LỜI MỞ ĐẦU
Hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ đã hun đúc lên nhiều truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, như truyền thống đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu
nước thương nòi, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau…Việt Nam là một dân tộc đã trải
qua hàng ngàn năm chế độ phong kiến, gần 100 năm dưới chế độ thực dân, lại tập
trung vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và đang trong giai đoạn đầu của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã. Vì vậy, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng rất sâu
đậm trong xã hội cũng như nhận thức, kinh nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật và
quản lý xã hội theo pháp luật của nước ta còn nhiều yếu kém. Thời gian gần đây,
những biểu hiện coi thường pháp luật, bất tuân pháp luật, nhiều người cố tìm mọi
cách để lách luật, tìm ra những kẽ hở và hạn chế của pháp luật để đạt được mục
đích của mình. Thái độ coi thường pháp luật trong nhân dân ngày càng phản ánh rõ
nét, dẫn đến những hành vi trái với quy định của pháp luật. Hiện nay, diễn biến về
tội phạm hình sự ngày càng gia tăng, nhiều vụ án giết người, cướp tài sản do người
dân gây ra với mức độ nghiêm trọng thường xuyên xảy ra. Tệ nạn ma túy, mại
dâm, bài bạc diễn ra khắp mọi nơi. Đặc biệt một bộ phận CB, ĐV đã lợi dụng
quyền hạn há nhân cố ý làm trái, vi phạm pháp luật để lại hậu quả nghiêm trọng,
làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng, tác động xấu đến dư luận xã hội. Nổi cộm là:
vụ tham ô tài sản xảy ra tại Vinalines; tham ô tài sản, lợi dụng chức vụ, quyền hạn
tại Cơng ty cho th tài chính II thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn; vụ bầu Kiên; vụ Huỳnh Thị Huyền Như và gần đây nhất là vụ Trịnh Xuân
Thanh…v.v..Xuất phát từ những vấn đề thời sự như trên, tôi lựa chọn chủ đề: “
Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay”. Nội dung tiểu luận sẽ là cơ sở lý luận để bản thân tơi vận dụng vào q
trình giáo dục chính trị, nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà
nước cho bộ đội tại đơn vị cơng tác sau này.
Trong q trình thực hiện tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chu đáo
của thầy giáo Đại tá, Tiến Sỹ Lê Văn Tân - Giảng viên khoa lý luận Mác - Lênin
Học viện Hải qn đã tạo điều kiện để tơi hồn thành tiểu luận.
Mặc dù đã có cố gắng hết sức nhưng cũng khơng tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Bởi vậy tơi rất mong được sự góp ý của q thầy cơ trong bộ mơn cùng
tồn thể các đồng chí để tiểu luận của tơi được bổ sung và hồn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
1
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1.1. Những nội dung cơ bản về Nhà nước
1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc của Nhà nước
Vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lĩnh
vực xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: “Nhà nước là
một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội nhằm thể hiện và bảo vệ trước
hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội”.
Triết học Mác - Lênin khẳng định Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó ra đời
cùng với sự ra đời của giai cấp và sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó khơng cịn.
Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, do dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
nên chưa có giai cấp và Nhà nước. Lực lượng sản xuất phát triển, chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất ra đời, xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu
tranh giai cấp khơng thể điều hồ được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai
cấp chẳng những tiêu diệt nhau mà cịn tiêu diệt ln cả xã hội. Để thảm họa đó
khơng diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời, đó là Nhà nước.
Như vậy, Nhà nước không phải là cái bẩm sinh sẵn có, khơng phải là cái được
sinh ra bên ngoài xã hội, áp đặt vào xã hội. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước là tất
yếu khách quan. Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời của Nhà nước đó là sự phát triển
của lực lượng sản xuất vật chất dẫn đến sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được. Lênin đã khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà,
về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được, thì Nhà
nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ rằng những mâu
thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”. Chừng nào mà xã hội còn tồn tại chế độ
tư hữu và đối kháng giai cấp, thì chừng đó Nhà nước cịn tồn tại. Nhà nước ra đời
gắn liền với sự ra đời của chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đó là quy luật phổ
biến của lịch sử xã hội loài người. Tuy nhiên, do điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của
mỗi nước mà q trình hình thành Nhà nước cũng có những nét đặc thù riêng.
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
2
1.1.2. Bản chất của Nhà nước
Trong lịch sử triết học có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của Nhà
nước: Các nhà xã hội học Tư sản cho rằng Nhà nước là người trọng tài công minh
bảo vệ lợi ích cho mọi người, là tổ chức phi giai cấp và mãi cần cho xã hội. Quan
điểm đó đã xóa nhoà mâu thuẫn giai cấp, biện hộ cho sự thống trị và bóc lột của
giai cấp nắm trong tay bộ máy Nhà nước. Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng
“Nhà nước là một bộ máy xã hội do giai cấp thống trị lập nên nhằm hợp pháp hoá
và củng cố sự áp bức của mình đối với giai cấp đối lập”. Về bản chất, Nhà nước
chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dựng để trấn áp một giai cấp
khác. Đó là bản chất của Nhà nước theo nguyên nghĩa, Nhà nước của giai cấp
thống trị. Theo bản chất đó, Nhà nước khơng phải là lực lượng điều hoà sự xung
đột giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt. Nhà
nước là bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng. Mọi hoạt động kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội do Nhà nước tiến hành đều xuất phát từ lợi ích của
giai cấp nắm trong tay bộ máy Nhà nước. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho
dù được che đậy dưới hình thức tinh vi như thế nào, thì Nhà nước trong mọi xã hội
có giai cấp đối kháng cũng chỉ là cơng cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
1.1.3. Đặc trưng của Nhà nước
Theo Ph. Ăngghen, bất kỳ Nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định: Nhà nước được
hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú. Quyền lực Nhà
nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ. Mỗi Nhà nước được xác định
bằng một biên giới quốc gia nhất định.
Nhà nước có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính
cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội: Khác với các cơ quan điều hành
công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, Nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có
bộ máy quyền lực chuyên nghiệp như những đội vũ trang đặc biệt” (như quân đội
nhà nghề, cảnh sát vũ trang), nhà tù, và những cơ quan cưỡng bức…
Nhà nước đặt ra thuế khoá và thực hiện việc thu thuế dưới hình thức bắt
buộc là chủ yếu để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị: Bộ máy Nhà nước sẽ
khơng tồn tại nếu khơng có nguồn ni dưỡng từ thuế khố. Thơng qua việc thực
hiện chính sách thuế khố, quốc trái và các hình thức bóc lột khác, Nhà nước của
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
3
giai cấp thống trị, bóc lột đã thể hiện rõ khơng những là cơng cụ trấn áp giai cấp
mà cịn là cơng cụ thực hiện sự bóc lột giai cấp.
1.2. Chức năng và vai trò kinh tế của Nhà nước
1.2.1. Chức năng cơ bản của Nhà nước
Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, Nhà nước có chức năng thống
trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của
quyền lực, Nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại.
Chức năng chính trị và chức năng xã hội của Nhà nước: Chức năng chính trị
của Nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp. Chức năng xã
hội của Nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích chung của cộng đồng
quốc gia trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị. Hai chức năng này tồn tại trong
mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, trong đó chức năng chính trị là quyết
định tính chất, phạm vi, mức độ, hiệu quả thực hiện chức năng xã hội, nhưng chức
năng xã hội của Nhà nước lại giữ vai trò là cơ sở cho việc thực hiện chức năng
chính trị; đảm bảo cho việc thực hiện chức năng chính trị một cách có hiệu quả.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại: Chức năng đối nội là chức năng
xây dựng, củng cố, phát triển và bảo vệ một chế độ kinh tế - xã hội nhất định phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại là chức năng bảo vệ
biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội
với các nước. Hai chức năng trên khơng tách rời nhau, trong đó chức năng đối nội
quyết định chức năng đối ngoại.
Như vậy Nhà nước thực hiện các chức năng của mình đều xuất phát từ lợi
ích của giai cấp thống trị.
1.2.2. Vai trò kinh tế của Nhà nước
Nhà nước với tư cách là một yếu tố cơ bản của kiến trúc thượng tầng, ln
có tác động toàn diện tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Thực tế hiện
nay cho thấy, trong các xã hội có nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ hiện
đại thì vai trị kinh tế của Nhà nước ngày càng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng.
Xét trong tính tổng thể của cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, vai trị tác
động của Nhà nước đối với kinh tế thuộc phạm vi mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và thiết chế chính trị, pháp luật của kiến trúc thượng tầng. Vai trị của
Nhà nước đối với q trình phát triển kinh tế thể hiện ngay trong lơgíc khách quan
của sự ra đời Nhà nước. Nhà nước ra đời nhằm duy trì trật tự xã hội theo ý chí của
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
4
giai cấp nắm tư liệu sản xuất của xã hội, nhờ đó mà duy trì được tính ổn định của
q trình sản xuất xã hội và giai cấp thống trị có thể thực hiện được sự bóc lột kinh
tế đối với giai cấp những người lao động.
Việc các giai cấp thống trị tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với
dân cư, suy đến cùng là nhằm duy trì ổn định xã hội để có thể thực hiện một kiểu
phương thức sản xuất nhất định phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Nếu đời
sống chính trị, xã hội khơng ổn định thì khơng thể phát triển kinh tế.
Theo lý luận như vậy có thể thấy bất cứ Nhà nước nào trong lịch sử cũng
đều có vai trị đối với q trình phát triển kinh tế. Nhưng khi nền kinh tế thị trường
được xác lập mà tiêu biểu là nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa (TBCN) thì
vai trị của Nhà nước đối với phát triển kinh tế càng tăng và bộc lộ rõ nét hơn so
với các Nhà nước phong kiến và chủ nơ trước đây.
1.3. Các kiểu và hình thức Nhà nước trong lịch sử
1.3.1. Các kiểu và hình thức Nhà nước dựa trên sự đối kháng giai cấp
Kiểu Nhà nước chính là muốn nói đến Nhà nước ấy là của giai cấp nào, tồn
tại trên cơ sở kinh tế xã hội nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào. Lịch
sử nhân loại đã trải qua ba hình thái kinh tế - xã hội dựa trên sự đối kháng giai cấp
đó là: hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong
kiến và hình thái kinh tế - xã hội TBCN. Tương ứng với ba hình thái đó là ba kiểu
Nhà nước: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến và Nhà nước TBCN.
Nhà nước chủ nô: là kiểu Nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự
chuyên chế đối với giai cấp nô lệ và tầng lớp dân tự do.
Nhà nước phong kiến: là kiểu Nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến
nhằm thống trị giai cấp nông dân và những người lao động khác.
Nhà nước tư bản: là kiểu Nhà nước thích ứng với hình thái kinh tế - xã hội
TBCN, nó là kiểu Nhà nước mang bản chất thống trị của giai cấp tư sản đối với
giai cấp công nhân và Nhân dân lao động nói chung.
1.3.2. Kiểu Nhà nước chun chính vơ sản trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
và xét địa vị kinh tế của giai cấp đó trong nền sản xuất hiện đại, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng, để xây dựng một xã hội khơng có giai
cấp, khơng có người bóc lột người, sau khi đập tan Nhà nước của giai cấp tư sản,
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
5
giai cấp vô sản phải tổ chức ra Nhà nước của mình. Mác viết: “…giữa xã hội
TBCN và xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị, và
Nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun chính cách
mạng của giai cấp vô sản”.
Nhà nước do giai cấp vô sản tổ chức ra (Nhà nước XHCN) là Nhà nước kiểu
mới, khác về bản chất so với các Nhà nước của các giai cấp bóc lột trước đây.
Một là: Trước hết, Nhà nước XHCN là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của
Đảng của giai cấp vơ sản.
Nhà nước XHCN có sự thống nhất giữa hai chức năng: trấn áp và tổ chức
xây dựng, trong đó chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu. Có thể khái quát Nhà
nước chuyên chính vơ sản (Nhà nước XHCN) với ba đặc điểm lớn:
Đây là kiểu Nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội (CNXH). Nó được xác lập sau khi giai cấp vơ sản và nhân dân lao
động làm cách mạng xóa bỏ Nhà nước của các giai cấp bóc lột và nó tự tiêu vong
khi xây dựng thành cơng chủ nghĩa cộng sản.
Hai là: Đây là kiểu Nhà nước mang bản chất giai cấp vơ sản, được xây dựng
và hồn thiện theo mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế - xã hội; tổ chức nhân dân
lao động xây dựng thành công xã hội mới XHCN; trên cơ sở liên minh cơng nơng
và trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vơ sản.
Ba là: Đây là kiểu Nhà nước khơng chỉ có chức năng trấn áp mọi thế lực
chống đối công cuộc xây dựng CNXH mà quan trọng hơn là tổ chức xây dựng một
nền kinh tế mới, xã hội mới, XHCN.
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
6
Chương 2
THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
2.1.1 Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Khái niệm NNPQ có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng chung quy lại
NNPQ là khái niệm bao hàm những nội dung rất phong phú, chứa đựng những đặc
trưng, những mặt cơ bản, ghi nhận một trạng thái phát triển, một trình độ phát triển
của Nhà nước và tiến bộ xã hội. Tựu chung các ý kiến thường lấy các dấu hiệu đặc
trưng để xác định nội hàm của khái niệm NNPQ, như: Tính tối cao của Luật, sự
phân công quyền lực, dân chủ và bảo đảm quyền con người, trách nhiệm qua lại
giữa Nhà nước và cơng dân; tính độc lập của nền Tư pháp... Theo đó: Nhà nước
pháp quyền hiểu chung nhất là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
pháp luật, trong đó mọi chủ thể kể cả Nhà nước đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính phổ biến cao (đề cao tính tối cao của
hiến pháp và luật), phù hợp với ý chí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của
xã hội, của con người.
2.1.2. Những đặc trưng cơ bản của NNPQ XHCN Việt Nam
Mặc dù còn khơng ít vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, soi chiếu thực
tiễn để hoàn thiện lý luận về NNPQ XHCN, song đến nay, cơ sở lý luận ban đầu đã
hình thành. Theo đó, NNPQ XHCN ở nước ta có những đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nguyên
tắc cơ bản này được khẳng định tại Hiến pháp năm 2013, gắn với cơ chế bảo đảm
thực hiện ngày càng hồn thiện.
Thứ hai, ở đó quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp
và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
Thứ ba, Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, minh
bạch, khả thi; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN.
Thứ tư, Nhà nước phục vụ lợi ích của Nhân dân, phát huy dân chủ, chịu sự
giám sát của Nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương, trừng trị mọi hành động xâm phạm
lợi ích của xã hội và Nhân dân.
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
7
Thứ năm, Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân;
chăm lo cho hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Các dân tộc anh em trên
đất nước Việt Nam đều bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Thứ sáu, Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
Thứ bảy, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tổ chức,
hoạt động của tồn bộ hệ thống chính trị và bộ máy Nhà nước.
2.2. Thực tiễn đặt ra trong việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về mặt lý luận, thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm đổi mới đã bộc lộ
không ít những vấn đề cần phải giải quyết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trong đó về
phương diện thực tiễn cần giải quyết một số vấn đề như sau:
Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nghĩa là xây dựng và phát triển kinh tế bền vững. Tập
trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như xóa đói, giảm nghèo, xóa dần
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và
nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược, vấn đề tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ
thất nghiệp, khám chữa bệnh cho người nghèo…
Tăng cường kỷ cương phép nước, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những
hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các
quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn, gian lận thuế… gây tổn thất
lớn cho Nhà nước và nhân dân. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế,
tài chính, về cơ chế chính sách, về quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, về
công tác cán bộ,…
Tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật. Bên cạnh việc xây dựng pháp luật,
việc thực hiện pháp luật cũng có vai trị hết sức quan trọng trong xây dựng nhà
nước pháp quyền, hệ thống pháp luật có thể rất đầy đủ, hồn thiện nhưng việc thực
hiện khơng nghiêm thì cũng khơng thể nói đến sự hiện diện của nhà nước pháp
quyền.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật. Thực tiễn cho thấy rằng, một trong những nguyên nhân của việc
thực hiện pháp luật chưa tốt là do kiến thức về luật pháp chưa tốt, nhiều người dân
chưa am hiểu về luật pháp, chưa ý thức được sự cần thiết phải chấp hành luật, hoặc
do không nắm được luật nên vi phạm mà khơng biết. Chính vì vậy, để tăng cường
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
8
việc thực thi pháp luật, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chú trọng sự tham gia của các phương tiện
thơng tin đại chúng, của các đồn thể chính trị - xã hội cũng như bộ máy chính
quyền các cấp và cuối cùng là siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, để mệnh lệnh
hành chính ln được chấp hành một cách nghiêm túc và thông suốt từ trung ương
đến cơ sở.
Tăng cường hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, của các cơ
quan và từng đại biểu hội đồng nhân dân, nhằm kiểm tra, đánh giá việc chấp hành
Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm
quyền cấp trên; kiểm tra, đánh giá và kết luận, xử lý đối với việc thực hiện các
nghị quyết của hội đồng nhân dân.
Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đây là vấn đề được đặt
ra hết sức bức thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách
nhiễu, quan liêu, tham nhũng,… trong các cơ quan nhà nước. Thực tiễn cho thấy,
dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có đạt đến độ hoàn hảo tuyệt đối, quy
chế, quy tắc ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước có đạt đến độ hồn mỹ thì cũng
khó có thể đem lại hiệu quả như mong muốn nếu như trong quá trình thực thi cơng
vụ, cán bộ, cơng chức khơng thực hiện nghiêm pháp luật, chấp hành không đúng
quy chế, quy tắc ứng xử đã được thể chế hóa.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đây không phải là một vấn đề mới vì nó được
đặt ra một cách thường xun, liên tục, theo yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên,
trước thực trạng yếu kém và bất cập của các tổ chức Đảng, sự thối hóa, tụt hậu và
biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên như hiện nay, thì vấn đề
đổi mới và chỉnh đốn Đảng lại được đặt ra một cách bức thiết hơn bao giờ hết. Đổi
mới và tự chỉnh đốn Đảng gồm nhiều nội dung như: Đổi mới công tác tư tưởng,
rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi
mới cơng tác tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị; cơng tác cán bộ,
cơng tác kiểm tra, giám sát; công tác quần chúng,… Chỉ có tiến hành đồng bộ
những nội dung đó mới làm cho Đảng ngày càng vững mạnh hơn, đủ năng lực lãnh
đạo công cuộc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
9
2.3. Quân đội tham gia xây dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là xây
dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt
động theo Hiến pháp, pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động
của mình. Và mọi cơng dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp, pháp luật, phải
sống và làm việc theo pháp luật... Để xây dựng một nhà nước như thế là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội và tồn thể nhân dân,
trong đó Qn đội là một lực lượng đóng vai trị quan trọng trong xây dựng và bảo
vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Điều đó được khẳng
định ở các nội dung sau:
Thứ nhất, Quân đội ln nhận thức rõ trách nhiệm của mình với việc xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự là của dân, do dân, vì dân, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
Bất cứ quân đội nào cũng đều phải thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nhà nước đã
tổ chức ra và ni dưỡng nó. Đối với qn đội ta, chiến đấu để giải phóng dân tộc,
chống xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, hồ bình và hạnh phúc cho nhân
dân; bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, Nhà nước của dân, do dân, vì dân… là những nội
dung cụ thể thể hiện chức năng chiến đấu. Tuy nhiên, Quân đội không phải là lực
lượng trực tiếp, quyết định xây dựng Nhà nước, mà chỉ là lực lượng tham gia. Điều
đó nói lên phạm vi, mức độ có giới hạn và tính chất của việc qn đội xây dựng
Nhà nước. Tham gia xây dựng Nhà nước là phải theo chức năng, nhiệm vụ của
quân đội, chứ tuyệt nhiên không phải là theo tư tưởng "súng đẻ ra chính quyền".
Ngồi ra, Qn đội cịn tham gia xây dựng Nhà nước, đó là việc tham gia giữ vững
mơi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại;
tham gia tích cực vào xây dựng địa bàn, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, xây
dựng "thế trận lòng dân", thế trận quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện
các nhiệm vụ đó là quân đội góp phần hiện thực hố chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống; góp phần nâng cao
hiệu lực tổ chức xây dựng và quản lý của Nhà nước; góp phần làm cho Nhà nước
trong sạch, vững mạnh. Đương nhiên, trong từng nhiệm vụ cụ thể đó, vai trị của
qn đội khơng như nhau; trong xây dựng, củng cố quốc phòng, quân đội là lực
lượng nòng cốt.
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
10
Hai là, Qn đội ln tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận chính trị-xã
hội
Trước yêu cầu ngày càng cao của việc phát triển kinh tế, thực hiện CNH,
HĐH, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh. Với ý nghĩa đó, Quân đội
phải cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn của địch, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, không được lơ là, mất cảnh giác trước sự chống phá, xuyên tạc của các thế
lực thù địch và buông lỏng trận địa quốc phòng-an ninh. Bằng bất cứ giá nào, quân
đội cũng phải bảo vệ được Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
công tác vận động quần chúng phải làm cho mọi người hiểu quân đội ta là quân đội
của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. Bởi chính sự
chăm lo, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của nhân dân là điều kiện quan trọng để
qn đội hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Khơng dừng lại ở đó, Qn đội cịn
phải giúp nhân dân làm tốt hơn nữa việc phát hiện và đấu tranh, loại trừ "giặc nội
xâm", đó là các tệ nạn xã hội, nhất là nạn tham nhũng, buôn lậu, làm trong sạch bộ
máy nhà nước, ổn định đời sống kinh tế, chính trị, kỷ cương, trật tự, an tồn xã hội.
Trong các công việc nêu trên, Quân đội phải là lực lượng xung kích đi đầu thực
hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước, cùng Nhà nước tổ chức, triển khai, phổ biến
pháp luật sâu rộng trong quần chúng nhân dân, giúp nhân dân sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật. Có như vậy, sức mạnh của Nhà nước mới được củng
cố và phát triển.
Ba là, Quân đội tích cực tham gia xây dựng kinh tế, lao động sản xuất,
nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ tài sản và
tính mạng cho nhà nước và nhân dân
Tham gia lao động sản xuất, làm kinh tế, cứu hộ, cứu nạn là môt tất yếu
khách quan, một nhiệm vụ chính trị mang tính chiến lược lâu dài, được Đảng, Nhà
nước và nhân dân giao phó cho Quân đội nhằm củng cố quốc phòng-an ninh, nâng
cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc góp phần cải thiện
và nâng cao đời sống bộ đội, giải quyết các vấn đề xã hội, giảm một phần ngân
sách quốc phòng của Nhà nước để Nhà nước có thêm nguồn vốn đầu tư và tăng
thêm năng lực sản xuất cho nền kinh tế quốc dân.
Trong những năm qua, Quân đội đã chủ động, tích cực trong nghiên cứu
khoa học, chế tạo, sản xuất, sửa chữa, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong lĩnh vực quốc phòng, tham gia phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Các ngành công nghiệp, hậu cần, kỹ thuật, dịch vụ của quân đội
cũng từng bước được đổi mới và phát triển. Quân đội đã sản xuất được nhiều vũ
khí, trang bị kỹ thuật, đồ dùng thiết yếu phục vụ cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
11
sàng chiến đấu của mình; sản xuất nhiều mặt hàng dân dụng phục vụ đời sống xã
hội.Tham gia làm đường giao thơng, xây dựng trạm xá, trường học, xố mù chữ,
tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, xây dựng củng cố chính quyền cơ sở, củng cố quốc phịng, an ninh ở
các địa bàn xung yếu... Đây là những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp nhưng có ý
nghĩa, tác dụng rất lớn đối với việc xây dựng và củng cố tiềm lực kinh tế-quốc
phòng của Nhà nước.
Bốn là, tham gia tích cực vào q trình xây dựng, hồn thiện hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các bộ luật và Pháp lệnh bảo vệ Tổ quốc
Trong nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách
tư pháp là nhiệm vụ rất quan trọng. Chính vì thế, xây dựng hệ thống pháp luật
đồng bộ, chất lượng cao, là nhiệm vụ quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các
hoạt động tư pháp. Trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự, những năm qua, chúng ta
đã ban hành được nhiều luật, pháp lệnh như: Luật Quốc phòng, Luật Biên giới
quốc gia, Pháp lệnh dân quân tự vệ, các văn bản chỉ đạo giáo dục quốc phịng và
cơng tác quốc phịng ở các bộ, ngành, địa phương... nhờ đó góp phần ngày càng
hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với
lĩnh vực quốc phòng, quân sự. Đặc biệt, trong điều kiện nước ta khi đang hình
thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường, thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối
ngoại, giữ vững mơi trường hịa bình và ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc... việc tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật về quốc phịng
một cách đồng bộ, chất lượng cao, vừa góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vừa nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân
đội ta.
Năm là, góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính theo yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền
Cải cách hành chính trong lĩnh vực quốc phịng nói chung và trong Quân đội
nói riêng là một bộ phận của cải cách hành chính Nhà nước, nhằm hướng đến xây
dựng một nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh; trong đó quyền lực và
hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng được tăng cường; nền quốc phịng tồn
dân vững mạnh với lực lượng hùng hậu, thế trận vững chắc; tổ chức, biên chế quân
đội với số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp cao, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở.
Do đó, Qn đội phải trở thành lực lượng nòng cốt trong việc đề xuất và thực hiện
tốt các nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng như: xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch củng cố, tăng cường nền quốc phịng tồn dân, phòng thủ đất nước,
động viên quốc phòng; ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
12
quốc phòng; tổ chức, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; thi hành lệnh, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ
quốc; tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về quốc phòng; thanh kiểm tra và
giải quyết khiếu nại, tố cáo; hợp tác quốc tế về quốc phịng.
Liên hệ bản thân trên cương vị Chính trị viên Tàu
Với cương vị là một Đảng viên, qua đây tôi nhận thức rằng, để góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt nam XHCN, thì bản thân cần phải nỗ lực nhiều
hơn nữa, khơng ngừng học tập nâng cao trình độ chun mơn, trình độ chính trị,
tích cực tun truyền, vận động người thân, gia đình và đồng đội nâng cao nhận
thức về nhà nước pháp quyền việt Nam, chấp hành tốt các chủ trương chính sách
pháp luật của nhà nước; kỷ luật quân đội, các nội duy, qui định tại địa phương cũng
như ở đơn vị; tích cực tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nơi
sinh sống; đấu tranh phê phán những biểu hiện tiêu cực, vơ ngun tắc, vi phạm
pháp luật… góp phần xây dựng hoàn thiện nhà nước PQ VN XHCN.
Sau khi kết thúc khóa học về đơn vị cơng tác trên cương vị Chính trị viên
Tàu, để góp phần xây dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền XHCN tôi sẽ thực
hiện tốt một số nội dung sau:
Một là: Bản thân sẽ cùng với Cấp ủy, chỉ huy Tàu tích cực nghiên cứu, nắm
vững pháp luật, điều lệ, điều lệnh của quân đội, tình hình chấp hành pháp luật Nhà
nước, kỷ luật quân đội để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho cán
bộ, chiến sĩ , nhân viên trên Tàu nhận thức đầy đủ về vị trí, ý nghĩa, vai trò pháp
luật đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, cũng như việc chấp hành
kỷ luật quân đội trong thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị. Đây là giải pháp có ý
nghĩa quyết định đến hiệu quả phòng chống và đẩy lùi thực trạng vi phạm kỷ luật ở
các đơn vị. Vì nó tác động vào yếu tố tư tưởng, tinh thần, vào ý thức và khả năng
điều khiển hành vi của mỗi CBCS trên Tàu. Vì vậy, bản thân sẽ thường xuyên
quán triệt đầy đủ, chặt chẽ các văn bản, chỉ thị, mệnh lệnh của các cấp về ý thức
chấp hành kỷ luật. Thông qua sinh hoạt chi bộ, ngày pháp luật, ngày văn hố chính
trị tinh thần hoặc qua các buổi gặp gỡ, nói chuyện, toạ đàm, trao đổi để từ đó hình
thành ý thức tự giác chấp hành kỷ luật cho mọi quân nhân trong đơn vị.Trên cơ sở
nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, bản thân sẽ cố gắng cụ thể hóa thành kế hoạch,
chương trình, phối hợp tổ chức thực hiện; lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục
pháp luật với cơng tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, duy trì nền nếp, chế độ,
xử lý kiên quyết mọi hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy
định của đơn vị.
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
13
Hai là: Phát huy vai trò trách nhiệm lãnh đạo của cấp uỷ, chỉ huy, đề cao
tính gương mẫu của đội ngũ cán bộ các cấp nhất là nhất là các Trưởng ngành, tiểu
đội trưởng trên Tàu. Bản thân sẽ cùng với Cấp uỷ đề ra chủ trương, biện pháp sát,
đúng với tình hình thực tế của đơn vị, chăm lo bảo đảm tốt sức khoẻ, đời sống vật
chất và tinh thần, tạo ra điều kiện học tập, công tác tốt nhất cho cán bộ, chiến sĩ
trong Tàu. Nghị quyết hằng tháng, quý tập trung, đi sâu về chấp hành kỷ luật, xây
dựng nền nếp chính quy, chú trọng cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng
thời, bản thân sẽ cùng các Trưởng ngành thường xuyên theo dõi, sâu sát, bám nắm
đơn vị, kịp thời phát hiện các biểu hiện vi phạm để chấn chỉnh, kết hợp nhiều
phương pháp vừa phối hợp giữa đơn vị với gia đình vừa giáo dục thuyết phục, kiên
quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kỷ luật. Đôn đốc, nhắc nhở đội ngũ
cán bộ ngành, tiểu đội và góp ý với các đồng chí chỉ huy Tàu phải thực sự gương
mẫu từ lời nói đến việc làm, có lối sống giản dị, hoà đồng thực sự là cấp trên, là
người anh mẫu mực để cán bộ, nhân viên, chiến sĩ trong Tàu tin tưởng, yêu mến.
Từ đó nâng cao trách nhiệm của cấp uỷ và chỉ huy trong lãnh đạo, duy trì đơn vị
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Ba là: Xuất phát từ đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước
đề cao tính dân chủ “nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Do vậy, việc phát huy
dân chủ của các quân nhân trên Tàu cũng là một nội dung rất quan trọng góp phần
hồn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Bản thân luôn nhận thức sâu
sắc rằng: khi phát huy tốt tính dân chủ trên Tàu sẽ ngày càng tạo được sự đồng
thuận cao, mối đoàn kết tốt, kỷ luật trong nội bộ đơn vị sẽ được tăng cường; niềm
tin của CB,CS vào cấp ủy, chỉ huy Tàu được củng cố vững chắc, tạo khơng khí
phấn khởi thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao, xây dựng Tàu vững
mạnh tồn diện ... Đồng thời, ln đấu tranh chống các biểu hiện dân chủ hình
thức, khơng để xảy ra mất đoàn kết, đơn, thư tố cáo nặc danh, vượt cấp, hạn chế vi
phạm kỷ luật, nhất là vi phạm kỷ luật nghiêm trọng trên Tàu. Vì vậy, để việc phát
huy dân chủ ở ở đơn vị thực sự là động lực góp phần xây dựng, nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của đơnvị, thì mọi quân nhân trên Tàu cần
phải được được nghiên cứu, trao đổi và quán triệt thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế và đời sống tại đơn vị. Qua
đó, để mọi quân nhân xác định quyền làm chủ của mình trên các mặt hoạt động và
bảo đảm đời sống; giải quyết được những vấn đề thắc mắc do thực tiễn cuộc sống
đặt ra, giữ vững được niềm tin, củng cố tư tưởng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
14
Bốn là: Bản thân sẽ thường xuyên phối hợp với Thuyền trưởng làm tốt công
tác quản lý cán bộ, chiến sĩ, nhân viên của Tàu về chất lượng, số lượng. Duy trì
nghiêm chế độ nền nếp chính quy, chấp hành kỷ luật, xác định nói và hành động
theo điều lệnh là một nội dung quan trọng trong công tác giáo dục và huấn luyện
của đơn vị. Lấy kết quả trong cơng tác xây dựng nền nếp chính quy, chấp hành kỷ
luật là thước đo để đánh giá sự hoàn thành nhiệm vụ của mỗi Đảng viên, cán bộ,
chiến sĩ trên Tàu. Đồng thời, đây cũng là một yêu cầu, một địi hỏi mang tính cấp
thiết để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng Quân chủng Hải quân “Cách
mạng, chính qui, tinh nhuệ và hiện đại” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Năm là: Phát huy vai trị Đồn thanh niên Tàu trong công tác tuyên truyền
về chấp hành kỷ luật. Thanh niên là những người trẻ có bản lĩnh chính trị vững
vàng, nhiệt huyết, năng động, là lực lượng xung kích của đơn vị. Do vậy bản thân
sẽ quan tâm, chỉ đạo, động viên Đoàn tanh niên Tàu tích cực chủ động tổ chức các
hoạt động văn hố - văn nghệ, TDTT, diễn đàn, tọa đàm... thông qua các ngày lễ
của dân tộc, quân đội, ngày truyền thống của Đoàn,... để tuyên truyền cho đoàn
viên, thanh niên trong Tàu thấy được lòng tự hào về truyền thống vẻ vang của dân
tộc, quân đội và đơn vị, từ đó giúp chuyển biến, nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật,
xây dựng nền nếp chính quy là những hành động thiết thực của tuổi trẻ góp phần
xây dựng Chi bộ Tàu trong sạch vững mạnh, Tàu vững mạnh toàn diện.
KẾT LUẬN
Tóm lại, Xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách
quan tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Việt Nam cũng
khơng nằm ngồi quỹ đạo chung đó. Trong cơng cuộc đổi mới của đất nước, xây
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
15
dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây
dựng CNXH. Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, đây là sự nghiệp dài lâu của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Bởi vì trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền
chúng ta vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết cả về phương diện lý luận lẫn
thực tiễn. Tập trung khắc phục những lực cản về tư tưởng, tâm lý, tập quán thói
quen của quá khứ đối với sự phát triển, phù hợp yêu cầu của đất nước và thời đại
để tạo nên sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn trong quản lý xã hội, góp phần đẩy
nhanh tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Những vấn đề đó khơng phải dễ gì một sớm
một chiều mà giải quyết được. Để đạt tới một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa theo đúng nghĩa của nó cần có sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, sự
đầu tư về trí tuệ, sức người, sức của, của toàn xã hội. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công nhà
nước pháp quyền XHCN.
Phạm Văn Huy – Lớp CV22B
16