Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SỰ vận DỤNG ĐẢNG TA về PHÁT TRIỂN văn hóa, CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THEO QUAN điểm TRIẾT học mác LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139 KB, 23 trang )

1
MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI...................4
1. Khái quát những quan điểm triết học về con người trong lịch sử.............4
2. Phương pháp, nội dung cơ bản tiếp cận vấn đề con người của triết học
Mác - Lênin...........................................................................................................6
II. SỰ VẬN DỤNG ĐẢNG TA VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA,
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THEO QUAN ĐIỂM
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN.......................................................................14
1. Quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa, con người ở nước ta hiện
nay.......................................................................................................................14
2. Giải pháp phát huy giá trị của văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước..................................................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................23


2
MỞ ĐẦU
Trong triết học, vấn đề con người là vấn đề lớn, nội dung phức tạp, việc
nhận thức và giải quyết vấn đề con người là nội dung cơ bản trong mọi học
thuyết chính trị xã hội, tư tưởng và có vai trị vơ cùng to lớn đối với sự phát triển
xã hội. Chính vì vậy, từ lâu, vấn đề con người đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều triết gia, nhiều học thuyết tư tưởng cả phương Đông và phương Tây. Dù
duy tâm hay duy vật, biện chứng hay siêu hình, mọi trào lưu triết học từ cổ đại
đến hiện đại đều đi vào lý giải một cách trực tiếp hay gián tiếp những vấn đề
chung nhất về con người. Cuộc đấu tranh xoay quanh vấn đề con người là một
trong những nét nổi bật của triết học. Tuy vậy, do hạn chế về điều kiện lịch sử,


do lập trường thế giới quan, phương pháp luận mà những tư tưởng triết học về
con người trước Mác dù phong phú, đa dạng nhưng nhìn chung là thiếu khoa
học, chưa nghiên cứu và chỉ rõ bản chất cách mạng khoa học trong các hệ thống
quan điểm về con người.
Kế thừa những thành tựu tư tưởng trong lịch sử, vận dụng phép biện chứng
duy vật vào nghiên cứu đời sống xã hội, triết học Mác - Lênin đã tạo ra bước
ngoặt cách mạng trong quan điểm về vấn đề con người. Lần đầu tiên trong lịch
sử vấn đề con người được trình bày một cách bao quát, đặc sắc và được luận giải
khoa học nhất, những giá trị đích thực của con người trong nhận thức và cải tạo
tự nhiên, xã hội và phát triển tư duy mới được trả lại giá trị đích thực. Triết học
Mác - Lênin đã kết luận: con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất
vật chất, đóng vai trị quyết định trong sự phát triển lực lượng sản xuất, mà còn
là chủ thể của quá trình lịch sử, của sự tiến bộ xã hội. Đây là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học cho Đảng ta nhận thức, vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam nhẳm: “khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết
tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn;
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”1 vơi mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST,H.2021, tập 1, tr.46


3
Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”2


2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2014


4
I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1. Khái quát những quan điểm triết học về con người trong lịch sử
Vấn đề con người luôn là trung tâm của các học thuyết triết học trong lịch
sử, trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, tiền đề kinh tế xã hội khác nhau
mà triết học trong lịch sử đã có nhiều quan niệm đa dạng, phong phú về con
người. Theo quan điểm duy tâm, tôn giáo, con người do thần thánh, do lực
lượng siêu nhiên tạo ra; cuộc sống con người do trời, thần sắp đặt, an bài. Ngược
lại, theo quan niệm duy vật mộc mạc, con người do Thái Cực, Ngũ Hành hoặc
do nước, khí… tạo thành. Đây là quan niệm mộc mạc, ngây thơ, chưa có cơ sở
khoa học vững chắc.
Vấn đề bản chất con người, trong triết học phương Đơng đã được giải thích
theo các khuynh hướng khác nhau. Đáng chú ý là quan điểm “Thiên nhân hợp
nhất”, tức là trời và người hoà hợp với nhau. Thuyết “con người là một tiểu vũ
trụ” tức con người là một bộ phận của tự nhiên, mang các tính chất của tự nhiên
và chịu sự chi phối của tự nhiên. Những quan điểm trên có đóng góp cho tư
tưởng triết học về nguồn gốc, bản chất con người. Mặc dù vậy, do hạn chế về
điều kiện lịch sử và trình độ khoa học các quan điểm đó chưa lý giải được một
cách đầy đủ và sâu sắc những vấn đề trên.
Trong triết học phương Tây cổ đại, chủ nghĩa duy vật đã giải thích nguồn
gốc, bản chất con người theo quan điểm duy vật chất phác, mộc mạc. Theo quan
điểm của các nhà triết học tự nhiên, con người là một bộ phận cấu thành của tồn
tại, của thế giới, là một bản nguyên vật chất xác định. Phái ngun tử luận, tiêu
biểu là Đêmơcrít cho rằng mọi sinh vật đều cấu tạo từ nguyên tử. Linh hồn con

người cũng là vật chất, được cấu tạo từ nguyên tử. Chủ nghĩa duy tâm thời cổ
đại đã coi con người có hai phần thể xác và linh hồn, trong đó linh hồn là bất tử.
Aritxtốt cho rằng, con người là một động vật chính trị, qua đó ông đã đặt vấn đề
nghiên cứu cả mặt tự nhiên và mặt xã hội của con người từ rất sớm.
Với sự thống trị của tôn giáo và thần học nên trong triết học thời kỳ trung
cổ quan niệm con người mang tính duy tâm, tơn giáo. Theo giáo lý Kitơ, con
người do Chúa sáng tạo ra, con người có phần thể xác và linh hồn. Khi thể xác


5
mất đi, linh hồn vẫn tồn tại. Thể xác và linh hồn đối lập nhau như cái thấp hèn
và cái cao thượng. Chúa là lực lượng siêu tự nhiên, định đoạt mọi số phận của
con người, ban phước hoặc trừng phạt con người.
Trong triết học Tây Âu thời kỳ Phục Hưng - Cận đại, quan niệm về con
người có bước phát triển đáng kể, phản ánh những vấn đề do khoa học và thực
tiễn đặt ra. Các nhà triết học duy vật, dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa
học tự nhiên đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo về vấn đề
nguồn gốc, bản chất con người. Theo quan điểm duy vật, con người là một thực
thể vật chất, ý thức từ vật chất sinh ra, là thuộc tính của vật chất.
Trong triết học cổ điển Đức quan niệm con người đã phát triển mạnh mẽ ở
cả hai khuynh hướng duy tâm và duy vật. Hêghen tuyệt đối hố con người lý
tính, cho rằng ý niệm tuyệt đối tha hoá thành tự nhiên, xã hội và con người. Ý
niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần sinh ra vũ trụ và con người. Chủ nghĩa duy
vật nhân bản của Phoiơbắc trong lúc phê phán chủ nghĩa duy tâm, đã khẳng định
ý thức là sản phẩm của bộ óc, tinh thần là sản phẩm của vật chất và tuyệt đối hoá
con người tự nhiên, sinh vật, không thấy được bản chất xã hội - lịch sử của con
người; khơng thấy vai trị hoạt động thực tiễn của con người.
Triết học tư sản hiện đại tiếp cận vấn đề con người mang tính chất siêu hình
phiến diện, họ tuyệt đối hóa yếu tố cá nhân, cả thể từ đó tuyệt đối hóa chủ nghĩa
cá nhân, hoặc đề cao bản năng, tính dục của con người, tuyệt đối hóa các yếu tố

về nhu cầu, mong muốn, ham muốn cá nhân… chưa tiếp cận con người trong
tính chỉnh thể trọng vẹn, trong sự thống nhất giữ tính sinh vật và tính xã hội của
con người, chưa thấy được bản chất xã hội mang tính hiện thực, “tổng hịa” khi
tiếp cận bản chất con người…
Như vậy, du rất phong phú và đa dạng, có những đóng góp nhất định trong sự
phát triển tư tưởng nhân loại về vấn đề con người nhưng nhìn chung các quan điểm
về con người trong lịch sử chưa thốt khỏi tính chất duy vật siêu hình hoặc duy tâm
thần bí. Mặc dù vậy, sự phát triển của lịch sử triết học về con người đã để lại những
tư tưởng quý giá về nguồn gốc, bản chất con người, làm cơ sở, tiền đề, điều kiện
cho triết học Mác kế thừa, phát triển đưa ra quan điểm khoa học về con người.


6
2. Phương pháp, nội dung cơ bản tiếp cận vấn đề con người của triết
học Mác - Lênin
* Khái niệm con người
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con
người, triết học Mác - Lênin đã đem lại một quan niệm hoàn chỉnh về con
người. Theo quan điểm chung nhất, con người là thực thể sinh học xã hội.
Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa là sản phẩm cao nhất trong
q trình tiến hố của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo mọi
thành tựu văn hoá trên trái đất. Triết học Mác chỉ rõ hai mặt, hai yếu tố cơ bản
cấu thành con người là mặt sinh học và mặt xã hội. Con người có mặt tự nhiên,
vật chất, nhục thể, sinh vật, tộc loại… Đồng thời, con người có mặt xã hội, tinh
thần, ngôn ngữ, ý thức, tư duy, lao động, giao tiếp, đạo đức… Hai mặt đó hợp
thành một hệ thống năng động, phức tạp, luôn luôn biến đổi, phát triển. Về vai
trò của con người, triết học Mác - Lênin khẳng định con người là chủ thể hoạt
động thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người sáng tạo ra mọi của cải vật
chất, tinh thần, đồng thời sáng tạo ra bộ óc và tư duy của mình.
* Sự hình thành, phát triển con người là một quá trình gắn liền với lịch sử

sản xuất vật chất
Khác với quan điểm triết học về con người trong lịch sử, triết học Mác Lênin nghiên cứu con người trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật
biện chứng, đã tiếp cận và luận giải sự hình thành, phát triển con người trong
lịch sử gắn với quá trình phát triển của sản xuất vật chất. “Có thể phân biệt con
người với súc vật, bằng ý thức, bằng tơn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng
được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến
do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của
mình”3. Từ đó, khẳng định lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình
thành, phát triển của con người. Chính trong lao động, thơng qua lao động mà
3

. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.3, tr.29.


7
con người biến đổi điều kiện tự nhiên bên ngoài; làm biến đổi bản chất tự nhiên,
cải tạo bản năng sinh học của con người; đồng thời hình thành và phát triển
những phẩm chất xã hội của mình.
Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn toàn vào tặng phẩm
của tự nhiên, còn con người phải bằng lao động sản xuất để cải tạo tự nhiên,
sáng tạo ra của cải vật chất, thoả mãn nhu cầu ngày càng phát triển của mình,
như Mác từng nhấn mạnh: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với
xã hội loài vật là ở chỗ: loài vượn may mắn lắm chỉ hái lượm trong khi con
người lại sản xuất. Chỉ riêng sự khác biệt duy nhất nhưng cơ bản ấy cũng khiến
ta không thể chuyển - nếu không kèm theo những điều kiện tương ứng - các quy
luật của các xã hội loài vật sang xã hội loài người” 4. Lịch sử sản xuất vật chất
cũng là lịch sử con người cải tạo tự nhiên phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát
triển của mình. C.Mác khẳng định: “Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên biểu hiện

ra là tác phẩm của nó (con người) và thực tại của nó” 5, làm cho tự nhiên “có tính
người”, tự nhiên được “nhân loại hoá”. Lịch sử phát triển của tự nhiên gắn bó
hữu cơ với lịch sử phát triển của xã hội lồi người. Chính vì vậy, C. Mác nói:
“Con người khơng bao giờ đứng trước một tự nhiên có tính chất lịch sử và một
lịch sử có tính chất tự nhiên”6.
Triết học Mác - Lênin khẳng định, thông qua lịch sử sản xuất vật chất, nhờ
lao động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên loài người. Lao động đã cải
tạo bản năng sinh học của con người, bắt bản năng phục tùng lý trí, phát triển
bản năng con người thành một trạng thái mới về chất. C. Mác cho rằng, “trong
con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng con người là bản năng đã
được ý thức”7. Lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành phát triển
phẩm chất xã hội của con người. Trong lao động tất yếu hình thành quan hệ xã
hội, thông qua hoạt động giao tiếp hình thành lên ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm,
ý chí và cả phương pháp tư duy của con người…. Chính vì vậy, Ph. Ăngghen
4

C. Mác và Ph. Ăngghen, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.34, tr.241.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t. 42, tr .137.
6
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 3, tr. 60.
3
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t 3, tr. 44.
7
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t 3, tr. 44.
5


8
khẳng định: “…trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động sáng tạo ra
bản thân con người”8.

Có thể nói, chính nhờ lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa
hoà nhập với tự nhiên trở thành một thực thể sáng tạo. Hoạt động lịch sử đầu
tiên mang ý nghĩa sáng tạo chân chính của con người là chế tạo ra công cụ lao
động. Con người bắt đầu lịch sử của mình từ đó. Nhờ cơng cụ lao động tư liệu
của mọi tư liệu - sức mạnh vật chất đầu tiên mà con người tách khỏi tự nhiên,
tách khỏi loài vật với tư cách là một chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Đồng
thời, bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con người hoà nhập với tự nhiên, biến “tự
nhiên thứ nhất” thành “tự nhiên thứ hai”, “tự nhiên thứ ba”…, sáng tạo ra của
cải, tri thức, tinh thần. Như vậy, sáng tạo là thuộc tính tối cao của con người.
Bản chất con người là sáng tạo ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa của nó.
* Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Trên cơ sở quan điểm toàn diện, triết học Mác - Lênin tiếp cận con người
trong tính tồn vẹn, khẳng định con người là một chỉnh thể tồn tại và phát triển
trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Đây là một chỉnh thể phức
tạp, năng động, luôn luôn vận động, phát triển.
Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển
cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo
nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con
người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã
hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết
định việc con người khơng bao giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính vốn
có của con vật”9. Điều đó có nghĩa rằng con người cũng như mọi động vật khác
phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để tồn tại và phát
triển. Tuy nhiên, khơng được tuyệt đối hóa điều đó, khơng phải đặc tính sinh
học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của
con người, mà con người còn là một thực thể xã hội. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, khi xem xét con người, không thể tách rời hai phương diện
8
9


C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 641.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t.20, tr.146.


9
sinh học và xã hội của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất,
quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ
phận của giới tự nhiên. “Giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người,...
đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên” 10. Về
phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của
giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các
q trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc biệt, quan
trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản
thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt đặc
biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Bằng hoạt
động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ
với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể
vơ cơ của con người”.
Con người cịn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động
xã hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật
duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” 11.
Nếu các động vật khác phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên,
dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải
tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ có
lao động sản xuất mà về mặt sinh học con người có thể trở thành thực thể xã hội,
thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã hội”.
Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con
người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện tiên
quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con

người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động, con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản
xuất, mà cịn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày
càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ
10
11

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t.42, tr.135.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.20, tr.673.


10
với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa những con người. Tính xã hội của con người chỉ có trong xã hội lồi
người, con người khơng thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con
người khác với các động vật khác. Hoạt động của con người gắn liền với các
quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã hội, khác với
hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của
nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý
thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với
nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát
triển. Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã
hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con
người là một thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có
thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.
* Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Phê phán quan niệm sai lầm của Feuerbach và của các nhà tư tưởng khác
về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại
và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con
người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản

phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con người. C. Mác
đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử là những con người hiện thực đang hoạt
động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở
thành những con người như đang tồn tại. Cần lưu ý rằng con người là sản
phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con người, khác với các
động vật khác, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người
còn là chủ thể của lịch sử.
* Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng
đồng thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội
tối cao của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch


11
sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn
gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của
chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà
chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng khơng
hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa
con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu” 12. Hoạt động lịch sử đầu
tiên khiến con người tách khỏi các động vật khác, có ý nghĩa sáng tạo chân chính
là hoạt động chế tạo cơng cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo
công cụ lao động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành
chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm ra
lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con
người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà phải dựa
vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh
mới. Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện

cũ của thế hệ trước để lại; mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của
mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào
thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống mơi trường
xác định. Đó là tồn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh
thần, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và xã hội.
Một mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải
quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng
các nguồn lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính
mình. Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các
quy luật của tự nhiên, tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học,
đặc biệt là các q trình y học, sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện
sinh thể hay sinh học, con người là một tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ
thống mở, biến đổi và phát triển không ngừng, thay đổi và thích nghi khá nhanh
12

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.20, tr.476.


12
chóng so với các động vật khác trước những biến đổi của mơi trường. Con người
vừa tiếp nhận, thích nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng bằng cách đó
cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
Con người cũng tồn tại trong mơi trường xã hội. Chính nhờ mơi trường xã
hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội. Môi
trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người có thể thực hiện quan
hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu hơn. Về thực chất, môi
trường xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên với những đặc thù riêng. So
với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và quyết
định đến con người, sự tác động của môi trường tự nhiên đến từng cá nhân con

người thường phải thông qua môi trường xã hội và chịu ảnh hưởng sâu sắc của
các nhân tố xã hội. Môi trường xã hội cũng như mỗi cá nhân con người thường
xuyên phải có quan hệ với môi trường tự nhiên và tồn tại trong mối quan hệ tác
động qua lại, chi phối và quy định lẫn nhau.
* Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất
định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” 13. Bản
chất của con người ln được hình thành và thể hiện ở những con người hiện
thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản
chất của con người, nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng
chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trị
khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có
nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh
thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ gián tiếp, quan hệ tất nhiên hoặc ngẫu nhiên,
quan hệ bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế... Tất cả
các quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các quan
hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng
sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có
13

C. Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.3. tr.11.


13
thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã
hội đó thì bản chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã
hội khi đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết định các phương diện
khác của đời sống con người khiến cho con người khơng cịn thuần túy là một
động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính

xã hội”14. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại,
phát triển và chi phối.
* Hiện tượng sự tha hoá của con người
Triết học Mác - Lênin nghiên cứu sự hình thành, phát triển con người trong
quá trình lịch sử, khẳng định bên cạnh mặt chủ đạo của con người là sáng tạo,
cịn có hiện tượng con người bị tha hố. Tha hố là q trình xã hội trong đó
hoạt động của con người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc lập
thù địch và thống trị lại con người.
Nguồn gốc của tha hoá là do sự phát triển của phân công lao động xã hội
và sự xuất hiện chế độ tư hữu. Triết học Mác - Lênin nghiên cứu những dấu hiệu
đặc trưng của sự tha hoá từ các phương diện: Sự tha hoá của điều kiện lao động;
sự tha hoá của kết quả lao động, sự tha hố của thiết chế chính trị xã hội; sự tha
hoá của tư tưởng; sự tha hoá của tự nhiên… Khắc phục sự tha hố là một q
trình lâu dài, gắn liền với xoá bỏ chế độ tư hữu. Triết học Mác - Lênin chính là
lý luận triết học về khắc phục sự tha hoá của con người, trước hết là lý luận giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Như vậy, triết học Mác - Lênin trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về
lịch sử, tiếp cận con người trong tính chỉnh thể của nó, đem lại một hình ảnh
tồn vẹn, đúng đắn về con người, khơi phục lại địa vị vốn có của con người
trong lịch sử. Triết học Mác - Lênin là học thuyết về sự giải phóng con người, vì
hạnh phúc con người. Đây là cơ sở để bác bỏ những luận điểm tư sản, xét lại cho
rằng triết học Mác bỏ quên vấn đề con người, không xây dựng học thuyết về con
người, chỉ xây dưng học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp.

14

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.2, tr.200.


14

II. SỰ VẬN DỤNG ĐẢNG TA VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY THEO QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

1. Quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa, con người ở nước ta
hiện nay
Một là, gắn kết giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người
Hội nghị trung ương IX khóa XI xác định “Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo
đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu xây dựng văn hóa cũng là
mục tiêu xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặt con người vào
vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời là chủ thể của
sự phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước với quyền làm chủ của nhân dân, bồi đắp
tình bạn, đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người Việt Nam hội tụ
đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp của cái chân, thiện, mỹ, mang đậm nét truyền
thống cốt cách tốt đẹp của con người Việt Nam, thống nhất với những phẩm chất
của con người mới xã hội chủ nghĩa giàu tính nhân văn, đậm chất dân chủ, đáp
ứng với xu thế phát triển của thời đại và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới theo tinh thần: “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”15.
Hai là, lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội
sinh bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất nước
Nghị quyết trung ương 9 khóa XI về Phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước khẳng định: “Xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực
sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
15


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H, 2021, t. 1, tr.46


15
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” 16. Đến đại hội XIII xác
định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” 17. Điều đó
khẳng định vai trị to lớn của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mực tiêu
phát triển bền vững đất nước. Vì vậy, cần khơi dậy động lực tinh thần to lớn, vô
song của dân tộc, con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,
xây dựng đất nước phồn vinh hạnh phúc; khơi dậy và phát huy giá trị văn hóa,
tài năng, trí tuệ, phẩm chất đạo đức, sức mạnh của con người Việt Nam là trung
tâm, là mục tiêu, là nguồn lực nội sinh, là động lực quan trọng nhất để đạt tới
các mục tiêu của phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI.
Khai thác và phát huy cao nhất các giá trị tốt đẹp, bền vững của văn hóa,
con người và gia đình Việt Nam. Nghiên cứu, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị, chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam trong sự nghiệp Đổi mới và
hội nhập quốc tế. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến
vì đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mọi người Việt Nam; làm cho văn hóa
thấm sâu vào trong tồn bộ đời sống và các hoạt động xã hội; gắn kết chặt chẽ
và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung
tâm; xây dựng Đảng toàn diện là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. “Xây dựng, phát
triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống
yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc”18; “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức

mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”19.

16

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2014
17
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H, 2021, t. 1, tr.34
18
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H, 2021, t. 1, tr.47
19
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H, 2021, t. 1, tr.216


16
Ba là, phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, là động lực cho phát triển đất nước
và hội nhập quốc tế
Trước sự phát triển của thực tiễn, yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng xác định, phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa chủ yếu vào việc
phát huy tối đa nhân tố con người; lấy con người là trung tâm, mục tiêu và động
lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Vì vậy, “Xây dựng con người Việt
Nam phát triển tồn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hịa giữa giá trị truyền thống và
giá trị hiện đại”20 là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Coi trọng giáo dục tinh thần
u nước, tự hào, tự tơn dân tộc, lịng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã
hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa
dân tộc. Thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo

và các giá trị cốt lõi, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất
là thế hệ trẻ. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo
dục thể chất, nâng cao tầm vóc của con người Việt Nam. Xây dựng, hồn thiện
các giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam thời đại mới phát triển
toàn diện về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội,
nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường,
năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế...
Phát triển mạnh mẽ nền văn hoá và con người Việt Nam trong điều kiện
tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu cấp thiết là phải
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nhất là các giá trị văn hoá truyền
thống và cách mạng; đấu tranh chống các khuynh hướng đồng hố, nơ dịch về
văn hố. Đồng thời, coi trọng việc tiếp thu tinh hoa văn hoá, khoa học, giáo dục
của nhân loại để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam tiến kịp, tiến
cùng thời đại. Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc, mà cốt lõi là làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, cũng chính là q trình
20

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H, 2021, t. 1, tr.143


17
xây dựng con người, phát huy tối đa nhân tố con người, thực hiện chiến lược
con người - khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực
văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân
cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa, phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân
cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh
hoạt và quan hệ con người, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực đột phá cho

phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, xác định: “Lấy con người là trung tâm
của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển”21
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước và hội nhập quốc tế
Từ Đại hội XI năm 2011, Đảng ta đã chỉ ra: “Chất lượng nguồn nhân lực là
một điểm nghẽn cản trở sự phát triển” 22 đến Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác
định, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát
triển và ứng dụng khoa học công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng, là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hóa giáo
dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng”23; “Chuẩn
bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số”24.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; chủ động tham gia vào thị
trường đào tạo nhân lực quốc tế đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công
21

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H, 2021, t. 2, tr.81
22
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H,
2011, tr.93.
23
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Sđd, t.2, tr.127
24
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,,

t.2, tr.128


18
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng là vấn đề cần được quan tâm nhất
hiện nay. Điều đó địi hỏi việc đào tạo nguồn nhân lực phải gắn kết chặt chẽ với
nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ; hình
thành các trung tâm nghiên cứu, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh. Nguồn nhân
lực được đào tạo phải bảo đảm cả tri thức, kỹ năng về khoa học công nghệ, khả
năng tiếp nhận và làm chủ được những thành tựu khoa học cơng nghệ mới, quản
lý hiện đại, có năng lực đổi mới sáng tạo, có khả năng làm việc trong môi trường
quốc tế. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế
số, xã hội số, văn hóa số, các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, nhân lực quản
lý, quản trị công nghệ, quản trị doanh nghiệp, nhân lực quản lý xã hội và tổ chức
cuộc sống, chăm sóc con người; phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài...
Năm là, phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam
Việt Nam là đất nước có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, có bề dày truyền
thống hàng nghìn năm. Nền văn hóa đó có hệ giá trị và bản sắc riêng và khơng
bị đồng hóa bởi bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Hệ giá trị và bản sắc đó đã tạo nên
sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế sâu rộng, bên cạnh việc phát huy sức mạnh tổng hợp quốc gia (về chính
trị, kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, con người, nguồn nhân lực, khoa học, công
nghệ, an ninh, quốc phịng, đối ngoại…) thì nguồn lực văn hóa đang được nhiều
quốc gia coi là một “sức mạnh mềm” quan trọng để phát triển nhanh, bền vững
và nâng cao vị trí, vai trị trên trường quốc tế. Vì vậy, “Khẩn trương triển khai
phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành cơng nghiệp văn hóa và dịch vụ văn
hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận
dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học,
kỹ thuật, công nghệ của thế giới”25.
2. Giải pháp phát huy giá trị của văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng

yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Một là, nâng cao nhận thức về vị trí vai trị của các giá trị văn hóa, con
người Việt Nam đối với sự phát triển của đất nước.
25

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H, 2021, t. 1, tr.145


19
Hiện nay, phát huy giá trị văn hoá Việt Nam là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng ta. Điều này càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh
tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, cũng như tác động mạnh mẽ của các phương
tiện truyền thông. Phát triển văn hóa xét cho đến cùng chính là vì con người, vì
sự ấm no, hạnh phúc của con người. Con người vừa là chủ thể sáng tạo ra văn
hóa, đồng thời cũng là mục tiêu của phát triển văn hóa. Vì thế, đầu tư cho văn
hóa cũng chính là đầu tư cho con người. Thực tế qua thời gian phòng, chống đại
dịch COVID-19 và khắc phục hậu quả thiên tai, muốn thành cơng phải khơi dậy
được tinh thần đồn kết, nhân ái của nhân dân cả nước, cộng đồng doanh
nghiệp, cùng chung tay hành động, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng và phát
huy mạnh mẽ thế trận lịng dân, an ninh nhân dân, quốc phịng tồn dân và các
giá trị văn hoá dân tộc.
Hai là, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam phù hợp
với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định: phát triển con người tồn diện và
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa
thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
quốc, tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo
môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu

nước, niềm tự hào dân tộc.
Ba là, phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam đối với sự phát triển
của đất nước là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống
chính trị. Phát huy giá trị văn hóa là phát triển cùng với kinh tế, củng cố quốc
phịng, do đó phát huy những giá trị văn hóa không của riêng ai, mà của mọi
cấp, mọi ngành. Trong đó, cần tập trung phát triển giá trị văn hóa: giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ chính trị, là trách nhiệm chung của tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn, của cả hệ thống chính trị và mọi người dân; phát huy giá trị
văn hóa là giữ cho được cái gốc, giá trị nền tảng tinh thần của cả dân tộc đồng
thời phát huy không đơn thuần là các hoạt động biểu diễn, những bộ phim, vở


20
kịch mà để làm sao văn hóa và giá trị văn hóa chứa đựng trong mọi cơng việc,
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong hoạt động của mỗi con người, mỗi tập thể,
trong giá trị của mỗi sản phẩm hàng hóa. Mục đích cao nhất là phát huy giá trị
văn hóa để phục vụ đất nước đưa phát triển văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn và tạo dựng sự phát triển bền vững của đất nước.
Bốn là, phát triển và phát huy đồng bộ, toàn diện các lĩnh vực văn hóa
trong q trình phát triển đất nước. Để làm được điều đó, chắc chắn chúng ta
cần quan tâm nhiều hơn đến phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá,
bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh
hoa văn hoá nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc
tế; xây dựng mơi trường văn hố một cách tồn diện ở gia đình, nhà trường,
cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để
văn hoá thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế.
Khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tự hào dân tộc, tính cộng đồng và
khát vọng vươn lên. Đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hố ứng xử
của người lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, cán bộ, cơng chức và đảng viên.
Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do

sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội. Phát huy vai trị của gia đình, cộng đồng,
xã hội trong việc xây dựng mơi trường văn hố, con người giàu lịng nhân ái,
khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, đức tính cần cù, chăm chỉ, tiết
kiệm, sáng tạo, hiện đại.
Năm là, tập trung nguồn lực phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số lĩnh
vực văn hóa.
Văn hóa và các giá trị văn hóa, con người Việt Nam là một lĩnh vực phong
phú, rộng lớn, nhưng cũng hết sức tinh tế, nhạy cảm. Vì vậy, cơng tác quản lý
văn hóa, cụ thể là tập trung nguồn lực phát triển các giá trị văn hóa cũng cần
phải có nhận thức, những kế hoạch hành động vừa mang tầm chiến lược, nhưng
cũng hết sức cụ thể. Để phát huy sức mạnh văn hóa, giá trị văn hóa, con người
Việt Nam, năng động hóa nền văn hóa dân tộc, đồng thời hạn chế sự phân tầng
trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, cần phân định rõ những lĩnh vực văn hóa


21
cần sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước và những lĩnh vực có thể do thị trường điều
tiết theo sự định hướng của Nhà nước. Cần đổi mới nội dung, phương thức đầu
tư phát triển văn hóa, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, cũng
như tình trạng bng lỏng sự lãnh đạo, quản lý lĩnh vực các giá trị văn hóa và
con người Việt Nam.


22
KẾT LUẬN
Điểm xuất phát của triết học Mác-Lênin là con người và mục đích cuối
cùng cũng chính là giải phóng con người. Với bản chất cách mạng, khoa học của
mình, triết học Mác-Lênin trở thành thế giới quan khoa học cho sự nghiệp giải
phóng con người, đưa con người trở về đúng với vị trí của mình - chủ thể của
lịch sử. Việc phát huy vai trò của con người để thực hiện mục tiêu giải phóng

con người, xem con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi
mới được Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, từ giáo dục và đào tạo đến khoa học và công
nghệ, từ lĩnh vực xã hội đến lĩnh vực văn hóa. Bài học lịch sử của cách mạng
Việt Nam là mọi sự thắng lợi đều phải dựa trên nền tảng phát huy vai trị của con
người. Con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế và xã hội,
coi trọng nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người, đề cao sự tu dưỡng, tự
rèn luyện, thông qua hoạt động thực tiễn để đào tạo, bồi dưỡng con người, thực
hành phê bình và tự phê bình thường xuyên, chống chủ nghĩa cá nhân… nhất là
khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra như vũ bão, Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang bắt đầu, tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn
ra với những diễn biến bất thường, khó lường.
Phát huy các giá trị văn hóa, con người Việt Nam là một nội dung quan
trọng của đời sống xã hội, có vị trí, vai trị ảnh hưởng sâu sắc trong sự hoàn
thiện nhân cách của mỗi cá nhân, sự vững chắc của cộng đồng và rộng hơn là sự
phát triển mỗi quốc gia. Đây là một trong những nhiệm vụ hết sức nặng nề, cần
quyết tâm cao với những giải pháp đồng bộ góp phần đưa quan điểm của Đảng
vào cuộc sống, từng bước xây dựng văn hóa, phát triển con người, để văn hóa,
con người thực sự là “nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững”26.

26

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H, 2021, t. 1, tr.216


23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Bắc, Văn hóa giáo dục Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Thời

đại, Hà Nội. 2011
2. Bùi Xuân Dũng (chủ biên), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát
triển nguồn nhân lực trong q trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021
3. Đinh Xuân Dũng, Văn hóa & con người Việt Nam hiện nay mấy suy nghĩ
từ thực tiễn, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội, 2016
4. Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển tồn diện, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2001
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tập 1, H. 2021
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tập 2, H. 2021
9. Phạm Minh Hạc, Về phát triển con người thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019
10. Phạm Minh Hạc, Phát triển giáo dục phát triển con người phụ vụ phát
triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1996
11. Nguyễn Chí Hiền, Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, Nxb CTQG, H. 2007
12. Ngô Thắng Lợi, Vũ Thành Hưởng, Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2019
13. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.2
14. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.3
15. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.20
16. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t.34




×