ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN QUỲNH NGA
Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay
luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT
Hµ néi - 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN QUỲNH NGA
Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay
Mã số : 60 38 01
luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế
Hµ néi - 2007
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đảng VIII đã khẳng định nhiệm vụ của nhà nước ta là tiếp tục
cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: “tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng
pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Và Điều 2 Hiến
pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) một lần nữa khẳng định rõ
hơn vấn đề này“Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức”. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là
văn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối
của Đảng đề ra trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Theo đó,
Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của giai cấp công nhân với nông
dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước
pháp quyền Việt Nam là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và
thực sự bảo vệ quyền con người. Do vậy việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động của Nhà
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở thực thi nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng và
quản lí đất nước và là giải pháp cho các vấn đề về tổ chức quyền lực Nhà
nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
Xây dựng nhà nước pháp quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công
cuộc đổi mới đất nước toàn diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù
2
hợp, cơ chế tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện
đầy đủ các quyền, lợi ích của công dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ
quan nhà nước trở về với xã hội công dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước
đứng trên xã hội.
Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước nói chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có nội dung lớn, đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, chúng tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp
quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”
nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền hiện nay ở
nước ta.
2. Mục đích của Luận văn và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là từ lịch sử hình thành và phát triển của tư
tưởng nhà nước pháp quyền tìm ra những phương hướng để xây dựng và ngày
càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với mục đích đó, nhiệm vụ chính của luận văn là:
- Khái quát chung những tư tưởng, lý luận về nhà nước pháp quyền của
thế giới trong các thời kỳ phát triển lịch sử.
- Phân tích và đánh giá những quan điểm chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Từ đó khẳng định rằng nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong nửa thế kỷ qua đang được xây dựng thành một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3
- Đưa ra một số kiến nghị về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta
trong giai đoạn phát triển hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử
dụng là phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và
phân tích các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm
về việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Luận văn cũng sử dụng các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin và các
công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và ngoài nước về nhà
nước và pháp luật làm tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp so sánh đối chiếu để làm
sáng tỏ những nội dung của luận văn.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các bài phát biểu
của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại các diễn đàn đã đề cập nhiều
đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là định hướng cơ bản và
quan trọng nhằm hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên thực tế hiện nay cũng đã có không ít những công trình khoa học,
bài viết liên quan đến vấn đề này song mỗi công trình, mỗi bài viết lại đề cập
đến những khía cạnh khác nhau của việc xây dựng nhà nước pháp quyền như
vấn đế pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước Bên cạnh đó, cũng có thể thấy
với mỗi giai đoạn khác nhau của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền,
yêu cầu và phương hướng hoàn thiện sẽ có những điểm khác biệt nhất định.
Một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền như: Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện nghiên
4
cứu khoa học pháp lý, Nxb.Tư pháp, 2000; Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, TSKH.Lê Cảm-TS.Nguyễn
Ngọc Chí, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004; Quyền con người, quyền công dân
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, GS.TS.Trần Ngọc
Đường, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004; Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb.Tư pháp,
2006; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới, Nguyễn Văn Yểu- GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, Nxb.Chính trị quốc gia,
2006; Tư tưởng Đông, Tây về nhà nước và pháp luật-Những nhân tố nhà
nước pháp quyền, PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 3/2002 Góp phần nghiên cứu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
pháp chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, TS. Trịnh Đức
Thảo & ThS. Tào Thị Quyên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2006…
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể cơ sở lý luận cũng như thực
tiễn 20 năm xây dựng đất nước Việt Nam, từ đó tìm ra phương hướng, giải
pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần thiết.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của Luận văn gồm có 3 chương
được bố cục như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam
Chương 2: Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Chương 1
5
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM
1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các thời
kỳ
1.1.1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại
Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời
kỳ đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, loài
người đã bắt đầu tìm kiếm những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp. Cùng
với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, những ý niệm ban đầu này đã
được các nhà tư tưởng phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ
chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối
với mọi người, là sức mạnh mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được
pháp luật thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước. Những tư tưởng này được
hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (thế kỷ VIII-V tr. CN) gắn
sự hình thành của các Nhà nước và pháp luật. Giai đoạn thứ hai (thế kỷ V-nửa
đầu thế kỷ IV tr. CN) gắn liền sự phát triển cao của các thể chế Nhà nước.
Giai đoạn thứ ba (nửa sau thế kỷ IV - thế kỷ II tr. CN) gắn liền với sự suy
vong của Nhà nước thành bang Hy Lạp cổ đại. Có thể thấy những tư tưởng
này đã có mầm mống ở nhiều nơi trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương
Tây.
Ở phương Tây
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền
với sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã, có phần sâu sắc hơn vì
được dựa trên cơ sở tư duy triết học. Các nhà tư tưởng chú ý tới tính tối cao
của đạo luật và sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà nước. Họ cho rằng pháp
luật là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí của con người
6
và của thế giới xung quanh con người, pháp luật của Nhà nước phải đáp ứng
yêu cầu của luật tự nhiên [29].
Trong thế kỷ thứ VI tr. CN, Xôlông (Solon, 638-559 tr. CN) khi chủ
trương cải cách triệt để Nhà nước thành bang Hy Lạp đã cho rằng, quyền lực
cần đặt ngang hàng với pháp luật và cả hai đều là phương tiện để đạt tới tự do
và công bằng. Xôlông xác định sẽ "giải phóng tất cả mọi người bằng quyền
lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật".
Giữa thế kỷ này, Pitago (580-500 tr. CN) đòi phải thực hiện mệnh lệnh
của Nhà nước, tức là phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải được đặt cao hơn
các phong tục, tập quán truyền thống không thành văn.
Cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V tr. CN, Hêracơlit (Heraclite, 530-470 tr.
CN) hết sức coi trọng pháp luật và quan niệm rằng, pháp luật là phương thức
để thực hiện cái phổ biến. Do đó, "nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ pháp
luật như bảo vệ chốn nương thân của mình".
Thế kỷ V tr. CN, Hêrôđôt (Herodote, 480-425 tr. CN) khi so sánh ba
chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà, đã gợi ý về một thể chế chính trị hỗn
hợp giữa các giá trị của ba loại chính thể trên. Ông khẳng định, quyền lực
trong xã hội là thuộc về dân, xã hội phải được quản lý theo nguyên tắc công
bằng trước pháp luật.
Đemôcơrít (Democrite, 460-370 tr. CN) cho rằng Nhà nước và pháp
luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người nhằm liên kết với
nhau thành cộng đồng. Nhà nước là sự thể hiện quyền lực chung của công
dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật.
Cuối thế kỷ V tr. CN, khi nền dân chủ A-ten lâm vào khủng hoảng,
Xôcơrat (Socrate, 469, 399 tr. CN) cho rằng dân chủ không thể tồn tại được vì
thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực thì công bằng và công lý sẽ bị vi phạm.
7
Cuối thế kỷ V đầu thế kỷ IV tr. CN, Platôn (Platon, 427 - 347 tr. CN)
xác định rằng, người cầm quyền phải gạt sang một bên ý chí cá nhân để tuân
thủ và nhân danh ý chí của pháp luật. Platôn nhìn thấy “sự sụp đổ nhanh
chóng của Nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không được đề cao và nằm dưới
quyền lực của một ai đó. Còn ở nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm
quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật, thì tôi thấy ở đó có sự
cứu thoát Nhà nước và những lợi ích mà chỉ có Thượng đế mới có thể tặng
cho các Nhà nước''.
Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho
rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản
của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về
chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc
cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống
trị bằng bạo lực.
Pôlybi (Polybe, 201-120 tr. CN) là người La Mã đầu tiên nêu lên những
tư tưởng quan trọng về Nhà nước pháp quyền. Theo ông, ''không phải lý trí
mà kinh nghiệm đã dạy chúng ta rằng hình thức chính phủ hoàn hảo nhất là
hình thức được tạo nên từ ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà". Trong
đó cơ quan chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc
về quý tộc và các cơ quan dân biểu (hội đồng) thuộc về nhân dân (chủ nô).
Phân bố và giám sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm
một Nhà nước vững mạnh và phát triển quốc gia La Mã thành một đế quốc
hùng mạnh.
Xixêrôn (Ceceron, 106 - 43 tr. CN) cho rằng, Nhà nước là ''một cộng
đồng pháp lý''. Nhà nước là của chung nhân dân và là trật tự chung. ''Nhân
dân không phải là một tập hợp bất kỳ, mà là một tập hợp liên kết với nhau
bằng sự thoả thuận về pháp luật và bằng tính cộng đồng của các lợi ích
8
chung''. Nhà nước chỉ có ở nơi nào không có bạo lực và chuyên quyền. Sự cần
thiết của Nhà nước bắt nguồn từ bản chất trốn chạy sự cô đơn và khao khát
đời sống cộng đồng của con người. Công bằng là mệnh lệnh từ lý trí của con
người mà Nhà nước phải tuân theo. Pháp luật là ''lẽ phải chính trực phù hợp
với bản chất có trong tất cả mọi sinh vật''. Pháp luật là công pháp giữ vai trò
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. ''Phục tùng pháp luật là bắt buộc đối với
tất cả mọi người”. Xixêrôn đã xác định được pháp quyền tự nhiên, nhưng
pháp quyền đó vẫn còn ''treo lơ lửng trong không khí'' và chưa tìm thấy điểm
tựa trong hiện thực.
Như vậy có thể thấy, ngay từ thời cổ đại đã có những tư tưởng đề cao
vấn đề dân chủ như một hình thức Nhà nước. Theo đó, Nhà nước chỉ là sự thể
hiện quyền lợi chung của công dân và lấy việc phục vụ con người cá nhân và
xã hội làm mục đích. ý tưởng về sự kết hợp giữa Nhà nước và pháp luật là
cách tốt nhất để khách quan hoá Nhà nước, hạn chế ý muốn chủ quan của nhà
cầm quyền. Nhà nước tuân theo pháp luật là tuân theo ý chí chung của xã hội.
Xuất hiện yêu cầu về Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm sự phát triển của
kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm sự tồn tại của bản thân Nhà nước. Bên cạnh đó,
quyền lực Nhà nước dù của vua, của quý tộc hay của dân đều thông qua các
cá nhân cầm quyền và có xu hướng bị lạm dụng. Quyền lực Nhà nước luôn
luôn cũng có xu hướng bành trướng và hạn chế quyền tự do của con người.
Để khắc phục tình trạng này cần phân biệt quyền lực Nhà nước thành các
quyền khác nhau theo chức năng, nhiệm vụ của nó. Cùng với tư tưởng quản lý
xã hội bằng pháp luật, tư tưởng phân chia, kiểm soát quyền lực trong một Nhà
nước đã phôi thai.
Như vậy, tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại nhằm chống lại sự
chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, đấu tranh xác lập và phát triển nền
dân chủ. Theo các nhà triết học phương Tây, pháp luật không chỉ là công cụ
cai trị của Nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối
9
với các quan hệ xã hội, bản thân Nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật.
Ở phương Đông
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại diễn ra cuộc đấu
tranh quyết liệt xung quanh vấn đề trị nước, an dân bằng cách thức nào, dùng
pháp luật hay đạo đức, lễ nhạc
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập lúc đầu chủ trương “nhân trị”, “lễ trị”
hoàn toàn nhưng về sau đã phải tìm kiếm đến những yếu tố thích hợp của tư
tưởng pháp trị. “Lễ trị” của Khổng Tử có tác dụng rất sâu sắc và bao quát,
vừa là sự cụ thể hoá, vừa là công cụ, biện pháp để thực hiện đức trị và “chính
danh” nhằm tạo ra một trật tự trong các quan hệ gia đình và xã hội.
Theo Mạnh Tử, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải
hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm
quyền vào nhân dân.
Tuân Tử đã kết hợp “lễ trị với luật” để trị nước. Có thể coi đây là chiếc
cầu nối giữa tư tưởng nhân - lễ trị của Khổng - Mạnh và tư tưởng pháp trị sau
này.
Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị lên đến đỉnh cao, coi pháp
luật là cơ sở duy nhất để quản lý xã hội, pháp luật phải thay đổi theo thời
cuộc, “thời biến, pháp biến”. Nho giáo mà tiêu biểu là Khổng Tử cũng không
phủ nhận hoàn toàn vai trò của pháp luật nhưng quan niệm và cách thức vận
dụng pháp luật khác nhiều so với Hàn Phi Tử. Cùng là dùng hình luật để cai
trị nhưng Pháp gia khác với Nho gia. Pháp gia thì xem việc dùng hình phạt dù
nặng hay nhẹ đều là việc hiển nhiên, còn Nho gia khi dùng đến hình phạt cho
rằng đó là phương tiện mà không phải là mục đích.
10
Có thể thấy các nhà tư tưởng phương Đông ít bàn luận về Nhà nước,
pháp luật hơn mà chủ yếu quan tâm đến đường lối, phương thức cai trị con
người và xã hội. Tuy nhiên, cũng như các nhà triết học phương Tây, các nhà
tư tưởng phương Đông đều coi trọng nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.
Hàn Phi Tử cho rằng, ý muốn cá nhân của các bậc quân vương là cội nguồn
của tình trạng vô pháp luật; luật pháp đối với người quý tộc và kẻ hèn mọn
phải như nhau. Đồng thời Nhà nước pháp quyền cũng không loại trừ đạo đức,
thiếu đạo đức xã hội sẽ hỗn loạn. Tư tưởng này đã được kế thừa, phát triển
qua nhiều thời đại và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
1.1.2. Học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản
Theo Ph.Ăngghen, học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản từng bước
được hình thành trên cơ sở thế giới quan của giai cấp tư sản đang lên- thế giới
quan pháp lý. Trong thời kỳ của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên, đóng
góp đáng kể vào quan điểm chế độ nhà nước pháp quyền thuộc về các nhà tư
tưởng tiến bộ thuộc các trường phái lý thuyết pháp quyền khác nhau như
Xpinôda, Hốpxơ, Lốccơ, Môngtexkiơ…
Từ thế kỷ XVI-XVII, lý thuyết pháp quyền tự nhiên do các nhà triết
học Hà Lan là Xpinôda và Grôtxki sáng lập dựa trên cơ sở lý luận pháp quyền
tự nhiên thời cổ đại. Tư tưởng chủ đạo của lý thuyết pháp quyền tự nhiên là
tuyên ngôn cho tính độc lập của pháp quyền tự nhiên. Nhà nước và pháp luật
không phải do Chúa trời tạo ra mà do thoả thuận giữa con người với nhau phù
hợp với quyền tự nhiên vốn có của mình và với quy luật tự nhiên. Vì vậy,
pháp luật do nhà nước sáng tạo ra phải phù hợp với pháp luật tự nhiên; cần
phải giải phóng nhà nước và pháp luật khỏi thần quyền và thần giáo. Hình
thức nhà nước tốt nhất theo tư tưởng pháp quyền tự nhiên là chế độ dân chủ,
đối lập với chế độ quân chủ. Trong nhà nước dân chủ đó, con người sống tự
do, bình đẳng và giao tiếp tự nhiên với nhau mà sinh ra pháp quyền tự nhiên.
11
Tóm lại, lý thuyết pháp quyền tự nhiên đã góp phần giải phóng lý luận về nhà
nước và pháp luật khỏi sự bảo hộ của thần học và chủ nghĩa kinh viện trung
đại. C.Mác nhận xét, lý thuyết pháp quyền tự nhiên “đã bắt đầu xem xét nhà
nước bằng đôi mắt người và rút ra những quy luật tự nhiên của nhà nước từ lý
trí và kinh nghiệm, chứ không phải từ khoa thần học”[12, tr.165].
Các nhà triết học duy vật Anh thế kỷ XVII đã tiếp tục phát triển lý luận
về pháp quyền tự nhiên thành lý thuyết về tự do, phân quyền và chủ quyền
nhân dân. Dựa trên tư tưởng chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội, tạo nên
cơ sở pháp luật và nguồn gốc của chế độ nhà nước, Lốccơ luận giải “học
thuyết về nền pháp chế chống lại mọi biểu hiện phi luật pháp của chính
quyền”. Ông có nhiều luận điểm tự do mang tính kinh điển về quyền và tự do
của cá nhân trong điều kiện chế độ nhà nước pháp quyền. Ông nhận xét: “Tự
do của những người nằm dưới quyền lực của chính phủ là ở chỗ, cần có một
quy tắc cố định cho cuộc sống, chung cho mọi cá nhân trong xã hội và được
quy định bởi quyền lập pháp được thiết lập ở đó. Đó là quyền tự do được làm
theo ý muốn riêng trong mọi trường hợp, nếu như ý muốn đó không bị luật
pháp ngăn cấm và không phụ thuộc vào ý chí độc đoán thường xuyên, không
xác định và không rõ ràng của người khác”[16, tr.16-17].
Đến thế kỷ XVIII, các nhà triết học khai sáng Pháp như Môngtecxkiơ,
Rutxô, Vônte, Hônbách… đã đưa ra lý thuyết về phân quyền, chủ quyền nhân
dân và khế ước xã hội. Môngtecxkiơ quan niệm nhà nước ra đời từ sự vận
động và phát triển của xã hội loài người đến một trình độ nhất định. ý tưởng
về sự phân chia quyền lực được ông nghiên cứu một cách hệ thống, ông phân
chia quyền lực thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, muốn
ngăn chặn được nạn lạm dụng quyền lực thì phải có một trật tự, trong đó các
thế lực khác nhau có thể kìm hãm được nhau. Ông nhấn mạnh: “Không một
cơ quan nào vượt lên những cơ quan kia và không một cơ quan nào có thể
tước đoạt quyền cá nhân của công dân” [17, tr.505].
12
Vônte (1694-1778) cũng cho rằng, tất cả mọi người trong xã hội đều
bình đẳng; các quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội được
pháp luật thừa nhận. Đó là các đạo luật tự nhiên, đạo luật của lý trí.
Hônbách (1723-1789) khẳng định, tự do là quyền bất khả xâm phạm
của con người. Trong xã hội các đạo luật phải được hình thành trên cơ sở các
khế ước xã hội. Pháp luật quy định trách nhiệm qua lại giữa các nhà nước và
cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với xã hội.
Lý thuyết về nhà nước pháp quyền đã được các nhà triết học cổ điển
Đức đưa ra từ thế kỷ XIX. Cantơ (1724-1804) đã đề ra và nghiên cứu một
cách chi tiết nền tảng triết học của học thuyết nhà nước pháp quyền mà vị trí
trung tâm ở đó thuộc về con người. Theo ông, trong nhà nước pháp quyền,
người công dân cần phải có khả năng cưỡng ép người cầm quyền thi hành
chuẩn xác luật pháp, giống như thái độ của người cầm quyền đối với họ vậy.
Nhà nước pháp quyền theo Cantơ không phải như một hiện thực có tính kinh
nghiệm, mà như một mô hình lý thuyết lý tưởng, cần được quản lý trong tổ
chức thực tiễn của sinh hoạt nhà nước-pháp luật.
Nếu như ở Cantơ pháp luật pháp quyền và nhà nước pháp quyền là cái
cần phải đạt tới thì ở F.Hêghen chúng là hiện thực, có nghĩa là hiện thực hoá
lý trí và thực tiễn trong các hình thức tồn tại hàng ngày của con người. Theo
Hêghen, nhà nước là một tổ chức hoàn thiện nhất của đời sống xã hội, trong
đó tất cả mọi thức đều được xây dựng trên nền tảng pháp luật, thể hiện sự
thống trị của tự do thực sự. Xã hội công dân nhờ có các thể chế pháp luật mà
bảo đảm cho lợi ích của các cá nhân và bảo vệ cho sở hữu của họ, giữ vững
trật tự xã hội.
Phíchtơ (1762-1814) quan niệm nhà nước và pháp luật là những
phương tiện để nhân loại thực hiện sứ mệnh lịch sử tối cao của mình là tiến
tới tự do tuyệt đối, cái tôi tuyệt đối. Nhà nước và pháp luật có nhiệm vụ quản
13
lý và điều hoà sự phát triển xã hội và vì lợi ích chung là hướng tới tự do. Nhà
nước pháp quyền là công cụ để xây dựng một xã hội lý tưởng, bảo đảm các
nhu cầu cơ bản của công dân.
Xu hướng ảnh hưởng lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền tư sản là hệ thống quan điểm pháp lý thực định. Lý thuyết
về nhà nước pháp quyền tư sản ra đời vào thế kỷ XIX-XX, nhằm thay thế lý
thuyết pháp quyền tự nhiên. Iêring cho rằng, chế độ nhà nước pháp quyền chỉ
có thể tồn tại ở nơi mà chính quyền nhà nước cũng lệ thuộc vào trật tự mà nó
đặt ra, nơi mà nó đạt được sự vững chắc về pháp lý. R.F.Môn và K.T.Vancơ
là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhà nước
pháp quyền có mục tiêu là phát huy tự do và năng lực sáng tạo của mọi công
dân. Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản như tính tối
cao của pháp luật; chủ quyền của nhân dân thông qua nghị viện; mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thực chứng
được hình hành và phát triển trên cơ sở xã hội tư bản bước vào thời kỳ chấm
dứt giai đoạn công trường thủ công và bước vào giai đoạn đại công nghiệp. Ở
thời kỳ này, các phạm trù, khái niệm về nhà nước pháp quyền tư sản được xây
dựng một cách hệ thống hơn.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan
điểm, tư tưởng rất phức tạp, phong phú với các cách tiếp cận khác nhau. Có ý
kiến cho rằng, điều quan trọng nhất trong Nhà nước pháp quyền là nguyên tắc
phân công rành mạch giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Ý kiến khác cho rằng bản chất của Nhà nước pháp quyền nằm ở việc
ghi nhận, đề cao và bảo vệ quyền con người. Cũng có ý kiến lại nhấn mạnh
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó, mọi chủ thể, kể cả Nhà nước
đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật - một pháp luật có tính
14
pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã
hội, của con người.
Có thể nói, những ý kiến trên đây đều là những tiêu chí quan trọng để
xác định bản chất của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, nếu chỉ có một trong
những tiêu chí đó, không thể có được khái niệm về Nhà nước pháp quyền
hoàn chỉnh. Nhà nước pháp quyền rất cần được tổ chức một cách khoa học,
hợp lý, nhưng nếu nhà nước đó không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện,
đồng bộ để quản lý xã hội hiệu quả thì không bao giờ duy trì được trật tự, kỷ
cương cũng như bảo đảm được tiến bộ xã hội. Mặt khác, nếu chỉ đề cao vai
trò tối thượng của các đạo luật không thôi thì Nhà nước pháp quyền sẽ không
khác gì nhà nước cai trị bằng pháp luật hay nhà nước pháp trị Như vậy, việc
xác định Nhà nước pháp quyền phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Dưới
đây là một số đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm tính tối cao của Hiến
pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Tính tối cao của pháp luật được thể
hiện trên hai phương diện: một là, bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội; hai là, tính bắt buộc của pháp luật đối với
bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu
chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội.
- Tổ chức quyền lực nhà nước theo cơ chế phân công, kiểm soát, cân
bằng quyền lực và quyền lực phải bị giới hạn bởi pháp luật. Theo đó, ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân định rõ ràng, rành mạch cho
ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế
ước lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực
nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Hành pháp mạnh, đủ năng lực xây
dựng chính sách, thể chế hóa chính sách thông qua cơ chế làm luật, năng lực
tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Tư pháp phải độc lập và bảo đảm
15
công lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu
mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực, và vì lẽ đó, cần phải sắp
xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền.
- Quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp
luật ghi nhận và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Mục tiêu cao nhất của
Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của con người. Vì
vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là phương tiện ghi nhận quyền dân
chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người, đồng thời cũng quy định cả
những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành vi xâm hại
đến các quyền và lợi ích đó.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau
giữa nhà nước và công dân, quyền công dân là trách nhiệm của nhà nước và
ngược lại quyền của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải
chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân
phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những
hành vi vi phạm pháp luật.
- Cơ chế bảo hiến là một bộ phận không thể thiếu trong nhà nước pháp
quyền. Cơ chế bảo hiến ngày nay đã trở thành một phần quan trọng trong tổ
chức của đa số các nhà nước đương đại, do tư tưởng về nhà nước pháp quyền
đã được thừa nhận rộng rãi với đặc trưng cơ bản nhất là tính tối cao của Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, Hiến pháp là
văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất.
Với ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp như trên, việc hình
thành cơ chế bảo vệ và bảo đảm thực thi Hiến pháp là không thể thiếu, đặc
biệt là trong nhà nước pháp quyền, nơi Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí
thượng tôn.
16
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân
1.2.1. Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung
ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[14,
tr.698]. Chính vì vậy, việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân
là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình hình thành, xây dựng và củng cố nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hơn 60 năm qua.
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng chủ
đạo trong suốt cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay tại Điều
thứ 1, Hiến pháp 1946 đã khẳng định: “Nước Việt Nam là nước dân chủ cộng
hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Tính chất dân
chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của nhà nước ta. Nhân dân là người nắm
giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức được ủy
quyền để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Quan niệm toàn bộ
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thể hiện rõ nhất tính dân chủ triệt để
của nhà nước ta, trở thành nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực nhà
nước và được thể hiện rõ trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta.
Là người chủ đất nước, mỗi người dân có quyền thông qua cơ chế dân
chủ thực thi quyền lực nhưng đồng thời cũng phải có nghĩa vụ xây dựng và
bảo vệ nhà nước, làm cho nhà nước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững
mạnh. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi với tư cách là chủ nhân của một đất nước
độc lập, tự do, quyền và nghĩa vụ công dân luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
17
Một trong những phương thức quan trọng và cơ bản nhất thể hiện
quyền lực nhân dân đó chính là bầu cử. Hồ Chí Minh coi “tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để
gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người
muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có
quyền đi bầu cử … Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội
sẽ cử ra CHÍNH phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”[14, tr.
133].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không
chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn ở
quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Hồ Chí Minh
đã nêu: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân với đại biểu của mình”[15, tr.275].
Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì
pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân
phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm
chủ của người dân. Những người đại diện của dân, do dân cử ra chỉ là thừa ủy
quyền của dân, chỉ là “công bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê phán những “vị
đại diện” lầm lẫn sự ủy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền,
cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ rồi ngang tàng, phóng
túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng
dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân” [14,
tr.57].
Từ quan niệm chung về vị thế của người cầm quyền, Hồ Chí Minh ý
thức rất rõ vị trí của Người trong hệ thống quyền lực nhà nước Việt Nam.
Người nhiều lần nhắc nhở: ở nước ta từ Hồ Chủ tịch trở xuống là đầy tớ của
18
dân; dân đặt ở đâu thì làm ở đó; Người làm Chủ tịch nước cũng là nhận sự
trao quyền, ủy thác của dân.
Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có nhà nước của dân, do dân tổ chức, xây
dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân. Nhà nước vì dân là nhà
nước phục vụ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc
lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Việc gì
lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức
tránh…”[13, tr.56-57].
Cán bộ nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo
hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn
người, minh mẫn sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng
hiền tài. Như vậy, “người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa
minh”.
Một trong những điểm cơ bản của tư tưởng nhà nước của dân là nhân
dân có quyền kiểm soát nhà nước. Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ ta là chính
phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân.
Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm
tròn nhiệm vụ của mình, là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân
dân”[13, tr.221].
Hồ Chí Minh cũng khẳng định chỉ có nhà nước thực sự của dân, do dân
tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân. Nhà nước vì
dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc
quyền, đặc lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Nhà nước phục vụ
nhân dân, nghĩa là nhà nước đó được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu
duy nhất là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Đó
19
cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Bên cạnh đó, nhà nước vì dân là nhà nước biết chăm lo mọi mặt đời
sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn các nhu cầu thiết yếu nhất. Hồ Chí
Minh đã nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết
rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: làm
cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học
hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta
xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do, độc lập”[13, tr.152].
Nhà nước chăm lo cho dân không có nghĩa là làm thay dân mà hướng dẫn, tạo
điều kiện cho dân tự chăm lo đời sống của mình. Theo Hồ Chí Minh, việc đáp
ứng và thoả mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí hàng đầu để đánh
giá hiệu quả, năng lực hoạt động của nhà nước.
Ngoài ra, nhà nước cũng phải biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích
khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được
nhân dân ủng hộ. Để làm tốt vai trò hướng dẫn của mình, nhà nước cũng cần
phải biết kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của trung
ương và lợi ích của địa phương, lợi ích của các ban ngành, các chủ thể trong
xã hội để tất cả nhân dân đều nhận thấy nhà nước là người đại diện cho lợi ích
của họ, hoạt động vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Hồ chủ tịch thường nhấn
mạnh để phục vụ tốt nhân dân, vì dân, nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong
sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, phải loại hết “các ông quan cách mạng” ra
khỏi bộ máy nhà nước. Nếu hoạt động của nhà nước kém hiệu quả, bộ máy
quan liêu, đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những cán bộ chủ chốt bị thoái
hoá, biến chất thì tất yếu nhà nước sẽ đi ngược lại lợi ích của nhân dân, không
hoàn thành vai trò phục vụ nhân dân. Vì thế, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc
20
phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước là nhu cầu và việc làm thường
xuyên, bảo đảm cho nhà nước thực sự là công bộc của nhân dân.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Khi xem xét tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề sử dụng pháp luật trong
xây dựng nhà nước pháp quyền cần khẳng định: Tư tưởng của Người về pháp
luật có từ rất sớm, Người không chỉ nhìn thấy ở pháp luật vai trò của một
công cụ giúp nhà nước bảo đảm thực hiện hoạt động quản lý, mà còn tìm thấy
ở pháp luật ý nghĩa của một đại lượng công bằng, bảo đảm cho việc thực hiện
các giá trị dân chủ, tiến bộ; cho sự bình đẳng và phát triển của các dân tộc
trên thế giới. Sự phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật mang
tính hệ thống và nhất quán; gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng cho sự
ra đời của một nhà nước mà quyền lực hoàn toàn thuộc về nhân dân, do nhân
dân làm chủ; một nhà nước mà ở đó vai trò của pháp luật được đề cao, khẳng
định và phát huy. Chính vì vậy, ngay từ những năm đầu tiên của chính quyền
nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Chính phủ lâm thời Việt Nam
phải xây dựng một bản Hiến pháp ghi nhận các quyền tự do dân chủ, bảo vệ
các quyền con người và lấy mục đích phục vụ con người như một nguyên tắc
bất di bất dịch và không thể xâm hại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem pháp luật “như một hiện tượng chính trị của
nhà nước… pháp luật đúng đắn sẽ tạo nên bầu không khí chính trị ổn định của
nhà nước, làm bộ máy nhà nước vận hành đúng quỹ đạo”[9, tr.153]. Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn cho rằng Nhà nước và pháp luật luôn thống nhất với nhau
về bản chất. Sự thống nhất này nằm ở tính dân chủ trong việc tổ chức nhà
nước cũng như khi xây dựng pháp luật. Điều đáng lưu ý trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là ở chỗ Người đề cao vai trò của các đạo luật trong xây dựng pháp
luật và coi đây như là một bảo đảm về tính dân chủ của hệ thống pháp luật.
21
Với Người, pháp luật không chỉ là công cụ, phương tiện của quản lý nhà nước
mà còn là phương tiện để bảo đảm nền dân chủ. Đồng thời với việc xây dựng
chính quyền Việt Nam sau cách mạng và sự ra đời của nhà nước Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt tay vào tổ chức, xây dựng hệ thống pháp luật
đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Như vậy, với việc xây
dựng hệ thống pháp luật này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng đầu tiên
cho quá trình xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Khi xem xét vai trò của pháp luật với Nhà nước, cùng với việc khẳng
định vai trò của pháp luật trong quản lý và duy trì bản chất nhà nước mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt ra yêu cầu xây dựng pháp luật sao cho pháp
luật thực sự trở thành phương tiện bảo đảm công bằng, là hành lang pháp lý
cho việc thực hiện các thiết chế dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
pháp luật của nhà nước ta được xây dựng để phục vụ nhân dân và phải phục
vụ nhân dân. Như vậy, pháp luật đã trở thành công cụ duy trì vào bảo vệ bản
chất của nhà nước.
Tư tưởng đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh gắn liền với việc đề cao Hiến pháp và giá trị của các đạo luật trong nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến những bảo đảm cần
thiết cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp cả từ phía các cơ quan nhà
nước và từ phía công dân. Có như thế thì mới bảo đảm trật tự, kỷ cương nhà
nước và công dân mới được hưởng các quyền tự do dân chủ đã được ghi nhận
trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 một mặt, đã xác định rõ chế độ nhà
nước và ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, mặt khác, đã khẳng định
nguyên tắc tôn trọng Hiến pháp, hay nói cách khác là xác lập cơ chế bảo đảm
hiệu lực tối cao của Hiến pháp.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ tất yếu sẽ dẫn đến pháp
luật dân chủ. Theo Người, nhà nước sẽ chẳng là gì nếu không phục vụ nhân
22
dân, pháp luật sẽ trở nên vô tác dụng nếu không phù hợp và phản ánh ý chí
của cộng đồng. Do đó, trong việc bảo vệ các giá trị dân chủ thì cả nhà nước
và pháp luật đều trở thành công cụ, phương tiện bảo đảm cho nhân dân thực
hiện quyền lực của mình. Nhận thức được vai trò của pháp luật trong việc ghi
nhận và bảo vệ các giá trị dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “phải nhận
thức cho tốt và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Sự bình đẳng trong xã hội
ở nơi pháp luật. Dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật”[14, tr.299]. Người
cho rằng pháp luật phải chứa đựng những giá trị xã hội mà con người hướng
tới. Cùng với việc giải quyết mối quan hệ hai mặt giữa pháp luật và dân chủ,
Hồ chủ tịch cũng đặt ra yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ. Hệ
thống pháp luật ấy không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các giá trị dân chủ mà
thông qua các quy phạm nội dung tạo lập được hệ thống các quy phạm thủ tục
bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân chủ ấy.
Cùng với việc đề cao vai trò của dân chủ trong xây dựng nhà nước sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững
chắc đầu tiên cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại
Việt Nam.
1.3. Sự hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng cộng sản
Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn trước Đại hội Đảng VII
Trước năm 1986, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật
được thực hiện trên cơ sở quan điểm phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp. Đại hội Đảng VI khởi xướng đường lối đổi mới, trong đó đổi
mới kinh tế đi trước một bước. Nền tảng tư tưởng để xây dựng nhà nước và
pháp luật trong giai đoạn này là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật nhưng bắt đầu được nhận thức theo tư duy
mới. Tổng kết quan điểm của Đảng về lý luận xây dựng nhà nước và pháp
23
luật trong giai đoạn trước Đại hội Đảng VII cho thấy những nhận thức cơ bản
sau:
Đảng ta nhất quán khẳng định bản chất của nhà nước ta là nhà nước
chuyên chính vô sản. Quan điểm này được khẳng định rõ trong Hiến pháp
1980: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên
chính vô sản” của nhân dân lao động. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng VI tiếp
tục khẳng định bản chất của nhà nước ta “là công cụ của chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa”, đồng thời chỉ rõ trong thời kỳ quá độ, “đó là nhà nước
chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Như vậy,
những đặc thù mang tính lịch sử trong quá trình xây dựng nhà nước chuyên
chính vô sản ở giai đoạn này là nền tảng cơ sở vững chắc cho quá trình nghiên
cứu, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân sau này.
Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước bảo đảm ngày càng đầy đủ
quyền dân chủ của công dân. Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và
củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đại hội VI chỉ rõ phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải trở thành nề nếp hàng ngày của xã
hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, Đại hội Đảng VI chỉ rõ: “Công tác
quản lý không phải là việc riêng của người quản lý chuyên nghiệp mà là sự
nghiệp của nhân dân. Trong công tác quản lý, dù là quản lý hành chính hay
quản lý sản xuất, kinh doanh, quản lý trật tự đều cần có sự tham gia của quần
chúng. Việc phát huy vai trò của nhân dân lao động tham gia quản lý kinh tế,
quản lý xã hội cần được các cơ quan lãnh đạo và quản lý đặt ra và thực hiện
đúng ngay từ khi chuẩn bị và quyết định chủ trương, chính sách”. Muốn được
như vậy thì “quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hóa bằng pháp
luật và tổ chức”.