Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.08 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*


TRƢƠNG CHÚC QUỲNH


SỰ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO THỰC TIỄN XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM


Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60.38.01


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh




HÀ NỘI - 2010

2


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội
dung, kết quả trình bày trong luận văn là khách quan, trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ tác phẩm nào khác.

Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2010
Tác giả

TRƢƠNG CHÚC QUỲNH

3

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và
các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh (Học viện Báo
chí và Tuyên truyền Hà Nội), Thư viện Quốc gia, Thư viện Khoa học - xã hội
và những cá nhân, cơ quan khác đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính mến và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS
Nguyễn Văn Mạnh - người thầy đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp; người đã tận tâm hỗ trợ, định hướng cho tôi trên
con đường nghiên cứu khoa học.
Dù thực hiện luận văn với sự say mê, cố gắng nhưng do thời gian
không nhiều và bản thân còn hạn chế nhất định trong kinh nghiệm thực tiễn
nên luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Bởi vậy, tôi rất mong
nhận được ý kiến phê bình, đánh giá của Hội đồng chấm luận văn, của các
thầy, cô giáo, đồng môn và đồng nghiệp để công trình nghiên cứu này được

hoàn chỉnh hơn.

Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2010
Tác giả

TRƢƠNG CHÚC QUỲNH

4
MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Tiểu sử bản thân và con đƣờng cách mạng
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1911
1.1.2. Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930
1.1.4. Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945
1.1.5. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969
1.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự hình thành tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh
1.2.1 Truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc
1.2.2 Tinh hoa tư tưởng văn hóa nhân loại
1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
1.2.4. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
1.3. Những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.3.3. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại


5
1.3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam; về
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
1.3.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, nhân văn, văn hóa
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ SỰ
VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO THỰC TIỄN
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
2.1. Lý luận về nhà nƣớc pháp quyền và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
về nhà nƣớc pháp quyền
2.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền
2.1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
2.1.1.2. Các tiêu chí của nhà nước pháp quyền
2.1.1.3. Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
2.2. Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam
2.2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
2.2.1.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giành chính
quyền về tay nhân dân
2.2.1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà

nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
2.2.1.3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ
máy nhà nước
2.2.1.4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
2.2.1.5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức

6
2.2.2. Giải pháp tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời kỳ mới
2.2.2.1. Yêu cầu khách quan và chủ quan của việc tiếp tục
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam
2.2.2.2. Giải pháp tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



7

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

- CNXH: Chủ nghĩa xã hội
- XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- CCHC: Cải cách hành chính
- CBCC: Cán bộ công chức
- NNPQ: Nhà nước pháp quyền


8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thế kỷ XIX, chủ nghĩa đế quốc đã xác lập được sự thống trị của chúng
trên một phạm vi rộng lớn. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Cách
mạng Tháng Mười Nga thành công, nước Nga Xô Viết ra đời. Quốc tế Cộng
sản được thành lập. Cũng trong bối cảnh đó, sau khi xâm lược nước ta thực
dân Pháp đã duy trì sự cai trị hà khắc của nhà nước thực dân phong kiến theo
kiểu chuyên chế, không có luật pháp dân chủ. Nhân dân Việt Nam bị bao phủ
trong đám mây đen của ách nô lệ. Một số nhà yêu nước tiêu biểu đã dương
ngọn cờ khởi nghĩa song đều lần lượt thất bại.
Giữa lúc này, Hồ Chí Minh (lúc đó là Nguyễn Ái Quốc) - một người
con của dân tộc Việt Nam đã không quản bao khó khăn, thử thách quyết tâm
ra đi tìm đường cứu nước. Người tích cực hoạt động trong phong trào công
nhân và lao động một số nước trên thế giới; học tập, nghiên cứu các trào lưu
tư tưởng, các thể chế chính trị; tiếp thu tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Sau khi đã xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là
con đường cách mạng vô sản, đứng về phía Quốc tế Cộng sản, Người càng đi
sâu tìm hiểu các học thuyết cách mạng trên thế giới, xây dựng lý luận về cách
mạng thuộc địa, trước hết là lý luận cách mạng để giải phóng dân tộc Việt
Nam, xây dựng các nhân tố cách mạng của dân tộc, tổ chức và lãnh đạo cách
mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi vì độc lập dân tộc, tự do của toàn dân.
Những diễn biến của đất nước, xã hội cùng với cuộc đời hoạt động cách
mạng không ngừng nghỉ của Hồ Chí Minh đã dần hình thành hệ thống lý luận
của Người. Tư tưởng của Hồ Chí Minh hóa thân vào các ứng xử cả tầm chiến
lược lẫn trong giao tiếp đời thường, được minh chứng qua các tác phẩm, bài
viết của Người, qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và thời đại. Tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là “sản phẩm” được ấp ủ lâu dài trong cái nôi chủ nghĩa yêu


9
nước, tắm mình sâu sắc trong hồn dân tộc, là kết tinh của truyền thống hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là gạn lọc của các hạt giống trí tuệ cổ kim phương Đông, phương Tây
và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
đồng thời có nghĩa nghiên cứu về thời sự. Và một trong những nội dung có
tính thời sự chính là vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đó phải là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trước hết là
công cụ quyền lực của nhân dân lao động, phản ánh và bảo vệ lợi ích của
nhân dân; được tổ chức trên cơ sở pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật và quản lý xã hội bằng pháp luật.
Ngay trong Cương lĩnh và Điều lệ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng (tháng 6/1991) đã nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh: ”Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động” [5, tr.127]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp
tục được khẳng định với nội dung:
“Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; Hoàn thiện hệ thống pháp luật,
tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng,
hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động
và quyết định của các cơ quan công quyền” [6, tr.45].
Thực hiện nội dung này, trên thực tế là tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền trong những điều kiện và yêu cầu phát
triển mới của đất nước.


10
Như vậy, có thể nói, với những giá trị khoa học to lớn, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là cơ sở định hướng
cho việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, một nhiệm vụ mà
Đảng ta xác định là trọng tâm của quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Đặc
biệt khi một sự kiện trọng đại đối với đất nước là Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng sắp diễn ra thì việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc góp phần
động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, trong đó có mục tiêu xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với những lý do đã phân
tích ở trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
vào thực tiễn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam” làm đề tài luận văn
Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Những quan điểm về nhà nước và pháp luật là một trong những nội
dung chủ yếu trong toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm
đó thể hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Nhưng thực sự chỉ
trong điều kiện đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta mới có
đầy đủ điều kiện đi sâu nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống tư
tưởng của Người. Đây là đề tài có nội dung rộng lớn và ý nghĩa quan trọng
nên đã có nhiều công trình như: Nguyễn Đình Lộc (2002), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Viện Khoa học pháp lý; Tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1995; Hoàng
Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới - Sự hình
thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Xuân Tế (1999),
Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Võ Nguyên Giáp (1970), Hồ Chủ tịch, nhà chiến lược thiên


11
tài, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Nxb
Sự thật, Hà nội; Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, 1993;
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tiểu sử sự nghiệp, Nxb Sự thật, 1975; Trần Văn Giàu
- Trần Bạch Đằng, Vàng trong lửa, Kỷ yếu hội nghị kỷ niệm lần thứ 100 ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban KHXH Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh,
1990; Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh một con người; Nguyễn Mạnh
Tường (2005), Về những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
Trường đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Văn Trung (1994), Một số suy nghĩ về
phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Học viện chính trị quân sự;
Trần Thị Lụa (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, kết hoặp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Viện dinh
dưỡng quốc gia; Phan Hữu Dật (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh
của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, Nxb Thanh niên; Nguyễn Minh
Thuỳ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, Nxb Sự thật;…
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí, trang
tin điện tử, nhiều cuộc hội thảo khoa học về đạo đức và tư tưởng cách mạng
Hồ Chí Minh, trong đó có nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên, các công trình, bài viết khoa học nói trên chưa có đề tài nào nghiên cứu
sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam qua những chặng đường lịch sử của đất nước, đặc biệt ý
nghĩa của sự vận dụng đó trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu tác giả mong muốn được tìm hiểu và
nghiên cứu một cách có hệ thống về nhà nước pháp quyền trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, đồng thời nghiên cứu chuyên sâu về sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thực tiễn lịch sử Việt Nam.

12

Qua nghiên cứu, đề tài sẽ có những kết luận khoa học về tổng quan tư
tưởng Hồ Chí Minh; về lý luận nhà nước pháp quyền và sự vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt đuợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Tập trung nghiên cứu về sự hình thành và phát triển tư tưởng cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua những chặng đường lịch sử; về những
nhân tố ảnh hưởng đến tư tưởng của Người.
- Làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
yếu nghiên cứu vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân của Người.
- Phân tích một số vấn đề lý luận về khái niệm nhà nước pháp quyền;
sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền XHCN và nhà nước pháp quyền tư
sản; mối quan hệ nhà nứơc - pháp luật trong nhà nước pháp quyền
- Đặc biệt nêu bật lên thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đề cập đến những yêu cầu
khách quan và chủ quan của việc nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Qua đó xác định một số giải pháp tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời kỳ mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm làm rõ một
số nội dung cơ bản của tư tưởng ấy, khẳng định giá trị khoa học, ý nghĩa cách
mạng của những luận điểm chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu cách thức Người kế thừa, vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại trong suốt tiến trình của cách mạng Việt
Nam để trên cơ sở đó, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay. Như vậy là luận văn này không

13

chỉ mô tả giản đơn các sự kiện, các biến cố lịch sử cụ thể, rời rạc về cuộc đời
và hoạt động cách mạng của Người mà còn nghiên cứu nguồn gốc, quá trình
hình thành và phát triển từng nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời
chỉ ra những giá trị đương thời của tư tưởng ấy.
Thời gian nghiên cứu khảo sát từ năm 1986 - 2009.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn:
Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, về vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách
mạng nước ta.
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp luận của triết học Mác -
Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) và các
phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, …
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
Đề tài nghiên cứu “Sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào thực
tiễn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam” là thực hiện một cách cụ
thể Nghị quyết Đại hội IX, X của Đảng về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Đây là quá trình nghiên cứu chuyển từ lý luận về tư tưởng Hồ Chí
Minh sang vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta để hoàn thiện sự hiểu
biết, nâng cao trình độ nhận thức của quần chúng nhân dân, học sinh, sinh
viên, giúp họ dễ dàng tiếp cận với tư tưởng của Người.
Con đường xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam cũng như của một
số nước khác trong khu vực đang đứng trước sự thử thách của hội nhập kinh
tế, giao lưu chính trị và văn hóa, nghiên cứu này sẽ góp phần khẳng định nhân
cách, tài năng của Hồ Chí Minh, tạo niềm tin thắng lợi vào hướng đi đúng đắn

14
mà Người đã xác định cho cuộc cách mạng đấu tranh và phát triển của nhân

dân ta.
Đề tài nghiên cứu không chỉ đánh giá những thành tựu và hạn chế của quá
trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn nêu lên những kiến nghị giải pháp
khả thi nhằm đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam theo quan điểm của Người trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 5 tiết.

15
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1. Tiểu sử bản thân và con đƣờng cách mạng
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1911:
Theo lý lịch chính thức, Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890,
tại quê ngoại ở làng Hoàng Trù và sống ở đây cho đến năm 1895. Năm 1907,
Hồ Chí Minh vào học tại trường Quốc học Huế và tham gia phong trào chống
thuế ở Trung Kỳ. Đầu năm 1910, Người vào đến Phan Thiết dạy chữ Hán và
chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của hội Liên
Thành. Năm 1911, Người nghỉ dạy và vào Sài Gòn theo học trường Bá Nghệ
là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng
Ba Son. Sau một thời gian Hồ Chí Minh quyết định sẽ tìm một công việc trên
một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài.
Giai đoạn này Hồ Chí Minh lớn lên và sống trong nỗi đau của người
dân mất nước, được sự giáo dục của gia đình, quê hương, dân tộc về lòng yêu
nước thương dân. Người sớm tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp, băn
khoăn trước những thất bại của các sĩ phu yêu nước chống Pháp. Người ham
học hỏi, muốn tìm hiểu những tinh hoa văn hóa tiên tiến của các cuộc cách
mạng dân chủ tư sản ở châu Âu, muốn đi ra nước ngoài xem họ làm gì để trở
về giúp đồng bào thoát khỏi vòng nô lệ. Chính vào lúc đó Hồ Chí Minh đã

hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của
nhân loại.
1.1.2. Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920:
Năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Hồ Chí Minh lấy tên Văn Ba, lên đường
sang Pháp với nghề phụ bếp trên một tàu buôn với mong muốn học hỏi những
tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm,
Người quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho

16
khách sạn. Cuối năm 1917, Người trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây
cho đến năm 1923. Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An
Nam yêu nước, Hồ Chí Minh đã mang tới Hội nghị Hòa bình Vec - xây bản
Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm, trao tận tay tổng thống Pháp và
các đoàn đại biểu đến dự hội nghị. Từ đây, Hồ Chí Minh công khai nhận mình
là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó.
.
Năm 1920,
Hồ Chí Minh đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê - nin, từ
đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Người tham dự Đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp tại Tua với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã
hội Pháp, trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp
và tách khỏi đảng Xã hội.
Giai đoạn này Hồ Chí Minh đi nhiều nơi với mục tiêu tìm đường cứu
nước. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến vượt bậc về tư tưởng;
từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ một
chiến sĩ chống thực dân phát triển thành một chiến sĩ cộng sản Việt Nam. Đây
là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản".

1.1.3. Giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930:
Năm 1921, Hồ Chí Minh cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa
Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng
lên chống chủ nghĩa đế quốc. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng
tiếng Pháp do Người viết được xuất bản năm 1925 đã tố cáo chính sách thực
dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa. Năm 1925, Hồ Chí Minh thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên
Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá Mác-Lê-
nin vào Việt Nam
.
và tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở
Á Đông. Năm 1930, tại Cửu Long thuộc Hương Cảng, Hồ Chí Minh thống

17
nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi
tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt
Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
Giai đoạn này Hồ Chí Minh đã có những hoạt động thực tiễn và lý luận
sôi nổi, phong phú ở Pháp, ở Liên Xô, ở Trung Quốc, ở Thái Lan, từ đó hình
thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã
kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với tuyên truyền tư tưởng giải
phóng dân tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng tổ chức
cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Những tác phẩm và
những bài viết của Hồ Chí Minh đã thể hiện những quan điểm lớn và độc đáo,
sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh trong những năm 20 của thế kỷ XX
được truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong trào dân tộc và giai cấp ở nước
ta trở thành một phong trào tự giác, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 3-2-1930, thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
1.1.4. Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945:

Năm 1931, Hồ Chí Minh bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý
định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Hồ Chí Minh trở về Việt
Nam vào năm 1941, ở tại tỉnh Cao Bằng và mở các lớp huấn luyện cán bộ,
cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày. Năm 1941, Hồ Chí Minh là
chủ tọa hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng và
quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Cuối
năm 1944, Hồ Chí Minh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt
chẽ và hiệu quả hơn; trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính
chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Hồ
Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên
quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.

18
Giai đoạn này trên cơ sở tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam
đã hình thành về cơ bản, Hồ Chí Minh kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng
của mình, phát triển thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập
tư tưởng độc lập, tự do, dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Đây là mốc lịch sử
không chỉ đánh dấu kỷ nguyên tự do, độc lập mà còn là bước phát triển mở
rộng tư tưởng dân quyền và nhân quyền của cách mạng tư sản thành quyền tự
do, độc lập của các dân tộc trên thế giới.
1.1.5. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969
Năm 1945, Pháp tấn công Sài Gòn, quân dân Sài Gòn cấp tập chống cự.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức,
bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt
Nam. Người trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà nước
và chính phủ đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại. Về
đối ngoại, Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công nhận, không phải
thành viên Liên hiệp quốc, cũng như không nhận được sự ủng hộ nào về vật

chất của các nước cộng sản khác. Ngoài 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch ở
miền Bắc, còn có quân Anh và quân Pháp và khoảng 6 vạn quân Nhật. Về đối
nội, "giặc đói, giặc dốt" và ngân quỹ trống rỗng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ 2, Hồ Chí Minh quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại
với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Người tuyên bố: "Chính vì Đảng
Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho
nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam" [18, tr.12]. Cuộc Chiến tranh
Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi người Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ
và dẫn đến Hiệp định Giơ - ne - vơ. Cuộc cải cách ruộng đất, phát động vào cuối
năm 1953 và kéo dài cho tới cuối năm 1957, đã phạm nhiều sai lầm nghiêm
trọng. Từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, Hồ Chí Minh
gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, Người khóc và nhận lỗi

19
trước hội nghị toàn quốc. Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, sức khỏe Hồ
Chí Minh giảm sút, Người bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật năm 1965.
Trong di chúc, Người có viết "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn
Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới" [3, tr.2]. Hồ Chí Minh mất vào hồi 9 giờ 47 phút
sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969.
Giai đoạn này Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân
ta vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân (1945 - 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên
Phủ; tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc. Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển
mới, trong đó nổi bật là các nội dung lớn như sau:
- Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc, tiến hành kháng chiến
kết hợp với xây dựng chế độ dân chủ nhân dân; tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng khác nhau, đó là cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam

và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm một mục tiêu chung trước
mắt là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
- Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào
sức mình là chính.
- Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân,
do dân, vì dân.
- Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền v.v
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh trải qua hơn nửa thế kỷ hình thành và
phát triển, là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới,
“là ngọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập,
tự do, vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội” [7, tr.5].

20
1.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.2.1 Truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc
Nước Việt Nam với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã
hình thành nên các giá trị truyền thống dân tộc phong phú, vững bền.
Ý thức chủ quyền quốc gia dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, yêu nước,
kiên cường, bất khuất đã tạo thành động lực mạnh mẽ của đất nước. Đó là
tinh thần tương thân, tương ái, nhân nghĩa, cố kết cộng đồng dân tộc; thủy
chung, khoan dung, độ lượng; là thông minh, sáng tạo, quý trọng hiền tài, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú văn hóa dân tộc Trong
nguồn giá trị tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi, là dòng
chảy chính của tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt trường
kỳ lịch sử, là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc.
Sức mạnh truyền thống tư tưởng và văn hóa của dân tộc đã thúc giục
Hồ Chí Minh ra đi tìm tòi, học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để
làm giàu cho tư tưởng cách mạng và văn hóa của Người.
1.2.2 Tinh hoa tư tưởng văn hóa nhân loại
Tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây, Hồ Chí Minh

đã làm giàu thêm vốn văn hóa của mình và vận dụng vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích cực của tư tưởng và văn hóa
phương Đông. Đó là tư tưởng Nho giáo với triết lý hành động, nhân nghĩa,
ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, thế giới đại đồng; về một triết lý
nhân sinh, tu thân, tề gia; đề cao văn hóa trung hiếu "Dân vi quý, xã tắc thứ
chi, quân vi khinh" . Người nói: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong
học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay
trong đó thì chúng ta nên học" [8, tr.46]. Người dẫn lời của V.I.Lênin: "Chỉ có
những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết
quý báu của các đời trước để lại" [8, tr.46]. Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã

21
tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn; coi trọng tinh thần bình
đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện, v.v Về chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh tìm thấy những điều thích hợp với điều kiện
nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu tư tưởng và văn hóa phương Tây.
Đó là tư tưởng văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách
mạng Mỹ. Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu
tư tưởng của các nhà khai sáng: Vônte (Voltaire), Rútxô (Rousso),
Môngtexkiơ (Moutesquieu). Đặc biệt, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư
tưởng tự do, bình đẳng của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791
của Đại cách mạng Pháp. Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Mỹ, Người đã
tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của
Tuyên ngôn độc lập năm 1776, quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ.
1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta,
những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm
nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng

con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản" [9, tr.128]. Như vậy có thể nói chủ nghĩa Mác- Lênin là
nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi,
linh hồn sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật; học tập lập trường,
quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết
các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất cách mạng tư
tưởng của Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

22
1.2.4. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh với một hệ tư tưởng phong phú đã chịu sự tác động sâu
sắc của thực tiễn dân tộc và thời đại mà Người đã sống và hoạt động.
Quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở trong nước và khi
còn bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu và hoạt động đã làm cho
Người có một hiểu biết sâu sắc về dân tộc và thời đại, nhất là thực tiễn
phương Đông để xem xét, đánh giá và bổ sung cơ sở triết lý phương Đông
cho học thuyết Mác - Lênin. Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám
phá quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân
tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia và thời đại mới để khái quát
thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn, qua kiểm nghiệm của
thực tiễn để hoàn thiện, làm cho lý luận có giá trị khách quan, tính cách mạng
và khoa học. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm hoạt động tinh thần của cá
nhân, do Người sáng tạo trên cơ sở những nhân tố khách quan. Do đó, tư
tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố nhân cách, phẩm chất và
năng lực tư duy của chính Người sáng tạo ra nó.
Không chỉ ở nước ta mà có nhiều chính khách, nhiều nhà hoạt động văn
hóa - xã hội ở nước ngoài đã nêu nhiều ý kiến sâu sắc về nhân cách, phẩm
chất, về tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923, lúc Hồ Chí

Minh vào trạc tuổi 33, nhà báo Liên Xô Ô. Manđenxtam khi tiếp xúc với Hồ
Chí Minh đã sớm nhận biết: "Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa,
không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai" [10,
tr.478]. Văn hóa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng theo
dòng thời gian của dân tộc và thời đại.
Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn
đến sự hình thành và phát triển tư tưởng của Người. Đó là một con người
sống có hoài bão, có lý tưởng, yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định,
có lòng tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái

23
mới, thông minh, có hiểu biết sâu rộng, có phương pháp biện chứng, có đầu
óc thực tiễn, v.v Chính nhờ vậy, Người đã khám phá sáng tạo về lý luận cách
mạng thuộc địa trong thời đại mới, xây dựng được một hệ thống quan điểm
toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, đã vượt qua mọi thử
thách, sóng gió trong hoạt động thực tiễn, kiên trì chân lý, định ra các quyết
sách đúng đắn và sáng tạo, biến tư tưởng thành hiện thực cách mạng.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát
triển biện chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng
văn hóa của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển
của Hồ Chí Minh - một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện
chứng, có nhân cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là tư tưởng Việt Nam hiện đại.
1.3. Những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ
truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của
chủ nghĩa dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy. Hồ

Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1930, trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định phương hướng chiến lược của
cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối
quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Hồ Chí Minh đã nói: "Yêu Tổ quốc, yêu

24
nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu
mạnh thêm" [11, tr.173]. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và
của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường cách mạng
vô sản và quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao
hàm những nội dung: Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần
từng bước "đi tới xã hội cộng sản"; Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp
công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản; Lực lượng cách mạng
là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và lao động trí óc; Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là
một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc
tế.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin về chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đưa
ra nhiều kiến giải mới nhằm bổ sung vào lý luận Mác - Lênin, phù hợp với

thực tế Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Mục tiêu chính trị: Chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm
chủ, nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình
thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị -
xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức dân chủ gián tiếp, tăng cường

25
hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp,
xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
- Mục tiêu kinh tế: Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà
những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó
"công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà".
- Mục tiêu văn hóa - xã hội: Để có một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ta
phải phát huy vốn văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc, đồng thời học
tập và tiếp thu có chọn lọc văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây
dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Hồ Chí Minh cũng
xác định mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội chính là con người.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh
thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút
vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
1.3.3. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ

truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam, trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng và có sự tổng kết những kinh nghiệm thành công và
thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải có
các nội dung: Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công
của cách mạng; Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng; Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân; Đại đoàn kết dân

×