Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Luận án tiến sĩ kinh tế hoàn thiện chính sách tài chính đối với cơ sở giáo dục đại học ngành công an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.09 MB, 178 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
--------------------

NGUYỄN XN HIỆP

HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGÀNH CÔNG AN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2014


i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
--------------------

NGUYỄN XN HIỆP

HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGÀNH CÔNG AN

Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng


Mã số

: 62.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. VŨ NHỮ THĂNG
2. PGS, TS. DƯƠNG ĐĂNG CHINH

HÀ NỘI - 2014


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản Luận án “Hồn thiện chính
sách tài chính đối với cơ sở giáo dục đại học ngành Cơng an” là
cơng trình nghiên cứu độc lập, do chính tơi hồn thành. Những kết
quả trình bày trong Luận án chưa công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu, tài liệu tham khảo và trích dẫn được sử dụng
trong Luận án này đều nêu rõ xuất xứ, tác giả và được ghi trong
danh mục tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời cam đoan trên.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2014

Nghiên cứu sinh


Nguyễn Xuân Hiệp


iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa

i

Lời cam đoan

ii

Mục lục

iii

Danh mục các chữ viết tắt

vi

Danh mục các bảng

vii

Danh mục các hình

viii


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

18

1.1. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

18

1.1.1. Nhận thức về giáo dục đại học

18

1.1.2. Vai trò của giáo dục đại học với phát triển kinh tế - xã hội

22

1.2. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

27

1.2.1. Khái niệm chính sách và chính sách tài chính đối với cơ sở giáo
dục đại học

27


1.2.2. Các bộ phận cấu thành của chính sách tài chính đối với cơ sở
giáo dục đại học

32

1.2.3. Vai trò và yêu cầu của chính sách tài chính đối với cơ sở giáo
dục đại học

52

1.3. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI MỘT SỐ CƠ SỞ GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC NGÀNH AN NINH, CẢNH SÁT TRÊN THẾ GIỚI VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

58

1.3.1. Chính sách tài chính đối với một số cơ sở giáo dục đại học
ngành an ninh, cảnh sát các nước trên thế giới

58

1.3.2. Bài học kinh nghiệp về chính sách tài chính đối với cơ sở giáo
dục đại học ngành Công an Việt Nam
Kết luận chương 1

64
66



iv
Chương 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CƠ
SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGÀNH CÔNG AN VIỆT NAM

67

2.1. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
NGÀNH CÔNG AN VIỆT NAM

67

2.1.1. Mục tiêu và quy trình đào tạo đại học trong ngành Cơng an

67

2.1.2. Quy mô và ngành nghề đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học
ngành Công an

71

2.2. THỰC TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC CƠ
SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGÀNH CÔNG AN VIỆT NAM

78

2.2.1. Thực trạng về chính sách khai thác, huy động nguồn tài chính

78

2.2.2. Thực trạng về chính sách phân phối, sử dụng nguồn tài chính


92

2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC NGÀNH CÔNG AN

103

2.3.1. Những thành tựu, kết quả đạt được

103

2.3.2. Những hạn chế, bất cập

106

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

113

Kết luận chương 2

116

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGÀNH CƠNG AN

118

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGÀNH

CÔNG AN ĐẾN NĂM 2015 VÀ 2020

118

3.1.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục đại học ngành Công an

118

3.1.2. Các giải pháp phát triển giáo dục đại học ngành Công an

120

3.2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH
SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
NGÀNH CƠNG AN

123

3.2.1. Một số quan điểm hồn thiện chính sách tài chính đối với cơ sở
giáo dục đại học ngành Cơng an

123

3.2.2. Một số định hướng nhằm hồn thiện chính sách tài chính đối với
cơ sở giáo dục đại học ngành Công an

126


v

3.3. CÁC GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỐI
VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGÀNH CÔNG AN

129

3.3.1. Giải pháp tổng thể về chính sách tài chính đối với cơ sở giáo dục
đại học ngành Cơng an

129

3.3.2. Nhóm giải pháp về khai thác, huy động nguồn tài chính cho các
cơ sở giáo dục đại học ngành Công an

138

3.3.3. Nhóm giải pháp về chính sách phân phối, sử dụng nguồn tài
chính cho các cơ sở giáo dục đại học ngành Công an

145

3.4. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THỰC HIỆN THÀNH CÔNG
CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT

149

Kết luận chương 3

153

KẾT LUẬN


155

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

158

PHỤ LỤC

167


vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ADB
ANND
CAND
CNCH
CPĐV
CSĐT
CSGD
CSGDĐH
CSND
DV
ĐH

ĐHANND
ĐHCSND
ĐHKTHC
ĐHPCCC
EU
GD
GDĐH
GDĐT
GDP
GDP-đn
GV
HH
HVANND
HVCSND
KHCN
KTTT
KTXH
NCKH
NSNN
OECD
PCCC
SN
SV
UNDP
UNESCO
WB
XH

Ngân hàng Phát triển châu Á
An ninh nhân dân

Công an nhân dân
Cứu nạn, cứu hộ
Chi phí đơn vị tính cho một sinh viên năm
Cơ sở đào tạo
Cơ sở giáo dục
Cơ sở giáo dục đại học
Cảnh sát nhân dân
Dịch vụ
Đại học
Đại học An ninh nhân dân
Đại học Cảnh sát nhân dân
Đại học Kỹ thuật - Hậu cần Cơng an nhân dân
Đại học Phịng cháy chữa cháy
Liên minh Châu Âu
Giáo dục
Giáo dục đại học
Giáo dục đào tạo
Tổng sản phẩm quốc nội
GDP đầu người
Giảng viên
Hàng hóa
Học viện An ninh nhân dân
Học viện Cảnh sát nhân dân
Khoa học công nghệ
Kinh tế thị trường
Kinh tế - Xã hội
Nghiên cứu khoa học
Ngân sách nhà nước
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
Phòng cháy chữa cháy

Sự nghiệp
Sinh viên
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc
Ngân hàng Thế giới
Xã hội


vii
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN

Số hiệu

Tên bảng

Bảng 1.1: Suất thu lợi của GDĐH

Trang
23

Bảng 1.2: Chi NSNN cho GDĐH bình quân một SV so với GDP-đn của
một số nước năm 2004 (theo phương pháp sức mua tương đương)

33

Bảng 1.3: Chi NSNN cho GDĐH Việt Nam (2007 - 2010)

34

Bảng 1.4: Tình hình chi GD ở các nước EU năm 2001


35

Bảng 1.5: Tình hình thu học phí, lệ phí GDĐT Việt Nam (1996 - 2009)

43

Bảng 1.6: Tình hình thu học phí GDĐH Việt Nam (2001 - 2008)

44

Bảng 1.7: Tỷ lệ chi GDĐH trên GDP và NSNN một số nước

51

Bảng 1.8: Tỷ lệ chi phí GD cho một học sinh (SV) một số nước

53

Bảng 2.1: Số lượng SV ĐH trong các CSGDĐH ngành Cơng an năm 2012

73

Bảng 2.2: Tình hình SV ĐH hệ chính quy trong các CSGDĐH ngành Cơng an

74

Bảng 2.3: Trình độ đội ngũ cán bộ, GV trong các CSGDĐH ngành Công an

74


Bảng 2.4: Tổng hợp kết quả huy động các nguồn tài chính của các CSGDĐH
ngành Cơng an từ năm 2006 - 2012

79

Bảng 2.5: Kinh phí thường xuyên của các CSGDĐH ngành Cơng an

82

Bảng 2.6: Kinh phí SN GDĐT của các CSGDĐH ngành Cơng an

83

Bảng 2.7: Kinh phí NCKH của các CSGDĐH ngành Cơng an

85

Bảng 2.8: Kinh phí đầu tư XDCB của các CSGDĐH ngành Công an

85

Bảng 2.9: Nguồn ngồi NSNN của các CSGDĐH ngành Cơng an

89

Bảng 2.10: Cơ cấu các nội dung chi kinh phí thường xuyên của các CSGDĐH
ngành Công an
Bảng 2.11: CPĐV của GDĐH ngành Công an


93
96

Bảng 3.1: Định hướng quy mô học viên và phát triển mở rộng của các
CSGDĐH ngành Công an đến năm 2015 và 2020

120


viii
DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN ÁN

Số hiệu

Tên hình

Trang

Hình 1.1: Mối quan hệ CPĐV = f(GDP-đn)

51

Hình 2.1: Cơ cấu các loại SV trong các CSGDĐH ngành Cơng an năm 2012

73

Hình 2.2: Cơ cấu nguồn tài chính huy động của các CSGDĐH ngành Cơng an

80


Hình 2.3: Cơ cấu các nguồn kinh phí thuộc NSNN của các CSGDĐH ngành
Cơng an

81

Hình 2.4: Tương quan giữa tốc độ tăng NSNN cấp cho các CSGDĐH với
tốc độ tăng ngân sách chi an ninh, SV ĐH hệ chính quy ngành
Cơng an

82

Hình 2.5: Cơ cấu nguồn ngồi NSNN của các CSGDĐH ngành Cơng an

89

Hình 2.6: Cơ cấu chi kinh phí thường xun ngành Cơng an

94

Hình 2.7: Các hình thức cấp phát kinh phí thường xun cho các CSGDĐH
ngành Công an

98


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Giáo dục có vai trị đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định đến sự phát triển
KTXH. Trong thời đại toàn cầu hóa, kinh tế tri thức và sự phát triển nhanh chóng của

KHCN, nhất là cơng nghệ thơng tin như hiện nay, thì GD nói chung và GDĐH nói
riêng được coi là tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy,
việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển GD một cách đúng đắn, thích hợp
với đặc điểm văn hóa, trình độ KTXH và nhu cầu của thị trường sức lao động, hội
nhập thành cơng vào q trình tồn cầu hóa được coi là ưu tiên hàng đầu trong hệ
thống chính sách cơng của tất cả các nước. Khẳng định vai trò to lớn của GD đối với
sự phát triển KTXH của đất nước, Nghị quyết TW 4 khóa VII và Nghị quyết TW2
khóa VIII, Nghị quyết TW6 khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: cùng với KHCN, GD là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho
GD là đầu tư chiều sâu, đầu tư cho sự phát triển bền vững của cá nhân và đất nước.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, tồn diện GDĐT một lần nữa khẳng định quan điểm chỉ đạo:
“GDĐT là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Đầu tư cho GD là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế
hoạch phát triển KTXH”.
Để thực hiện mục tiêu phát triển GD thì yếu tố đầu tiên khơng thể thiếu là cần
có nguồn lực tài chính đảm bảo. Tuy nhiên, khơng phải cứ chi nhiều tiền thì sẽ có nền
GD chất lượng tốt, mà vấn đề quan trọng đặt ra cho tất cả các quốc gia là trong phạm
vi giới hạn khả năng các nguồn lực tài chính hiện có, làm thế nào để nâng cao hiệu
quả khai thác, huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính trong XH cho
GD, qua đó thúc đẩy GD phát triển.
Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định, thì tồn XH cần phải quan tâm tới
việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao ở trình độ cao đẳng, ĐH và sau ĐH
nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển của đất nước. Nước ta hiện vẫn
là nước nghèo, các nguồn lực dành cho phát triển KTXH nói chung, GDĐH nói riêng
cịn rất hạn chế, trong khi nhu cầu đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp



2
hóa, hiện đại hóa là rất lớn. Trong những năm qua, mặc dù NSNN cịn khó khăn,
song Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc đầu tư cho GDĐT và tỷ trọng chi
NSNN cho GD đạt đến 20% tổng chi NSNN. Tuy nhiên, dù quy mô đào tạo tăng
nhanh, đặc biệt là GDĐH, nhưng chất lượng đào tạo còn chưa đáp ứng được yêu cầu
của XH, còn nhiều yếu kém, chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn tài chính Nhà
nước đầu tư cho lĩnh vực này. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo tại các
CSGDĐH ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Để nâng cao chất lượng đào tạo ĐH và phát triển tồn diện GDĐH địi hỏi phải
thực hiện có kết quả chương trình cải cách GDĐH. Đến lượt nó, cải cách GDĐH địi
hỏi phải có nguồn lực tài chính lớn và có chính sách tài chính đúng đắn đối với lĩnh
vực GDĐH. Điều đó đặt ra vấn đề cấp thiết là làm thế nào để có chính sách tài chính
thích hợp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn tài chính hạn hẹp
cho phát triển GDĐH nước ta. GDĐH ngành Công an với mục tiêu đào tạo nguồn lực
cán bộ có trình độ cao đẳng, ĐH và sau ĐH cho công tác đảm bảo an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự XH của đất nước cũng khơng nằm ngồi thực trạng đó của nền GDĐH
nước nhà. Chính vì vậy, việc nghiên cứu hồn thiện chính sách tài chính đối với các
CSGDĐH nói chung và các CSGDĐH ngành Cơng an nói riêng đang là vấn đề được
quan tâm hơn bao giờ hết đối với các nhà nghiên cứu, đồng thời mang ý nghĩa khoa
học và thực tiễn rất to lớn. Xuất phát từ lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Hồn thiện chính sách tài chính đối với cơ sở giáo dục đại học ngành Công an”.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chính sách tài chính đối với CSGDĐH nói chung đã được giới nghiên cứu và
các nhà quản lý rất quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Dưới các góc độ
khác nhau, những cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề có liên quan
trực tiếp đến đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ của tác giả. Nhìn chung có thể phân
chia các kết quả nghiên cứu liên quan đến chính sách tài chính đối với các CSGDĐH
theo các nội dung chính như sau:
2.1. Những vấn đề mang tính tổng thể về chính sách tài chính đối với cơ sở
giáo dục đại học

- Về phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các CSGDĐH:
+ Dưới góc nhìn tổng qt chung về HH cơng cộng nói chung, Joseph E Stiglitz
(1995) (trong cuốn Kinh tế học công cộng, phần II với tiêu đề lý thuyết về chi tiêu


3
công cộng) đã bàn về các vấn đề lý thuyết chung về HH công cộng và HH công cộng
do tư nhân sản xuất, cung cấp; sản xuất công cộng và bộ máy hành chính; phương
thức hợp đồng sản xuất, cung cấp HH, DV công cộng giữa Nhà nước và tư nhân. Đây
là những vấn đề lý luận cơ bản, làm nền tảng cho việc nghiên cứu, phát triển lý luận
về chính sách tài chính cho CSGDĐH nói chung và quyền tự chủ của các CSGDĐH
nói riêng.
+ Dưới góc nhìn đi sâu vào bản chất thực sự của quyền tự chủ, World Bank
(2012) cho rằng bản chất của tự chủ là việc Chính phủ ngày càng rút bớt vai trị trong
quản lý thường nhật, cho phép các trường ĐH được tự quyết định con đường đi của
mình, tự do quyết định về cơ chế quản lý, quản trị nội bộ, với những cơ chế khuyến
khích định hướng thị trường tối ưu hiện có. Đồng ý với quan điểm này và đi sâu phân
tích thêm dưới góc độ về quản lý tài chính, PGS.TS Phùng Xuân Nhạ và cộng sự
(2013) trong bài tham luận Đổi mới cơ chế tài chính, hướng tới nền giáo dục đại học
tiên tiến, tự chủ (Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học,
Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, UNDP, Bộ Tài chính tổ chức, tháng 11
năm 2012) cho rằng việc Nhà nước giảm cấp kinh phí thường xuyên để các trường
ĐH tự cân đối như hiện nay tại Việt Nam là giao quyền tự chủ tài chính là chưa hồn
tồn đúng với bản chất của vấn đề. Đồng thời, các tác giả cho rằng ở trạng thái tự chủ
hoàn toàn về lý thuyết, các trường sẽ được tự chủ tất cả các yếu tố tác động tới nguồn
thu và việc chi tiêu nguồn tài chính.
+ Dưới góc nhìn có tính đột phá mạnh mẽ trong tư duy, GS.TS Nguyễn Đình
Phan (2012) trong bài báo Nâng cao chất lượng giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa (Tạp chí Kinh tế & Phát triển số 128, tháng 8 năm
2012) cho rằng trong cơ chế thị trường, GDĐH là một DV đặc biệt và CSGDĐH cần

được coi như một công ty - “một thực thể được thành lập theo luật pháp và hoạt động
vì mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, do Chính phủ hay tư nhân sở hữu hoặc kiểm
sốt”. Cùng chung góc nhìn này và có những phân tích cụ thể hơn, Phạm Chí Thanh
(2011) (“Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp cơng ở Việt Nam”,
Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân), TS Nguyễn Trường Giang
(2013) trong bài tham luận Đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao chất lượng đào
tạo ĐH, thực hiện mục tiêu công bằng hiệu quả (Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ chế tài
chính đối với giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, UNDP,


4
Bộ Tài chính, tháng 11 năm 2012) cho rằng các trường ĐH cần được Nhà nước giao
vốn và bảo toàn phát triển vốn, được quyết định việc sử dụng tài sản, huy động vốn,
góp vốn liên doanh, liên kết; TS Nguyễn Ngọc Anh và các đồng sự (2013) trong bài
tham luận Cơ chế phân bổ ngân sách cho đại học công lập: hiện trạng và khuyến nghị
(Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính
- Ngân sách của Quốc hội, UNDP, Bộ Tài chính, tháng 11 năm 2012) cho rằng các
trường cần được cho phép sở hữu và tự quyết về việc sử dụng tài sản và đi vay; Lê
Phước Minh (2005) (Hồn thiện chính sách tài chính cho giáo dục đại học Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng) đã hệ thống hóa được các vấn đề lý luận
về các chiến lược tăng thu nhập, giảm chi phí và tính tốn CPĐV, tỷ lệ thu hồi trong
đầu tư trong GDĐH tương tự như một doanh nghiệp; Bùi Tiến Hanh (2007) (Hoàn
thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm thúc đẩy xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính) đề nghị thí điểm cơ chế cổ phẩn hóa nhằm chuyển
các CSGD cơng lập sang hoạt động theo mơ hình doanh nghiệp.
+ Dưới góc nhìn có tính thực tế hơn đối với GDĐH nước ta hiện nay, TS Lê
Xuân Trường (2012) (Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
giáo dục đại học và cao đẳng công lập, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Tài chính,
Học viện Tài chính) cho rằng quyền tự chủ ở mức độ cần phải vừa đảm bảo sự quản
lý của Nhà nước vừa phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo, cụ thể: thủ trưởng

các CSGDĐH được quyết định về số lượng, cơ cấu và nhân sự các đơn vị trực thuộc;
biên chế và tuyển dụng cán bộ, GV; được phân cấp bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các đơn
vị thuộc và trực thuộc; quyết định cử người tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế;
quyết định mức học phí trên cơ sở nguyên tắc bù đắp chi phí và tuân thủ mức trần học
phí quy định. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng để xử lý vấn đề mức độ phân cấp, tự
chủ hợp lý và hạn chế khả năng lạm quyền, cần phải thực hiện 04 biện pháp. Biện
pháp thứ nhất là phân loại lợp lý các đơn vị này, ngồi việc phân loại theo 3 nhóm
(NSNN tài trợ 100%; NSNN tài trợ kinh phí xây dựng ban đầu, kinh phí đầu tư phát
triển và một phần kinh phí thường xuyên; NSNN tài trợ kinh phí xây dựng ban đầu,
kinh phí đầu tư phát triển và khơng tài trợ kinh phí thường xun), cịn phải phân
theo theo lĩnh vực khoa học và ngành nghề đào tạo; theo đối tượng sử dụng nguồn
nhân lực (lĩnh vực khoa học cơ bản, sư phạm; các trường thuộc Bộ Quốc phịng và
Bộ Cơng an, nên xếp vào nhóm khơng tự chủ tài chính, tức là 100% kinh phí NSNN


5
cấp). Biện pháp thứ hai là xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực phù hợp.
Biện pháp thứ ba là tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và kiểm soát
của các cơ quan chức năng nhà nước. Biện pháp thứ tư là tăng cường thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, việc quan niệm không tự chủ đồng nghĩa với việc
100% kinh phí NSNN cấp của TS Lê Xuân Trường (2012) chưa phản ánh đúng với
bản chất của tự chủ.
+ Bằng việc tổ chức một cuộc điều tra thăm dò ý kiến, Lương Văn Hải (2011)
(Vai trò Nhà nước trong mở rộng quyền tự chủ của các trường đại học công lập Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân) đưa ra kết luận:
quyền tự chủ về quyết định mức lương là thấp nhất với 34% ý kiến cho rằng các trường
khơng có quyền này; quyền tự chủ về quyết định mức thu học phí là rất thấp với 18% ý
kiến cho rằng các trường khơng có quyền và quyền tự chủ về mức thu từ hoạt động DV
là khá cao với 46% ý kiến cho rằng các trường đã có đầy đủ quyền hạn.
- Về phương thức quản lý nguồn tài chính từ NSNN cấp cho các CSGDĐH:

+ Về phương thức quản lý NSNN theo đầu ra, TS Nguyễn Trường Giang (2013)
cho rằng cần thực hiện quản lý NSNN theo đầu ra gắn với hệ thống định mức kinh tế
kỹ thuật, các kết quả đánh giá, kiểm định độc lập về chất lượng đào tạo. Đồng thời,
thực hiện chính sách Nhà nước đặt hàng đối với những ngành đào tạo cho nhu cầu sử
dụng của Nhà nước và người học phải cam kết chấp nhận sự phân công của Nhà
nước. Đồng ý với quan điểm này, TS Vũ Nhữ Thăng và Ths Hoàng Thị Minh Hảo
(2013) trong bài tham luận Đổi mới chính sách tài chính đối với các cơ sở đại học
cơng lập gắn với tăng trưởng bền vững (Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính
đối với giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, UNDP, Bộ Tài
chính, tháng 11 năm 2012) đi vào phân tích cụ thể hơn các tiêu chí làm căn cứ phân
bổ NSNN cho các CSGDĐH theo đầu ra, gắn với các mục tiêu công bằng, hiệu quả,
nhu cầu đào tạo, cơ cấu ngành nghề đào tạo. Đồng thời, kiến nghị Nhà nước cần sớm
hồn thiện hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật, chỉ tiêu chất
lượng đầu ra, tiêu chí kiểm định chất lượng đào tạo,...
+ Về lộ trình thực hiện phương thức quản lý NSNN theo đầu ra, Bùi Tiến Hanh
(2007) (Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm thúc đẩy xã hội hóa giáo dục ở
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính) đề xuất áp dụng khn khổ
chi tiêu trung hạn, theo đó cần dự tốn đầy đủ mọi nguồn tài chính sẵn có (NSNN và


6
ngoài NSNN) cho phát triển GD từng năm và trung hạn 03 năm theo kiểu cuốn chiếu.
TS Trịnh Đình Dũng (2013) trong bài tham luận Một số vấn đề nổi lên qua nghiên
cứu bước đầu về chi tiêu NSNN cho GDĐH ở Việt Nam (Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ
chế tài chính đối với giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội,
UNDP, Bộ Tài chính, tháng 11 năm 2012) đưa ra đề xuất muộn nhất là giữa kế hoạch
5 năm (2016 - 2020) chuyển sang quản lý NSNN cho GDĐH theo đầu ra và khuôn
khổ chi tiêu trung hạn (3 - 4 năm theo cách cuốn chiếu).
+ Dưới góc nhìn thiên về các điều kiện, biện pháp cụ thể nhằm áp dụng phương
thức quản lý NSNN theo đầu ra, TS Nguyễn Ngọc Anh và các đồng sự (2013) cho

rằng để chuyển sang thực hiện phương thức quản lý NSNN theo đầu ra cần xây dựng
những yêu cầu về kết quả đào tạo, xây dựng hệ thống kế toán và hệ thống lưu trữ hồ
sơ SV để ước lượng thống nhất về CPĐV hàng năm và yêu cầu các trường ĐH phải
áp dụng hệ thống kế toán này cũng như báo cáo dự toán CPĐV hàng năm. Để phát
huy hiệu quả và đảm bảo công bằng, TS Lê Xuân Trường (2012) cho rằng trước mắt
định mức phân bổ NSNN cần xây dựng sao cho đảm bảo đủ chi phí tiền lương và các
chi phí hoạt động thường xuyên khác, ưu tiên khối kỹ thuật, nông, lâm, y, dược; về
lâu dài cần áp dụng phương thức quản lý NSNN theo kết quả đầu ra. Theo đó, các
trường phải trình lên Bộ GDĐT và chính quyền chiến lược phát triển với những mục
tiêu cụ thể và kế hoạch để đạt được mục tiêu; các cơ quan quản lý chỉ kiểm soát chặt
chẽ kế hoạch và kết quả cuối cùng. Như vậy, thay vì quản lý các khoản chi tiêu theo
khoản mục đầu vào, cơ quan quản lý nhà nước sẽ kiểm soát kết quả của việc thực
hiện nhiệm vụ được giao làm cơ sở quyết toán NSNN và giao NSNN giai đoạn sau.
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra các điều kiện áp dụng phương thức này gồm: (i) các
trường phải có cơ chế kiểm sốt đủ mạnh (kiểm soát nội bộ, từ bên trong, theo đầu ra,
kết quả, kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ thay bằng kiểm toán nội bộ
và kiểm tốn hoạt động; có quy chế chi tiêu nội bộ có hiệu lực); (ii) có cơ chế ràng
buộc trách nhiệm chặt chẽ trong sử dụng NSNN; (iii) xây dựng cơ chế đánh giá hiệu
quả hoạt động và kết quả đầu ra (thơng qua tổ chức kiểm định, khảo thí chất lượng;
kiểm soát nội bộ; người học; tổ chức độc lập). Trong giai đoạn đầu trước khi phương
thức này được áp dụng triệt để, nên kết hợp cách phân bổ theo đầu vào hiện nay (số
lượng SV tuyển sinh, số lượng giáo viên) và một phần dựa trên đầu ra, kết quả (số
lượng, chất lượng SV tốt nghiệp, sự phù hợp của việc đào tạo với nhu cầu XH,...).


7
+ Dưới góc nhìn khác có tính tổng hợp hơn, Phạm Chí Thanh (2011) đi vào so
sánh, đánh giá về quản lý chi NSNN theo phương thức đầu vào và đầu ra dựa trên 05 tiêu
chức (cơ sở lập dự toán, quản lý dự toán chi, kiểm soát chi, đánh giá kết quả chi, quyền
của đơn vị) và đi đến kết luận là phương thức quản lý theo đầu ra và kết quả cuối cùng

giúp tăng cường hiệu quả, hiệu lực chi NSNN; đặc biệt các tác động của các đầu ra, kết
quả cuối cùng đối với phát triển KTXH được phân tích, đánh giá và dự báo ngay từ khi
các khoản chi NSNN chưa được thực hiện (trong quá trình xây dựng dự tốn NSNN).
- Về hiệu quả đầu tư cho GDĐH:
+ Đặng Văn Du (2004) (Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính cho
đào tạo đại học ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính) đã đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả theo 02 nhóm gồm: thứ nhất, hiệu quả trong, đó là
việc trả lương cho GV theo số lượng và chất lượng lao động, hạ tỷ lệ SV/GV, đầu tư
cơ sở hạ tầng, giáo trình tài liệu,...; thứ hai, hiệu quả ngồi, đó là từng bước thực hiện
cơng bằng trong GDĐH, trong đó mức học phí/1SV/năm = Tổng chi thường xuyên
năm/số SV bình quân năm; phân bổ kinh phí thường xuyên từ NSNN cho trường ĐH
phải được coi là khoản kinh phí để thực hiện đơn đặt hàng và thực hiện cơ chế đấu
thầu; gắn kết giữa đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.
+ Dưới góc nhìn thiên về chính sách, TS Phạm Vũ Thắng (2013) trong bài Kết
quả nghiên cứu xác định chi phí đào tạo một sinh viên đại học Việt Nam và khuyến
nghị về chính sách tài chính GDĐH Việt Nam (Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ chế tài
chính đối với giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, UNDP,
Bộ Tài chính, tháng 11 năm 2012) cũng cho rằng các yếu tố chất lượng (tỷ lệ GV/SV,
diện tích sàn/SV) có ảnh hưởng cùng chiều đến CPĐV trong GDĐH và khi thay đổi
chính sách hoặc thực thi chính sách theo hướng nâng cao chất lượng GDĐH cần có
chính sách tài chính mới nhằm tăng nguồn lực tài chính cho GDĐH.
+ Dưới góc nhìn tổng qt hơn, TS Lê Xuân Trường (2012) đã xây dựng được
các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư chung cho GDĐH (tỷ lệ SV có việc làm trong
một khoảng thời gian nhất định sau khi tốt nghiệp; số lượng, tỷ lệ SV tốt nghiệp các
hạng; tỷ lệ SV tham gia các hoạt động khoa học; số lượng và tỷ lệ các công trình
NCKH SV đoạt giải; số lượng và tỷ lệ SV đoạt giải các cuộc thi olympic các môn học
trên tổng SV; số lượng các phát minh, sáng chế của cán bộ, giáo viên được công nhận
bởi các cơ quan nhà nước và các tổ chức quốc tế; số lượng các trích dẫn khoa học



8
được sử dụng trong nghiên cứu; số lượng các ấn phẩm khoa học được công bố; số
lượt các nhà khoa học của trường ĐH được mời tham dự các hội thảo khoa học quốc
tế hoặc mời giảng tại các trường ĐH trên thế giới). Đồng thời, tác giả còn đề xuất các
tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư tài chính áp dụng riêng đối với 03 nhóm trường ĐH,
cụ thể: các tiêu chí đánh giá gắn với mục tiêu cụ thể của từng nguồn (áp dụng đối với
nhóm 1 - NSNN tài trợ 100%); tỷ lệ thu nhập còn lại sau thuế và bù đắp chi phí; số
thu nhập bình qn tăng thêm của người lao động có được từ hoạt động cung cấp DV
(áp dụng với nhóm 1 và nhóm 2 - NSNN tài trợ kinh phí xây dựng ban đầu, kinh phí
đầu tư phát triển và một phần kinh phí thường xuyên); các chỉ tiêu liên quan đến trích
lập các quỹ và thu nhập tăng thêm (áp dụng đối với nhóm 3 - NSNN tài trợ kinh phí
xây dựng ban đầu, kinh phí đầu tư phát triển và khơng tài trợ kinh phí thường xun).
2.2. Về chính sách khai thác, huy động nguồn tài chính đối với cơ sở giáo dục
đại học
- Về việc phân bổ NSNN cho GDĐH:
+ Lê Phước Minh (2005) đã hệ thống hóa về lý luận và đưa ra các mơ hình lý
thuyết, các cách thức kết hợp trong thực tế các mô hình lý thuyết này để hình thành
nên các phương thức phân bổ, cấp phát NSNN cho GDĐH tại các nước. Đồng thời,
đề xuất giải pháp nhằm hồn thiện chính sách tài chính cho GDĐH nước ta như cải
tiến cơng thức phân bổ NSNN nhằm tăng hiệu quả đầu tư NSNN cho GDĐH.
+ Trên góc độ quản lý vĩ mơ, Bùi Tiến Hanh (2007) đề xuất ưu tiên đầu tư
NSNN có trọng điểm cho GDĐH, tập trung đầu tư cho các ĐH quốc gia, các trường
ĐH trọng điểm quốc gia. Dưới góc nhìn nhấn mạnh đến quyền tự chủ và trách nhiệm
giải trình đối với việc sử dụng NSNN của các CSGDĐH, Arthur M.Hauptman (2010)
trong bài Tài chính cho giáo dục đại học: Xu hướng và Vấn đề (Website:
cho rằng yếu tố trọng tâm trong trách nhiệm giải trình

là cần chuyển sang áp dụng phương thức “cung cấp tài chính theo hoạt động” và
“chiến lược dựa vào thị trường”.
- Về cải tiến cơ cấu nguồn tài chính:

+ Với mục tiêu nâng cao hiệu quả các nguồn tài chính từ NSNN, TS Vũ Nhữ
Thăng và Ths Hoàng Thị Minh Hảo (2013) cho rằng cần đổi mới cơ cấu chi NSNN
cho GDĐH trên cơ sở tăng chi đầu tư XDCB, giảm dần chi cho bộ máy và hoạt động
thường xuyên.


9
+ Dưới góc nhìn rộng hơn, Phạm Chí Thanh (2011) cho rằng cần phải từng
bước chuyển đổi sang cơ chế hạch tốn đủ chi phí đào tạo, người học phải đóng đủ
chi phí; Nhà nước khơng cấp kinh phí thường xuyên, trước mắt tiếp tục đầu tư cơ sở
vật chất, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên; khi có điều kiện phù hợp tiến tới việc
Nhà nước không cấp kinh phí trực tiếp cho các trường.
- Về việc thu học phí GDĐH:
+ Dựa trên quan điểm coi học phí là nguồn thu của NSNN và là khoản tiền bù
đắp sự thiếu hụt mà NSNN không đủ trang trải cho nhà trường, Trần Xuân Hải
(1999) (Giải pháp tạo vốn đầu tư phát triển sự nghiệp đào tạo trong giai đoạn hiện
nay ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Tài chính - Kế tốn) đề
xuất tăng cường thu hồi chi phí cá nhân đối với GDĐH (tức là tăng học phí), Bùi Tiến
Hanh (2007) đề nghị tăng tỷ lệ thu hồi chi phí thơng qua chính sách học phí (mức học
phí cần dựa trên chi phí cần thiết để bảo đảm hoạt động GD đạt mức chuẩn chất
lượng cần thiết và phù hợp với khả năng đóng góp của người học).
+ Tuy nhiên, dưới góc nhìn mới (coi học phí là giả cả của DV GDĐH), TS Vũ
Nhữ Thăng và Ths Hoàng Thị Minh Hảo (2013), Phạm Chí Thanh (2011), TS Lê Xuân
Trường (2012),... đề nghị chuyển đổi chính sách học phí hiện nay sang thực hiện chính
sách giá DV dạy học. Phân tích sâu hơn về quan điểm này, PSG.TS Nguyễn Ngọc Vũ
(2013) trong bài tham luận Thực trạng tình hình thí điểm tự chủ tài chính ở các
CSGDĐH - Một số vấn đề đặt ra (Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với
giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, UNDP, Bộ Tài chính,
tháng 11 năm 2012) cho rằng đối với các ngành có khả năng XH hóa cao, các trường
được tự xây dựng mức thu học phí trên cơ sở từng bước tính tốn đầy đủ chi phí đào

tạo, tiến tới ngun tắc lấy thu đủ bù đắp chi phí đào tạo; GS.TS Trần Thọ Đạt (2013)
trong bài tham luận Một số nội dung cơ bản đề xuất đổi mới cơ chế hoạt động theo
hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (Kỷ yếu Hội
thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính - Ngân sách
của Quốc hội, UNDP, Bộ Tài chính, tháng 11 năm 2012) cho rằng cần giao cho các
trường được chủ động quyết định các mức học phí theo nguyên tắc đủ bù đắp chi phí
thường xun, sau đó tiến tới bù đắp cả các chi phí khác trong hoạt động phát triển của
trường; PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt (2013) trong bài tham luận Đánh giá tình hình
thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh


10
(Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính
- Ngân sách của Quốc hội, UNDP, Bộ Tài chính, tháng 11 năm 2012) cho rằng mức
học phí cần xác định dựa trên chất lượng của các trường, tránh cào bằng như hiện nay
và được điều chỉnh theo những biến động của nền kinh tế; mức học phí được tính tốn
dựa trên chi phí đầu vào và quyết định mức thu học phí đủ để bù đắp chi phí hoạt động
thường xun và có tích lũy; TS Vũ Nhữ Thăng và Ths Hồng Thị Minh Hảo (2013)
cho rằng học phí cần tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo, bước đầu tính đủ chi phí tiền
lương, chi phí hoạt động thường xuyên trên cơ sở khung giá Nhà nước quy định, tiến
tới bao hàm cả chi phí khấu hao và việc xây dựng theo hướng thị trường; TS Phạm Vũ
Thắng (2013) cho rằng quy định về mức học phí khơng nên cứng mà nên linh hoạt, có
thể theo mức lương cơ bản (là hệ số trong cơng thức học phí).
+ Cũng với quan điểm coi học phí là giá cả của DV GDĐT và chính sách học
phí cần tiến gần hơn với các nguyên tắc thị trường, TS Lê Xuân Trường (2012) cho
rằng cần trao cho các trường quyền định mức học phí và mức học phí có sự khác biệt
giữa các trường do phụ thuộc vào nhu cầu của XH và chất lượng đào tạo; trong điều
kiện trước mắt do những hạn chế về công tác quản lý và thị trường lao động, cần có
giới hạn trần học phí, song phải nghiên cứu kỹ để trần học phí đảm bảo cho các
trường thu hồi được chi phí bỏ ra, đảm bảo đời sống người lao động, cán bộ, giáo

viên, các chi phí trang thiết bị, cơ sở vật chất; về lâu dài, khi công tác quản lý nhà
nước tốt và thị trường lao động lành mạnh, thì học phí ĐH không giới hạn trần.
+ Với cách tiếp cận coi học phí như là thu nhập của doanh nghiệp, Phạm Chí
Thanh (2011) cho rằng học phí phải bù đắp đủ các chi phí hoạt động của trường (như
tiền lương giáo viên, chi phí quản lý, vật tư tiêu hao, chi phí khấu hao) theo 02 giai
đoạn: (i) đủ bù đắp các khoản chi phí thường xuyên (chưa tính khấu hao tài sản); (ii)
đủ bù đắp tồn bộ chi phí dạy học (bao gồm cả chi phí khấu hao).
+ Mặc dù đồng ý về việc chuyển sang cơ chế giá DV GDĐH, song PGS.TS
Phạm Ngọc Dũng, Ths Chử Thị Hải (2012) trong bài Đổi mới cơ chế tài chính đối với
các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam hiện nay (Tạp chí Nghiên cứu Tài
chính kế tốn số 09(110) - 2012) cho rằng Nhà nước cần quy định khung giá theo
từng cấp học, bậc học, ngành học; đối với hoạt động đào tạo theo nhu cầu và đặt hàng
của XH, được thu mức học phí tăng thêm tương ứng với phần giá trị DV gia tăng so
với tiêu chuẩn quy định.


11
- Về việc XH hóa các nguồn lực cho GDĐH:
+ Trần Xuân Hải (1999) cho rằng cần huy động nguồn vốn từ nội bộ CSĐT
thông qua các hợp đồng cung cấp DV GDĐT, NCKH, khuyến khích sự đóng góp, tài
trợ của các tổ chức, cá nhân,...
+ TS Lê Xuân Trường (2012) tổng kết được thành hai phương thức thực hiện
XH hóa các nguồn lực cho GDĐH, cụ thể: thứ nhất, liên kết giữa trường với các
doanh nghiệp, tổ chức (người sử dụng lao động) thông qua hỗ trợ học bổng, kinh phí
đào tạo và đặt ra yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của SV để trường có định hướng đào
tạo phù hợp và lựa chọn những SV giỏi, trao đổi các cán bộ tham gia một số nội dung
giảng dạy; thứ hai, huy động từ đội ngũ cán bộ, giáo viên của trường thơng qua góp
vốn cổ phần.
+ GS.TS Hoàng Văn Châu (2013) trong bài tham luận Tự đảm bảo kinh phí
trường ĐH ngoại thương và đề xuất cơ chế tài chính (Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới cơ

chế tài chính đối với giáo dục đại học, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội,
UNDP, Bộ Tài chính, tháng 11 năm 2012) cho rằng đối với các chương trình đào tạo,
cung cấp DV theo nhu cầu XH, các mức thu và khoản thu được xây dựng dựa trên cơ
sở thỏa thuận, đảm bảo cân đối các khoản chi và có tích lũy.
2.3. Về chính sách phân phối, sử dụng nguồn tài chính đối với cơ sở giáo dục
đại học
- Về việc phân phối, sử dụng nguồn tài chính đối với các CSGDĐH thực hiện
chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm hiện nay ở nước ta: Bùi Tiến Hanh (2007) đề nghị
bỏ quy định giới hạn trần về tổng thu nhập hàng năm trả cho người lao động trong
các CSGD công lập thực hiện cơ chế tự chủ; cụ thể hóa quy định về trách nhiệm của
CSGD công lập trong việc tự bảo đảm nguồn thực hiện điều chỉnh chế độ tiền lương
theo quy định của Chính phủ, quyết định mức chi quản lý và hoạt động nghiệp vụ.
- Về CPĐV trong GDĐH: dựa trên các tính toán của các chuyên gia WB về mối
tương quan giữa CPĐV và GDP-đn, GS. Phạm Phụ (2012) trong bài Đổi mới căn bản
về tài chính cho giáo dục đại học Việt Nam (Http://www.vncold.vn) đã vận dụng vào
tính tốn CPĐV hợp lý của GDĐH nước ta vào năm 2011 khoảng 1.200 USD và so
sánh với CPĐV thực tế năm 2010 là 550 USD (bao gồm kinh phí từ NSNN phân bổ và
tiền đóng góp từ học phí) để đưa ra kết luận CPĐV của GDĐH Việt Nam hiện quá
thấp, đồng thời đề xuất các giải pháp đổi mới chính sách tài chính cho GDĐH nước ta


12
trong những năm tới theo hướng: tăng học phí lên khoảng 3,5 lần hiện nay (khoảng 750
- 800 USD/năm), kết hợp với phát triển chương trình cho SV vay vốn và dành tỷ lệ
thích hợp nguồn vốn vay quốc tế cho chương trình này, chuyển từ phương thức cấp
phát NSNN cho SV thông qua CSGDĐH sang cấp trực tiếp cho SV thông qua “Phiếu
trợ cấp GD”. TS Phạm Vũ Thắng (2013) đã tính tốn và khẳng định CPĐV thực tế
GDĐH Việt Nam rất thấp so với mặt bằng quốc tế và CPĐV hợp lý (giá năm 2010)
được ước lượng theo 3 kịch bản thấp, trung bình, cao theo 08 nhóm ngành, trong đó: (i)
nhóm ngành cao nhất (Y dược) là 18,09 triệu đồng, 31,10 triệu đồng, 47,35 triệu đồng;

(ii) nhóm ngành thấp nhất (Kinh tế và Luật) là 7,80 triệu đồng, 13,41 triệu đồng, 20,42
triệu đồng; (ii) trung bình là 11,6 triệu đồng, 19,945 triệu đồng, 30,365 triệu đồng.
Đồng thời, tác giả khẳng định rằng tốc độ tăng CPĐV hợp lý để chuyển từ chất lượng
thấp đến chất lượng trung bình và chất lượng cao (với tỷ lệ lạm phát giả định là 5%)
như sau:
(i) Kịch bản thay đổi chậm, để đạt mức chất lượng trung bình vào năm 2025, địi
hỏi tốc độ tăng CPĐV hàng năm của mỗi nhóm ngành trong khoảng từ 8,9% (ngành
Y dược) đến 14,8% (Công nghệ và Kỹ thuật).
(ii) Kịch bản thay đổi trung bình, để đạt mức chất lượng trung bình vào năm
2020, địi hỏi tốc độ tăng CPĐV hàng năm của mỗi nhóm ngành trong khoảng từ
10,9% (ngành Y dược) đến 20,0% (ngành Công nghệ và Kỹ thuật).
(iii) Kịch bản thay đổi nhanh, để đạt mức chất lượng trung bình vào năm 2015,
địi hỏi tốc độ tăng trưởng CPĐV hàng năm của mỗi nhóm ngành từ 17,02% (Y
dược) đến 37,09% (Cơng nghệ và Kỹ thuật).
- Về chế độ chi NCKH:
+ Để nâng cao hiệu quả việc sử dụng nguồn NSNN chi cho NCKH, phù hợp với
xu thế phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các CSGDĐH, GS.TS
Trần Thọ Đạt (2013) đã kiến nghị cho phép các trường ĐH triển khai áp dụng quy
chế quản lý kinh phí NCKH và các DV tư vấn theo hướng giảm các thủ tục hành
chính, khốn chi tiêu để tăng tính chủ động của chủ nhiệm đề tài, dự án.
+ Dưới góc nhìn rộng hơn, Bùi Tiến Hanh (2007) cho rằng cần xây dựng và
hoàn thiện cơ chế hợp đồng, đấu thầu đối với các đề tài NCKH; TS Nguyễn Ngọc
Anh và các đồng sự (2013) cho rằng phân bổ ngân sách cho NCKH ở các trường nên
dựa trên cơ chế đấu thầu cạnh tranh, kinh nghiệm và năng lực nghiên cứu của các ứng


13
viên, phương pháp nghiên cứu, sáng kiến trong các đề xuất dự án, triển vọng về lợi
ích quốc gia và tiềm năng có thể cơng bố ấn phẩm quốc tế.
Đánh giá chung về các cơng trình khoa học đã cơng bố có liên quan đến đề

tài nghiên cứu của Luận án:
Dưới nhiều giác độ khác nhau, các bài báo, tham luận khoa học, đề tài NCKH,
luận án tiến sĩ gần đây đã đi vào phân tích khá tồn diện các nội dung của chính sách
tài chính đối với các CSGDĐH. Trong đó đã gợi mở nhiều vấn đề có liên quan đến
việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện chính sách tài chính đối
với CSGDĐH ngành Công an như việc thay đổi tư duy về quan niệm GDĐH là một
loại HH, DV và Nhà nước cấp kinh phí cho GDĐH (hệ chính quy) cần được quan
niệm là việc Nhà nước thanh tốn kinh phí đào tạo theo đơn đặt hàng của Nhà nước,
áp dụng đấu thầu, giao hợp đồng đặt hàng đào tạo và cung cấp DV NCKH; đổi mới
phương thức quản lý NSNN theo hướng chuyển từ quản lý theo các yếu tố đầu vào
sang quản lý theo kết quả đầu ra; cần tăng cường tự chủ tài chính cho các CSGDĐH;
XH hóa các nguồn tài chính từ liên doanh, liên kết, cung cấp DV cho nhu cầu XH;
phương pháp xác định CPĐV,... Tuy nhiên, các gợi mở này liên quan nhiều hơn đến
hệ ĐH dân sự, liên kết đào tạo vừa làm vừa học và cung cấp các DV khác cho nhu
cầu XH, chưa đi vào phân tích và đề xuất các giải pháp về chính sách tài chính cụ thể,
phù hợp với đặc thù trong hoạt động của các CSGDĐH ngành Công an như:
- Đa số các ngành nghề đào tạo của các CSGDĐH ngành Cơng an đều là các
ngành đặc thù, tính XH hóa thấp, rất khó để tìm được cơ sở GDĐH ngành dân sự có
thể đáp ứng được. Vì vậy, Bộ Cơng an tiếp tục tài trợ 100% kinh phí cho hoạt động
đào tạo của các CSGDĐH ngành Công an, chi phí ăn ở, sinh hoạt, học tập cho SV
(đảm bảo các yếu tố đầu vào) và đảm bảo các yếu tố đầu ra (bố trí cơng tác cho SV
tốt nghiệp) là phù hợp. Song cũng cần có sự thay đổi quan niệm, trong đó cần coi đây
là đơn đặt hàng theo nhu cầu của Bộ Công an đối với các CSGDĐH và phương thức
cấp kinh phí khơng thể áp dụng giống như cấp phát kinh phí cho các đơn vị sử dụng
ngân sách thông thường trong ngành Công an mà cần coi như là hình thức Bộ Cơng
an thanh tốn kinh phí theo hợp đồng, đơn đặt hàng cho các CSGDĐH.
- Các CSGDĐH ngành Công an hiện vẫn được coi là đơn vị dự tốn sử dụng
NSNN thơng thường trong ngành Công an và chưa được áp dụng mô hình đơn vị SN
cơng lập như đối với các CSGDĐH ngành GD và các ngành dân sự khác. Vì vậy,



14
mặc dù chính sách tài chính đối với các đơn vị này được Bộ Công an nghiên cứu đổi
mới khá nhiều (như tăng cường phân cấp, giao quyền tự chủ,...), song mức độ phân
cấp, giao quyền tự chủ vẫn còn rất hạn chế, không thể theo kịp chế độ tự chủ, tự chịu
trách nhiệm đang áp dụng đối với các đơn vị SN công lập trong ngành GD và các
ngành dân sự khác và yêu cầu thực tế đòi hỏi trong quản trị các CSGDĐH ngành
Cơng an hiện nay.
- Chính do mơ hình đơn vị sử dụng ngân sách thơng thường, nên q trình lập
dự tốn, phân bổ NSNN cho các CSGDĐH ngành Công an dựa trên các yếu tố đầu
vào và sự thương lượng với cơ quan tài chính của Bộ Cơng an hiện đang áp dụng
mang nặng tính bao cấp, khơng khuyến khích việc nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn kinh phí được cấp. Mặc khác, các cơ quan chức năng có thẩm quyền của Bộ
Cơng an cũng chưa ban hành suất chi phí đào tạo hàng năm (CPĐV) làm cơ sở để
xây dựng dự toán, phân bổ và cấp phát, quản lý được khoa học, chặt chẽ. Đồng thời,
do chưa ban hành suất chi phí đào tạo hàng năm nên thực tế ngành Công an chưa
triển khai chế độ thu hồi chi phí đào tạo đối với SV, cán bộ được thụ hưởng kinh phí
đào tạo, song lại không phục vụ trong ngành Công an đủ thời gian theo yêu cầu.
- Các CSGDĐH ngành Công an chưa được tự chủ trong khai thác, huy động và
phân phối, sử dụng nguồn thu học phí hệ liên kết vừa làm vừa học. Đây là hệ đào tạo
theo nhu cầu của Công an các đơn vị, địa phương và cán bộ, chiến sĩ Công an (không
phải chỉ tiêu đào tạo do Bộ Công an giao và đảm bảo kinh phí đào tạo), song Bộ
Cơng an quy định cụ thể về mức học phí, nội dung chi tiêu, nên gây khó khăn cho các
CSGDĐH ngành Cơng an trong việc huy động và sử dụng nguồn này phục vụ cho
phát triển SN GDĐT của mình, cũng như chưa phù hợp với nguyên tắc chia sẻ chi phí
giữa người học và Nhà nước đối với hệ đào tạo này.
- Hiện nay Bộ Cơng an đã vận dụng các quy định của Chính phủ trong việc sắp
xếp trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước, di dời các trường ĐH ra
ngoại thành và phương thức đầu tư theo hợp đồng BT để triển khai thực hiện dự án
xây dựng trường ĐHKTHC. Hiện dự án đã hoàn thành giai đoạn I, song quá trình

triển khai thực hiện đã nảy sinh nhiều khó khăn, bất cập địi hỏi cần nghiên cứu, đánh
giá và có kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm sớm hồn thiện chính sách này, từ đó
giúp cho việc khai thác, huy động có hiệu quả nguồn vốn của các nhà đầu tư cho thực


15
hiện thành công các dự án đầu tư xây dựng cơ sở mới cho các trường ĐH ngành
Công an đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Giáo viên trong các CSGDĐH ngành Công an và Quân đội hiện nay chưa
được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo theo quy định của Chính phủ.
Mặt khác, đa số các lực lượng Công an hiện nay đã được hưởng chế độ phụ cấp ưu
đãi nghề, phụ cấp đặc thù, tiền ăn nặng nhọc, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc,
nguy hiểm, thì chế độ tiền lương, phụ cấp của giáo viên trong các CSGDĐH ngành
Cơng an hiện cịn khá thấp, chưa có tác dụng khuyến khích, động viên đội ngũ giáo
viên yên tâm công tác.
- Tiền thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản, sau khi trừ đi chi phí liên quan (trừ
quyền sử dụng đất và tài sản trên đất) theo quy định của Nghị định số 106 thì Bộ
Cơng an được sử dụng theo quy định của pháp luật về NSNN, song đến nay vẫn chưa
có quy định cụ thể về phân cấp cho các đơn vị dự toán quản lý, sử dụng, nên trên thực
tế các CSGDĐH ngành Công an (cũng như các đơn vị dự tốn khác) đều nộp tồn bộ
vào kho bạc nhà nước.
Tóm lại, có thể khẳng định từ trước tới nay chưa có cơng trình khoa học nào đi
vào nghiên cứu tổng quan chung về chính sách tài chính đối với GDĐH ngành Cơng
an và việc lựa chọn đề tài “Hồn thiện chính sách tài chính đối với CSGDĐH ngành
Cơng an” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả là không trùng lắp
với bất kỳ cơng trình khoa học nào đã cơng bố.
3. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm: (i) Tổng kết và hệ thống hóa những
vấn đề lý luận về vai trò của GDĐH đối với phát triển KTXH và chính sách tài chính
đối với CSGDĐH ngành Cơng an; (ii) Phân tích, đánh giá về tình hình thực hiện các

chính sách tài chính đối với CSGDĐH ngành Cơng an trong những năm vừa qua,
trong đó tập trung vào chính sách khai thác, huy động nguồn tài chính và chính sách
phân phối, sử dụng nguồn tài chính đối với các đơn vị này; (iii) Trên cơ sở định
hướng phát triển hệ thống GDĐH ngành Công an đến năm 2020; những đánh giá về
tình hình thực hiện các chính sách tài chính đối với CSGDĐH ngành Cơng an những
năm vừa qua để đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện chính sách tài chính đối với
các CSGDĐH ngành Công an trong những năm tới (từ nay đến năm 2020).


16
Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, luận án cần tập trung vào việc hệ
thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách tài chính đối với CSGDĐH nói
chung, phân tích thực trạng về chính sách tài chính đối với CSGDĐH ngành Cơng an
Việt Nam để rút ra được những những ưu điểm, kết quả đạt được và những hạn chế,
bất cập, cũng như các nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Qua đó luận án đề
xuất được các giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập nhằm hồn thiện chính
sách tài chính đối với CSGDĐH ngành Cơng an Việt Nam trong những năm tới. Nói
một cách khác, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá các cơ sở lý
luận và thực tiễn để nhằm trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:
Câu hỏi 1: Nội hàm khái niệm và các bộ phận cấu thành của chính sách tài
chính đối với CSGDĐH là gì? Để phát huy vai trị thúc đẩy sự phát triển của GDĐH,
thì chính sách tài chính đối với CSGDĐH phải đáp ứng các yêu cầu gì?
Câu hỏi 2: Cơ sở lý luận cho sự hình thành các nguồn tài chính cho CSGDĐH?
Làm thế nào để tăng cường khai thác, huy động các nguồn tài chính cho GDĐH và
đảm bảo việc phân phối, sử dụng các nguồn tài chính hợp lý, hiệu quả?
Câu hỏi 3: Chính sách tài chính đối với CSGDĐH ngành Cơng an nước ta trong
những năm vừa qua có những đặc điểm đặc thù nào?
Câu hỏi 4: Chính sách tài chính đối với CSGDĐH ngành Cơng an nước ta trong
những năm vừa qua có những kết quả và hạn chế gì?
Câu hỏi 5: Các giải pháp để phát huy kết quả, khắc phục hạn chế của chính sách

tài chính đối với CSGDĐH ngành Công an trong thời gian tới?
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách tài chính
đối với các CSGDĐH, bao gồm chính sách khai thác, huy động nguồn tài chính và
chính sách phân phối, sử dụng nguồn tài chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu về chính sách tài chính đối
với các CSGDĐH.
- Về không gian và thời gian: trên cơ sở vận dụng lý luận, kinh nghiệm quốc tế
để phân tích, đánh giá thực trạng chính sách tài chính đối với CSGDĐH ngành Công
an Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 - 2013 để đề xuất các giải pháp nhằm hoàn


×