; thúc đẩy sự tự giác thực hiện nhiệm vụ .
+ Đối với quá trình đánh giá
Đây là một quá trình nghiêm túc và khoa học. Hãy đánh giá đúng khả năng học tập và sự
rèn luyện của học sinh; đừng bao giờ chạy theo bệnh thành tích mà làm qua loa, sơ sài
trong việc đánh giá xếp loại học sinh. Phải thực hiện đúng theo Thông tư số: 58/2011/TTBGDĐT, thông tư ban hành Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học

sinh trung học phổ thông. Đối với học sinh cá biệt cần phải đặc biệt quan tâm, phải thường
xuyên theo dõi và liên lạc chặt chẽ với cha mẹ học sinh, để từ đó có biện pháp giáo dục
phù hợp, kịp thời. Đối với đối tượng này, cần phải có sự phối hợp cả hai biện pháp cứng
rắn, kiên quyết đồng thời cũng phải mềm dẻo, gần gũi, tìm hiểu hồn cảnh sống để giúp


các em tránh những suy nghĩ lệch lạc về bản thân, tạo niềm tin và là chỗ dựa tinh thần
vững chắc cho các em, để các em phấn đấu sửa chữa, vươn lên thành người tốt.
2.2e. Phê phán rút kinh nghiệm
Bên cạnh cơng tác kiểm tra đánh giá thì khâu phê phán rút kinh nghiệm cũng là khâu
quan trọng không thể thiếu của người giáo viên. Tuy nhiên để làm tốt khâu này thì điều
đầu tiên người giáo viên phải giúp các em nhận thức rõ mục đích của phê phán rút kinh
nghiệm là để giúp các em nhìn thấy rõ hơn cái sai, cái chưa làm được của mình để tránh,
để sửa chữa và làm cho tốt hơn chứ khơng phải là moi móc cái xấu, cái chưa là được…để
chê cười các em. Điều này cần được tiến hành thường xuyên trong các giờ học tiếng việt,
các giờ học tập làm văn, cụ thể như khi giao tiếp với các em, nếu các em nói sai giáo viên
cần nhận xét và chỉ ngay cho các em thấy cái sai của mình để các em sửa chữa ln,
khơng mắc phải vào những lần sau.
2.2g. Biểu dương tuyên truyền
Để học sinh thấy được những cố gắng của mình được ghi nhận mỗi giáo viên có một
cách riêng. Một trong những cách mà bản thân tôi cũng như nhiều giáo viên áp dụng đó là
hình thức biểu dương tun truyền.
Giáo viên cần phải biểu dương kịp thời những học sinh có ý thức đạo đức tốt, ghi nhận
những học sinh có kỹ năng sống tốt để phát huy bồi dưỡng cho các em. Ngay cả những em
học sinh mắc lỗi cũng nên có biện pháp phù hợp để giáo dục. Sau khi xử lý học sinh vi
phạm, nhà trường cần có kế hoạch theo dõi, phối hợp với phụ huynh học sinh, chính
quyền địa phương tạo điều kiện cho học sinh phấn đấu, sửa chữa những hạn chế, khuyết
điểm để tiến bộ. Khi đã thấy học sinh có chiều hướng phát triển tốt, cần phải động viên,
khích lệ và thậm chí nên khen thưởng các em nếu thấy các em có biểu hiện tốt và có nổ
lực trong học tập. Việc khen thưởng và kỷ luật đối với học sinh được thực hiện một cách

đúng đắn sẽ góp phần rất lớn vào việc củng cố và phát triển phong trào thi đua " Dạy tốt –
Học tốt" trong nhà trường.
2.2h.Khuyến khích bằng vật chất
Đây cũng là một hình thức cơng nhận, ghi nhận những cố gắng, thành tích của các
em. Cụ thể với những em đạt các danh hiệu như học sinh giói văn cấp trường, cấp huyện,
cấp tỉnh…những học sinh có quá trình tu dưỡng và rèn luyện đạo đức tốt giáo viên nên có
sự động viên kịp thời bằng cách trao phần thưởng cho các em bằng hiện vật, trị giá tiền
mặt để các em thấy được những phấn đấu của mình là thực sự có hiệu quả từ đó sẽ càng
nỗ lực phấn đấu nhiều hơn. Các bạn học sinh chưa đạt được đến tầm đó sẽ thấy đây là
những tấm gương sáng để mình học tập và noi theo, từ đó sẽ dấy lên phong trào thi đua
học tập tạo nên khơng khí học tập tốt trong nhà trường, là tiền đề để kết quả, chất lượng
học tập sẽ được nâng cao hơn.
2.3 .Kết quả
* Tiêu chí đánh giá
- Căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của các em trong suốt một năm học (
Kết quả xếp loại học lực từng môn học và cả năm của từng em – Dựa vào đánh giá
của giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm.)
- Căn cứ vào kết quả xếp loại về hạnh kiểm của từng em sau một năm – Dựa vào đánh
giá của giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm.)
- Căn cứ vào kết quả xếp loại hoạt động ngoài giờ lên lớp của từng em sau một năm –


Dựa vào đánh giá của giáo viên phụ trách hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên tổng phụ
trách đội.
* Kết quả sau khi đánh giá
Bằng những cách làm khác nhau (qua dạy và học bộ môn ngữ văn và qua các hoạt
động đan xen…) nhằm giáo dục, rèn luyện KNS cho học sinh, tôi nhận thấy một số kết
quả như sau:
- Các em nhận biết được một số KNS mà qua môn ngữ văn và một số hoạt động đã
chuyển tải. khơng cịn rụt rè, thụ động mà tỏ ra tích cực, linh hoạt, sơi nổi hơn trong học

tập và sinh hoạt.
- Hạn chế được những em có cuộc sống “khép kín” (do nhiều nguyên nhân) hoặc quá say
mê “thế giới ảo” của Internet, game…mà quên đi những hoạt động chung quanh của bạn
bè, của cộng đồng và xã hội. Qua đó cịn hạn chế được những tác nhân tiêu cực, xây dựng
môi trường trường học thân thiện, học sinh tích cực.
- Giúp các em thích ứng được với cuộc sống mà đôi khi những biến động, bất trắc khơn
lường có thể xảy ra, dù là tự nhiên hay xã hội, nhất là xã hội ngày càng hiện đại, phát
triển.
- Góp phần tích cực cho việc đổi mới phương pháp học tập của học sinh, tăng năng lực
thích nghi và điều khiển chính cuộc sống của mình.
2.4. Bài học kinh nghiệm
* Bài học chung
Sau khi rút kinh nghiệm và thay đổi áp dụng những biện pháp trên tôi nhận thấy :
- Thứ nhất: việc tiếp thu kiến thức cơ bản của mơn văn nói riêng của các em đã có sự tiến
bộ hơn như các em đọc tốt hơn, viết đã nhanh hơn, đã bước đầu biết cách viết một bài văn
dù còn ngắn. Trong các giờ học văn đã mạnh dạn giơ tay xây dựng bài – điều mà đầu năm
học lên tơi thấy chưa đạt vì giáo viên đặt câu hỏi nhưng học sinh không giơ tay phát biểu
hay có gọi phát biểu thì các em chỉ đứng dậy chứ khơng trả lời. Tơi cũng khơng địi hỏi
các em phải viết hay, nói hay vì thực tế các em là học sinh người dân tộc thiểu số nên
nhận thức còn rất chậm, bước đầu dạy được các em biết đọc tốt hơn, viết được nhanh hơn,
biết các viết đúng một bài văn và rèn được ý thức giơ tay phát biểu xây dựng bài cho các
em trong giờ học là điều rất khả quan.Đây cũng là động lực để tôi tiếp tục áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm này trong những năm học tiếp theo.
- Thứ hai: Sau một năm học tôi nhận thấy các em đã biết chào hỏi các thầy cô, biết hỏi han
và thưa gửi có lễ phép vì đầu năm học tơi nhận thấy đa số các em đều nói trống khơng với
các thầy cơ giáo. Tuy nhiên vẫn cịn rất nhiều em chưa thực hiện tốt điều này nhưng bản
thân tôi cùng các đồng nghiệp sẽ tiếp tục cố gắng trong các năm học tiếp theo.
* Bài học riêng
Như đã nói trên, hiện trạng học sinh học văn còn yếu, chưa biết chào hỏi thầy cô... là
tương đối phổ biến đối với các em học sinh Quảng Sơn nói chung và học sinh lớp 8AB tơi

dạy văn nói riêng. Ngay sau khi nhận lớp tôi đã tiến hành bài khảo sát với học sinh để biết
được tình hình viết cụ thể của từng em. Sau đó tơi cho các em thực hành đọc văn bản
trong các giờ đọc hiểu ngữ văn để phân loại các em đọc tốt, các em biết đọc và đọc cịn
yếu...Sau khi đã có kết quả tơi sẽ tiến hành lập kế hoạch cụ thể để phụ đạo cho từng đối
tượng như với các em đọc yếu sẽ gọi các em đọc nhiều hơn để rèn kĩ năng đọc. Có đọc
nhiều chắc chắn khả năng đọc sẽ tốt hơn. Với những em viết yếu tích cực cho các em rèn


viết chính tả trong các giờ ngữ văn tự chọn. Khi viết chú ý chỉnh sửa luôn những từ ngữ
các em viết sai chính tả, viết chưa đúng dấu câu... Còn đối với việc giáo dục đạo đức và
KNS cho các em thì phối kết hợp trong và ngồi giờ học. Trong giờ học thông qua các bài
học cụ thể giáo viên có sự liên hệ giáo dục thiết thực.
*Bài học thành công
Hiện nay việc nâng cao chất lượng dạy và học, giáo dục đạo đức và KNS của giáo
viên và học sinh là mối quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi
hoạt động khác. Trong các mơn ở THCS thì mơn Ngữ văn là một trong những môn quan
trọng nhất giúp học sinh nắm vững được kiến thức tiếng Việt cơ bản, có cơ sở học tốt các
mơn khác, ngồi ra cịn giúp các em năng động, sáng tạo, tự tin hơn trong khi giao tiếp.
Sau một năm học áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Giáo dục đạo đức – kĩ năng sống
cho học sinh lớp 8AB trường PTDTBT THCS Quảng Sơn, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng
Ninh” , tôi cũng đã thu được những kết quả rất đáng khả quan, đó là các em học sinh lớp
8AB đã có sự tiến bộ hơn như các em đọc tốt hơn, viết đã nhanh hơn, đã bước đầu biết
cách viết một bài văn dù còn ngắn. Trong các giờ học văn đã mạnh dạn giơ tay xây dựng
bài. Các em đã biết chào hỏi các thầy cơ, biết hỏi han và thưa gửi có lễ phép. Nhiều em đã
mạnh dạn và tự tin hơn trong giao tiếp và bước đầu có kĩ năng giao tiếp.
* Bài học chưa thành công
Bên cạnh những thành công mà tôi đạt được khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này
thì vẫn cịn những điều mà tơi áp dụng chưa được thành cơng. Đó là nhiều em học sinh
dân tộc Tày vẫn chưa có sự tiến bộ như em Tằng A Ninh (bản Lồ Mã Coọc) , em Chíu
Văn Thng ( bản Lý Quáng ), em Tằng A Quyết (bản Lý Quáng ). Các em còn lười đi

học nên việc phụ đạo cịn gặp nhiều khó khăn. Q trình trau dồi cho các em là một quá
trình lâu dài, liên tục, thường xuyên, nhưng do các em không đi học đều nên việc tiếp thu
sẽ vơ cùng khó khăn. Chính vì thế mà so với các bạn khác trong lớp việc đọc, viết và kĩ
năng sống còn gặp nhiều hạn chế. Đây là điều mà bản thân tôi sẽ phải rút kinh nghiệm,
cần khắc phục ngay trong năm học tới, dành nhiều thời gian cho những đối tượng học sinh
này ngay từ đầu năm học để giúp cho các em tiến bộ hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Có lẽ trong nhà trường khơng có mơn nào có thể thay thế được môn Ngữ văn. Bởi
“văn học là nhân học” – đó là một mơn học vừa hình thành nhân cách, vừa hình thành
tâm hồn. Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, môn
Ngữ văn sẽ giúp lưu giữ lại tâm hồn con người, giữ lại giá trị nhân văn để con người
truyền đến con người, trái tim hoà cùng nhịp đập trái tim. Nói tóm lại, giáo viên Ngữ văn
có trách nhiệm to lớn trong việc giáo dục đạo đức và KNS cho học sinh. Giáo dục đạo đức
và KNS cho học sinh là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể nên phải đảm bảo
chặt chẽ của quy trình quản lý giáo dục. Công tác giáo dục đạo đức và KNS cho học sinh
trong giai đoạn hiện nay càng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, cần thiết hơn.Giáo dục
đạo đức KNS cho học sinh là trách nhiệm của tồn xã hội, trong đó giáo dục ở nhà trường
có vai trị định hướng. Đó là sứ mệnh lịch sử, là vinh dự và trách nhiệm mà xã hội giao
cho nhà trường và mỗi chúng ta nói riêng, ngành giáo dục và đào tạo nói chung.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1.Đối với cấp trường


Tổ chức chỉ đạo và thực hiện tốt các kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh đã đề ra từ
đầu năm
Tổ chức tốt việc triển khai thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh, để công tác
giáo dục đạo đức học sinh trong trường học thành công, đòi hỏi các thành viên tham gia
giáo dục đạo đức học sinh cần thực hiện tốt các yêu cầu cụ thể với nhiệm vụ, chức năng
của mình:

a) Đối với cán bộ quản lý
Phải làm cho toàn thể cán bộ- giáo viên - nhân viên trong trường thấy rõ tầm quan
trọng và sự cấp thiết của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.
Từ đó nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm, tích cực tham gia các hoạt động nhằm góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng và chất lượng giáo dục
của nhà trường nói chung. Triển khai hướng dẫn số 30/HD-SGDĐT, chỉ đạo cho giáo viên
bộ môn. Giáo viên dạy Giáo dục công dân phải phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để nhận
xét về hạnh kiểm của học sinh theo cách: Nhà trường hướng dẫn hình thức phù hợp để
giáo viên mơn Giáo dục cơng dân chuyển kết quả nhận xét sau mỗi học kỳ, năm học cho
giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm ghi nội dung nhận xét cuối năm học ở phần
dành cho nhận xét của giáo viên chủ nhiệm trong học bạ. Ngoài ra, Ban giám hiệu nhà
trường cần chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm đánh giá nghiêm túc kết quả hạnh kiểm của
các em, để tránh trường hợp một số học sinh vẫn còn vi phạm nội quy nhà trường mà vẫn
được đánh giá hạnh kiểm tốt, việc làm này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục đạo đức
cho học sinh sau này.
b) Đối với giáo viên chủ nhiệm
Gia đình, nhà trường, xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan
giáo dục chuyên nghiệp, giáo viên chủ nhiệm là người giữ vai trò chủ động trong việc
phối hợp các lực lượng giáo dục và là người trực tiếp thay mặt nhà trường để giáo dục học
sinh. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm là người thực hiện sự phối hợp, liên kết chặt chẽ với
giáo viên bộ mơn, các đồn thể trong nhà trường. Năng lực chun mơn, đạo đức, uy tín
và kinh nghiệm công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp là điều kiện quan trọng nhất cho
việc tổ chức phối hợp thành công các hoạt động giáo dục học sinh của lớp. Giáo dục đạo
đức học sinh là một công việc địi hỏi sự kiên trì, cần phải có tâm huyết với nghề; có
phương pháp chủ nhiệm tốt với một kế hoạch tồn diện, hợp lý. Như vậy, tìm hiểu và nắm
vững đối tượng giáo dục vừa là nội dung, vừa là điều kiện để làm tốt công tác chủ nhiệm
lớp. Hình ảnh người thầy ảnh hưởng khơng nhỏ đến học sinh, chính vì vậy giáo viên chủ
nhiệm khơng những cần năng lực chun mơn, mà cịn địi hỏi phải thật sự là tấm gương
sáng về tác phong, tư cách đạo đức; chuẩn mực trong trang phục, lời nói, cách ứng xử…
như vậy lời nói của giáo viên chủ nhiệm mới có trọng lượng với học sinh. Tóm lại, giáo

dục tình cảm cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng khơng chỉ của gia đình, nhà trường mà
là của tồn xã hội. Giáo dục tình cảm là một trong những nội dung quan trọng của việc
giáo dục nhân cách, đạo đức chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống lao động xã hội.
c) Đối với giáo viên bộ môn
Mỗi một giáo viên bộ môn, hãy cố gắng dạy tốt mơn học của mình, hãy chú ý đến mọi
đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt, học sinh yếu, kém, học sinh có hồn cảnh
gia đình khó khăn để tận tình giúp đỡ các em, giúp cho các em tiếp thu tốt nhất kiến thức
mà mình đã truyền đạt. Tích cực nâng cao chất lượng tiết dạy, chú ý ứng dụng công nghệ


thơng tin một cách có hiệu quả để kích thích sự ham học, hứng thú của học sinh đối với
tiết học, chú trọng việc lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức học sinh thông qua các môn
học như: Văn học, Lịch sử, Địa lý, Sinh học và đặc biệt là mơn Giáo dục cơng dân có vị trí
quan trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về phẩm chất, đạo
đức, về quyền và nghĩa vụ cơng dân, sẽ giúp học sinh có thái độ tích cực và thực hiện
những hành vi đúng đắn phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội.
d) Đối với Đoàn - Đội
Bộ phận Đoàn - Đội trong nhà trường có vai trị hết sức quan trọng trong cơng tác giáo
dục đạo đức học sinh. Do đó, nhà trường cần tăng cường vai trị của tổ chức Đồn - Đội
trong việc tuyên truyền các nghị quyết của Đoàn- Đội, tổ chức thực hiện các phong trào
thi đua trong học tập, các hoạt động ngoại khoá; các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", "uống
nước nhớ nguồn ”, những hoạt động văn hóa lành mạnh khác,… nhằm thu hút, lơi cuốn
học sinh đến với tập thể, đến những hoạt động bổ ích, nhằm để giáo dục về lịng nhân ái,
tình đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau; giáo dục cho các em những kỹ năng sống;
giáo dục truyền thống và đạo lý con người Việt Nam, để từ đó giáo dục đạo đức học sinh.
Ngoài ra, Đoàn thanh niên - Đội thiếu niên cũng là lực lượng hỗ trợ đắc lực cho giáo viên
chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
e) Đối với bộ phận Quản lý nội trú
Các giáo viên, nhân viên ở nội trú là người gần gũi và tiếp xúc với các em nhiều hơn các
giáo viên bộ môn nên dễ dàng nắm bắt được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em.

Vì vậy, các thầy cơ hãy chịu khó lắng nghe, chia sẽ và giúp đỡ cho các em khi các em gặp
khó khăn. Đồng thời cần phải giáo dục cho các em cách sinh hoạt hàng ngày, tính tập thể,
tính kỷ luật, rèn luyện ý thức tự giác, tiết kiệm điện nước. Bên cạnh đó, các nhân viên ở
đây cần sống và làm việc gương mẫu cho các em noi theo. Đồng thời cần phối hợp chặt
chẽ, thông tin kịp thời với giáo viên chủ nhiệm để giáo dục đạo đức cho các em.
f) Đối với gia đình
Trong cuộc sống hàng ngày, cha mẹ, ông bà cần phải sống mẫu mực, làm gương tốt
cho con, cháu noi theo; có trách nhiệm tham gia đầy đủ các buổi họp cha mẹ học sinh;
thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để kịp thời nắm bắt các thông tin về việc
học tập và sự rèn luyện đạo đức của con em mình, để kịp thời uốn nắn, dạy dỗ. Mỗi cha
mẹ học sinh cần quan tâm xây dựng tổ chức 19 hội cha mẹ học sinh vững mạnh, có mối
quan hệ thường xuyên với nhà trường; phát huy vai trò, chức năng Hội cha mẹ học sinh
trong việc giáo dục đạo đức học sinh, động viên, răn dạy các em chấp hành tốt nội qui của
nhà trường, các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
g) Đối với chính quyền địa phương
Cần chú trọng xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh và chính
quyền địa phương nơi trường đóng. Hằng năm, thơng qua các văn bản, công văn, báo cáo
định kỳ, nhà trường trao đổi thông tin đồng thời triển khai kế hoạch với chính quyền địa
phương; tham mưu đưa cơng tác giáo dục đạo đức học sinh vào tiêu chí xây dựng, bình
chọn “Gia đình văn hóa”; có đánh giá nhận xét của chính quyền địa phương về “sinh hoạt
hè” của học sinh;… tạo được sự hỗ trợ tích cực của các lực lượng ngồi nhà trường thành
q trình khép kín trong cơng tác giáo dục học sinh.
2.Đối với phịng giáo dục
Tổ chức nhiều hơn các hội thảo chuyên đề cho giáo viên ngữ văn trong năm theo



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×