Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Kinh tế tri thức và việc phát triển nguồn lực con người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 104 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







LÊ THỊ LAN




KINH TẾ TRI THỨC VÀ VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN
NAY









LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












Hà Nội - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





LÊ THỊ LAN



KINH TẾ TRI THỨC VÀ VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN
NAY



Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA
DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 5. 01. 02




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học:
TS. DƯƠNG THỊ LIỄU




Hà Nội - 2005

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.

CHƯƠNG I: KINH TẾ TRI THỨC VÀ YÊU CẦU CỦA NÓ VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI

1.1 Một số vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức

1.1.1 Quan niệm về tri thức và kinh tế tri thức
5
1.1.2 Đặc trưng của kinh tế tri thức

12
1.1.3 Vai trò của kinh tế tri thức
17
1.2 Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với nguồn lực con người Việt
Nam

1.2.1 Khái niệm nguồn lực con người.
20
1.2.2 Vai trò của nguồn lực con người trong phát triển và trong nền
kinh tế tri thức
31
1.2.3 Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với nguồn lực con người Việt
Nam.
35
CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CỦA NỀN KINH TẾ TRI THỨC

2.1 Thực trạng nguồn lực con người Việt Nam trước yêu cầu của
kinh tế tri thức

2.1.1 Sự cần thiết từng bước xây dựng kinh tế tri thức ở Việt Nam
2.1.2 Khái quát về việc phát triển nguồn lực con người Việt Nam
những năm qua
39
45
2.1.3 Thực trạng nguồn lực con người Việt Nam trước yêu cầu của
nền kinh tế tri thức.
49
2.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người
Việt Nam theo hướng từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức


2.1.1. Phát triển trí tuệ con người Việt Nam
56
2.2.2. Cải thiện sức khoẻ, tăng cường thể chất cho người Việt Nam
71
2.2.3. Thực hiện đồng bộ biện pháp để phát huy tính tích cực của con
người Việt Nam.
75
PHẦN KẾT LUẬN
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91

MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


KTTT
Kinh tế tri thức
LLSX
Lực lượng sản xuất
CNH - HĐH
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CNXH
Chủ nghĩa xã hội



1
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với nhân loại chúng ta đang bước vào thế kỷ mới, thế kỷ của
những thay đổi to lớn và rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới. ở mọi nơi từ
các diễn đàn Liên hợp quốc, các hội nghị thượng đỉnh tới các cuộc tiếp xúc
song phương, các hội thảo khoa học quốc tế, quốc gia v.v đều có thể bắt gặp
ngày càng nhiều những khái niệm rất mới về giai đoạn phát triển hiện nay. Đó
là các khái niệm: toàn cầu hóa, kinh tế học hỏi, xã hội thông tin và đặc biệt là
kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức thực sự là khái niệm khá mới mẻ, hiện nay
các nhà khoa học đang có những quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức. Tuy
nhiên đã có thể thống nhất với nhau ở một số đặc điểm cơ bản của nó và đều
thừa nhận kinh tế tri thức đang làm cho diện mạo và cơ cấu kinh tế thế giới
thay đổi một cách căn bản và sâu sắc trong thế kỷ tới.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới sự phát triển của đất
nước bằng cách tiến tới xây dựng nền kinh tế tri thức và điều đó đã được thể
hiện trong Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần IX: "Con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những b-
ước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tận
dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn và
phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát
triển kinh tế tri thức” 12, 91. Tuy nhiên, trong điều kiện đi lên từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng 1/2
mức bình quân chung của toàn thế giới và được xếp vào nhóm các nước
nghèo nhất thế giới hiện nay, chúng ta còn nhiều khó khăn trước mắt trên con
đường xây dựng một nền kinh tế tri thức. Xét toàn cục, đến nay nước ta chưa
thoát khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển, trình độ chung còn thấp

2
kém, khoảng cách giữa nước ta với các nước trong khu vực không những
chậm được thu hẹp mà còn có nguy cơ mở rộng. Trong tình hình ấy nếu ta

không rút ngắn quá trình CNH- HĐH kết hợp hợp lý giữa bước tuần tự với b-
ước nhảy vọt, mạnh dạn và táo bạo đi ngay vào trình độ hiện đại từng bước
phát triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình chuyển nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế nông nghiệp thì bản thân chúng ta ngày càng tụt hậu.
Mặt khác để xây dựng đất nước, từng bước phát triển kinh tế tri thức
chúng ta phải quan tâm tới con người, nguồn lực con người. Bởi vì kinh tế tri
thức và nguồn lực con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ mật thiết
với nhau là cơ sở, là ngọn nguồn của nhau. Có thể nói con người là hạt nhân,
là mục đích của hoạt động tri thức, hoạt động kinh tế. Như vậy con người là
nguồn vốn quý giá nhất, tài nguyên lớn nhất trong tất cả các nguồn lực để tiến
hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Phát triển nguồn lực con người sẽ phát
huy được lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công
nghệ tiên tiến, từng bước phát triển kinh tế tri thức và để kinh tế tri thức phát
huy vai trò của mình. Vấn đề là làm thế nào phát triển nguồn lực con người
Việt Nam để bằng sức mạnh con người Việt Nam, đưa Việt Nam từng bước đi
vào kinh tế tri thức? Đó là một vấn đề cần được giải đáp thấu đáo cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
Vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Kinh tế tri thức và việc phát triển nguồn lực
con người Việt Nam hiện nay " nhằm đáp ứng đòi hỏi trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói vấn đề kinh tế tri thức cũng như vấn đề nguồn lực con người
thời gian qua đã được rất nhiều người quan tâm, nhiều hội nghị, hội thảo khoa
học trong và ngoài nước bàn đến. Đặc biệt mấy năm gần đây vấn đề đó càng
chú ý nhiều hơn vì nó gắn liền với những chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng, Nhà nước ta. Trên thực tế đã có một số công trình lớn như:
(1) Ngô Quý Tùng: "Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI".

3
(2) Ban khoa giáo Trung ương - Bộ khoa học công nghệ môi trường - Bộ
ngoại giao: Hội thảo "Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam".

(3) Tiến sĩ Trần Văn Tùng "Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo
dục Việt Nam ".
(4) Trường đại học Kinh tế quốc dân. Đề tài khoa học cấp cơ sở: "Những
vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức".
(5) Phạm Minh Hạc: "Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH- HĐH".
(6). Mai Thế Hởn: "Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH
ở nước ta".
(7) Trần Kim Hải: "Nguồn nhân lực, vấn đề chuẩn bị nguồn lực cho
CNH, HĐH ở nước ta".
Các công trình đó nhìn chung đã đề cập đến yêu cầu của nền KTTT đối
với nguồn lực con người. Tuy nhiên chúng mới đề cập ở những khía cạnh cụ
thể với một mức độ nhất định, chưa tiếp cận từ góc độ phương pháp luận triết
học và chưa chỉ ra một cách có hệ thống yêu cầu của KTTT đối với việc phát
triển nguồn lực con người Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Trên cơ sở phân tích vấn đề KTTT, yêu cầu của phát triển
KTTT và việc phát triển nguồn lực con người, luận văn đề ra một số giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người Việt Nam để từng bước phát
triển KTTT.
* Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên luận văn giải quyết một số
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ lý luận cơ bản về kinh tế tri thức về vai trò nguồn lực con
người trong phát triển kinh tế tri thức
- Sự cần thiết của việc từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

4
và những yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển nguồn lực con người Việt
Nam.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu phát triển nguồn lực con người Việt
Nam để tiến tới phát triển KTTT.

4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn bàn về KTTT và vấn đề phát triển nguồn lực con người. Trên
cơ sở đó đề ra những giải pháp có tính định hướng cho việc phát triển nguồn
lực con người Việt Nam trong bối cảnh kinh tế tri thức.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đặc biệt là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, nguyên lý về sự phát triển, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, vấn đề
con người, bản chất con người và sự phát triển con người. Luận văn còn sử
dụng các quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời luận
văn cũng sử dụng những kết quả nghiên cứu của các tác giả liên quan tới
phạm vi nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng đồng thời các phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, phương
pháp lịch sử và lôgic
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về tri thức và vai
trò của kinh tế tri thức.
* Thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy nghiên cứu những vấn đề: Triết học, kinh tế học, quản lý xã
hội v.v
7. Kết cấu của luận văn

5
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.



6
CHƢƠNG 1
KINH TẾ TRI THỨC VÀ YÊU CẦU CỦA NÓ
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƢỜI

1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ TRI THỨC
1.1.1 Quan niệm về tri thức và kinh tế tri thức
* Tri thức là gì ?
Tri thức là sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan và khả
năng vận dụng chúng vào thực tiễn. Tri thức cũng là sự tích luỹ thông tin và
những kỹ năng có được qua việc sử dụng chúng.
Với cách hiểu về tri thức như vậy chúng ta có thể tiến hành phân loại tri
thức với những loại tri thức như sau:
1 - Hiểu biết về sự vật (Know What: biết cái gì )
Đó là kiến thức về các định luật, nguyên lý của các sự kiện là biết ở mức
độ các tri thức khoa học.
2 - Hiểu biết về nguyên nhân (Know Why: biết tại sao).
Đó là các kiến thức (gắn với các kỹ năng hay khả năng thực hiện một cái
gì đó, là hiểu biết về công nghệ).
3 - Hiểu biết về cách làm ( Know How : biết làm thế nào)
Đó là các kiến thức gắn với các kỹ năng hay khả năng thực hiện một cái
gì đó là hiểu biết về công nghệ.
4 - Hiểu biết về người (Know Who : biết về ai đó hay)
Đó là kiến thức về người biết cái gì đó và người biết cách làm cái gì đó;
đó là các tri thức xã hội.
5 - Hiểu biết về địa điểm và thời gian (Know Where & Know When: biết
ở đâu và lúc nào).
Trên đây là cách phân loại phổ biến nhất, ngoài ra còn có những cách
phân loại khác. Gắn liền với quá trình sản xuất là tri thức công nghệ, gắn với
sự hoạt động có hiệu quả của thị trường là tri thức về những thuộc tính như


7
chất lượng của sản phẩm, chất lượng của người lao động, độ tin cậy của
doanh nghiệp hoặc cũng có thể phân thành tri thức hiện và tri thức ngầm.
* Đặc điểm của tri thức thời hiện đại
Đặc điểm của tri thức trong thời đại hiện nay là tốc độ gia tăng nhanh
chóng, đổi mới diễn ra liên tục, khả năng lan truyền và phổ biến rộng rãi, gắn
trực tiếp với hoạt động sản xuất và đời sống xã hội.
Tốc độ gia tăng của tri thức cực kỳ nhanh chóng điều đó thể hiện thông
qua khối luợng kiến thức của loài người. Cuối thế kỷ XX, lượng tri thức của
nhân loại đã tăng thêm khoảng 1.000 lần so với đầu thế kỷ. "Năm 1998, tổng
thống Mỹ Bill Clin tơn đã nhận định cứ 5 năm thì tri thức tăng gấp đôi, thì
đến năm 2001 người ta đã cho rằng chỉ cần 3 năm là tăng gấp đôi lượng tri
thức. Ngày nay số lượng tạp chívà bài báo khoa học cứ 10 năm lại tăng lên
gấp đôi, trung bình mỗi năm tăng 600 triệu trang".39, 10
Tri thức cũng có sự đổi mới thay thế giữa những thế hệ, tri thức diễn ra
thường xuyên và nhanh chóng. Như vậy dẫn đến đặc điểm là tri thức hiện nay
là sự liên kết, tích hợp các dòng tri thức vốn khác nhau. Mặt khác mức độ lan
truyền (về không gian và thời gian) của tri thức được mở rộng, đẩy mạnh nhờ
khả năng hệ thống hoá của chúng. Ngày càng nhiều khối lượng tri thức có thể
đơn giản hoá, đồng nhất hoá, tiêu chuẩn hoá thành những thông tin rõ ràng,
ngắn gọn, dễ dàng cho việc truyền tải và lưu giữ, tái tạo.
Tri thức ngày càng gắn trực tiếp với hoạt động sản xuất, khả năng ứng
dụng của tri thức đã tạo nên "sự khác nhau rõ nhất giữa chúng ta và tổ tiên
chúng ta" theo cách nói của Alvin Toffler.
Tất cả những điều đó đã làm cho sản phẩm tri thức có nhiều tính chất đặc
biệt khác với sản phẩm vật thể thông thường và có thể nêu lên các tính chất
đặc biệt quan trọng của tri thức sau đây:
- Vì tri thức thuộc phạm trù tinh thần nên tri thức luôn phải có vật mang
nó. Vật mang ấy có thể là các bộ nhớ trong bộ não, hoặc qua ngôn ngữ, hình

ảnh được ghi trong tài liệu (sách), băng từ, đĩa quang, bộ nhớ silic.

8
- Đối với sản phẩm thông thường người mua có quyền sở hữu về nó,
nghĩa là có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Nhưng đối với sản phẩm của
tri thức, người mua chỉ có quyền sở hữu vật mang, còn về nội dung tri thức thì
chỉ có quyền sử dụng. Người có kiến thức trao cho người khác thì kiến thức
của anh ta không mất đi mà lại được sử dụng tốt hơn, càng trao cho nhiều ngư-
ời thì khả năng sử dụng nó để tạo ra của cải, lợi ích ngày càng nhiều.
- Quá trình tiêu dùng sản phẩm dù là tiêu dùng sản xuất hay tiêu dùng
cho cá nhân, nói chung đều mang tính chất của một quá trình nghiên cứu, học
tập và trực tiếp hoàn thiện sản phẩm tri thức đó. Đôi khi người tiêu dùng còn
phát hiện ra những tính năng mà chính các tác giả của nó không ngờ tới.
- Với trình độ của khoa học và công nghệ sản xuất ngày càng cao việc
sản xuất các loại sản phẩm tri thức hiện nay thường có giá trị gia tăng rất lớn.
Tỷ suất giá trị thặng dư trên chi phí sản xuất thường đạt vài chục thậm chí vài
trăm trở lên.
Do có những tính chất đặc biệt như vậy nên trước kia người ta thường
tách các sản phẩm tri thức riêng ra, thậm chí không coi là sản phẩm, kết quả
của lao động sản xuất mà là kết quả của sáng tạo đặc thù.
* Vai trò của tri thức
Tri thức quan trọng cho sự phát triển bởi vì mọi công việc chúng ta đang
làm đều phụ thuộc vào tri thức. Thực tế cho thấy muốn cuộc sống tốt hơn, sức
khoẻ được cải thiện, điều kiện sinh hoạt và các tiện nghi sinh hoạt thuận tiện,
đa dạng và phong phú đều phải có sự biến đổi các nguồn lực nhờ vào tri thức.
Điều đó khẳng định tri thức là yếu tố quyết định cho mức sống, cho quá trình
phát triển. Tri thức có vai trò to lớn đối với tăng trưởng kinh tế; với hoạt động
chính trị, văn hoá, tinh thần; với việc giải quyết các vấn đề xã hội, phúc lợi xã
hội; với việc bảo vệ môi trường.
Có thể nói chưa bao giờ vai trò, động lực của tri thức, của khoa học -

công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trở nên vô cùng nổi bật như

9
ngày nay. Tri thức thực sự đã chiếm vị trí đặc biệt đối với phát triển. Và khi
nói đến vai trò của tri thức thì chúng ta không thể không nói tới việc nó đã
thúc đẩy sự ra đời những cuộc cách mạng trong lịch sử loài người: cách mạng
trong nông nghiệp, cách mạng trong công nghiệp và đặc biệt ngày nay là cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nó đã tạo tiền đề cho sự ra đời của
kinh tế tri thức.
* Sự xuất hiện và phát triển của KTTT
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại nhất là cách mạng về
thông tin đã thúc đẩy sự ra đời nền kinh tế tri thức.
Từ những năm 1980 đến nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, có những thành tựu thần kỳ về mặt trí tuệ và
công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ tin học. Cuộc cách mạng này
đã làm thay đổi nền kinh tế thế giới trong xu thế cạnh tranh của thị trường và
tăng trưởng với nhịp độ cao hơn nhiều so với giai đoạn trước khoảng 3,4 -
3,5%/ năm. Người ta đã khẳng định: cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại đang tạo nên bộ mặt mới của nền kinh tế tạo tiền đề để hình thành
nên kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Và nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri
thức và thông tin đó đã làm nên cho tri thức và thông tin trở thành yếu tố sản
xuất quan trọng hơn cả vốn và lao động. Ngày nay các ngành công nghệ cao
(công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá, công nghệ
vật liệu mới ) phát triển mạnh mẽ, có giá trị gia tăng nhanh và đang chiếm
vị trí trọng yếu trong các nền kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Trong hai
cuộc cách mạng công nghiệp, máy móc đảm đương những công việc nặng
nhọc và phức tạp nhất dành cho con người những công việc nhẹ nhàng giản
đơn và thuận lợi hơn. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại hiện nay
với nội dung cơ bản là tự động hoá cao độ, đã thay thế phần lớn lao động chân
tay của con người và con người chỉ có nhiệm vụ bấm nút, chỉ huy người máy,

những vật liệu mới, công nghệ chất dẻo đặc biệt, composit, sợi quang học,
gốm sứ cứng chịu nhiệt đã và đang thay thế ngày càng nhiều những nguyên
liệu cổ truyền đang bị cạn kiệt trong thiên nhiên. Công nghệ hoá chất chuyển

10
từ công nghệ hoá dầu sang công nghệ sinh hoá sản xuất những vật liệu mới,
vật liệu composit, gốm sứ cho công nghệ ô tô, hàng không, vật liệu cho viễn
thông, điện tử và những chất liệu cho nông nghiệp. Công nghệ sinh học ngày
càng trở thành nhân tố thiết yếu với phát triển nông nghiệp, chế biến thực
phẩm, y dược học. Trong thập niên 90 của thế kỷ XX các thành tựu về công
nghệ thông tin như công nghệ Web, Internet, thực tế “ảo”, thương mại điện
tử, với máy tính và mạng máy tính có chức năng kỳ diệu là có thể thay thế
một phần lao động trí óc, nâng cao tri thức giúp cho con người nâng cao khả
năng tư duy, khả năng sáng tạo. Từ đó đẩy nhanh, mạnh sự đổi mới công
nghệ, đổi mới tổ chức quản lý, cải thiện điều kiện lao động, làm cho quá trình
toàn cầu hoá gia tăng mạnh mẻ trong những năm gần đây. "Ngày nay nhịp độ
tăng trưởng GDP, tốc độ tăng việc làm do công nghệ thông tin tạo ra nhanh
hơn từ 14 đến 16 lần so với toàn bộ các ngành kinh tế còn lại" 39, 18
Ở những cuộc cách mạng trước đây, hàm lượng về năng lượng nguyên
liệu, máy móc, vốn, thiết bị, lao động chiếm phần lớn trong một sản phẩm.
Nhưng với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại hàm lượng về vật
chất như năng lượng, nguyên liệu, thiết bị, trong một sản phẩm giảm đi rất
nhiều và chỉ chiếm 25- 30% trong một sản phẩm và lượng trí tuệ, chất xám lại
tăng cao chiếm khoảng 70- 75% trong một sản phẩm làm cho giá trị của sản
phẩm phụ thuộc vào giá trị công nghệ và trí tuệ nhiều hơn là phụ thuộc vào
yếu tố truyền thống như vốn tài nguyên thiên nhiên, vật liệu. Như vậy nền
kinh tế của các quốc gia phát triển chủ yếu dựa vào trí tuệ, chất xám, công
nghệ cao và bảo vệ môi trường.
Mặt khác khoa học - công nghệ đã tác động mạnh mẽ đến sự dịch
chuyển cơ cấu kinh tế thế giới, làm cho nhiều ngành mới, nhất là trong các

lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ được tạo ra. Tỷ lệ các ngành dịch vụ tăng lên
ở các nước công nghiệp phát triển dịch vụ chiếm tỷ lệ khoảng trên 60% tổng
số sản phẩm xã hội của toàn thế giới. Phát triển mạnh nhất là các ngành sản
xuất và dịch vụ dựa vào tri thức và công nghệ cao, những ngành KTTT.

11
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với tốc độ phát
triển của các ngành công nghệ tiên tiến rất cao nên việc đào tạo nghề cũng
khác nhiều so với trước đây. Nơi làm việc cũng là chỗ để nâng cao nghề
nghiệp, doanh nghiệp có trường đại học, cao đẳng và nghiên cứu. Chính vì thế
nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hoá và cơ cấu lao động xã hội
cũng thay đổi cơ bản.
Có thể nói khoa học - công nghệ đang đưa nền sản xuất của xã hội từng
bước chuyển từ nền sản xuất công nghiệp dựa vào máy móc, tài nguyên thiên
nhiên là chủ yếu, sang nền sản xuất tri thức dựa vào trí lực và thông tin. Khoa
học - công nghệ toàn cầu hoá tác động mạnh mẽ hình thành nền KTTT và trở
thành trào lưu phổ biến của thế giới hiện nay. Theo dự báo, khoảng vài thập
kỷ nữa nền kinh tế các nước phát triển sẽ trở thành nền kinh tế tri thức.
* Kinh tế tri thức là gì?
Trong thời gian gần đây nhiều chuyên gia kinh tế quốc tế đã dồn dập đưa
ra các phương thức, các định nghĩa về một mẫu hình kinh tế mới đó là "nền
KTTT " nền kinh tế của hiện tại và tương lai. "Nền KTTT" không còn chỉ là
một thuật ngữ có tính học thuật mà đã thực sự trở thành một mục tiêu then
chốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia.
Thuật ngữ "nền KTTT" đã được sử dụng rộng rãi nhưng nội dung của nó
lại được hiểu với những khác biệt lớn.
Thuật ngữ đó thể dùng để miêu tả một nền kinh tế mới được kết nối
qua lại chặt chẽ và những ảnh hưởng tích cực của các công nghệ mới nổi
lên ở nơi làm việc và ở mọi gia đình. Hoặc nó được dùng để nói về hiệu
ứng suy giảm số công nhân "cổ xanh" trong lực lượng lao động. Cũng có

thể nó dùng diễn tả việc các ngành vi tính hoá và công nghệ cao. Lại có ng-
ười cho rằng nó là sức đẩy tới của "quản lý tri thức" - sự thích ứng của các
cấu trúc tổ chức truyền thống theo hướng quản lý tốt hơn các "công nhân
tri thức" có kỹ năng cao.
Vậy kinh tế tri thức là gì? Chưa có một định nghĩa chính xác được chấp

12
nhận chung về nền KTTT. Thời gian gần đây có rất nhiều công trình nghiên
cứu, nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế do WB, ESCAP, UNESCO tổ chức và
trong chính sách và chiến lược phát triển quốc gia của các nước đã dùng
những tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế.
Kinh tế dựa vào tri thức (Knowledge based economy) kinh tế dẫn dắt bởi
tri thức (Knowledge based economy), kinh tế tri thức (Knowledge economy):
những khái niệm này nói lên vai trò quyết định của tri thức và công nghệ
trong vai trò phát triển kinh tế.
Kinh tế thông tin (Information Economy), kinh tế mạng (Networld
Economy), kinh tế số (Digital Economy): những khái niệm này nói lên vai trò
quyết định của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế.
Kinh tế học hỏi (Learning Economy): khái niệm này nói lên động lực
chủ yếu của nền kinh tế là sự học hỏi suốt đời của mọi ngời.
Kinh tế mới (New Economy) là tên gọi chung không xác định nội dung.
Có thể nói trên thế giới hiện nay thuật ngữ kinh tế tri thức được sử
dụng nhiều nhất. Từ năm 1995 tổ chức hợp tác phát triển kinh tế OECD chính
thức sử dụng thuật ngữ này. Cách gọi này đã nói lên nội dung cốt lõi của nền
kinh tế mới. Còn kinh tế thông tin, kinh tế số chỉ nói về công nghệ thông tin,
mặc dù công nghệ thông tin là nội dung chủ yếu nhất nhưng không bao gồm
được các yếu tố tri thức và công nghệ khác.
Theo OECD, KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập
và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lƣợng cuộc sống.

Như vậy ta có thể hiểu KTTT là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận,
truyền bá, sử dụng, khai thác sáng tạo tri thức trở thành phần chủ đạo trong
quá trình tạo ra của cải. Tri thức, thông tin, công nghệ cao luôn có vai trò thúc
đẩy sản xuất và nền kinh tế phát triển. Trong nền KTTT, chúng trở thành
những yếu tố hàng đầu của sản xuất, khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Trong nền KTTT công nghệ cao như công nghệ thông tin nhất là

13
siêu xa lộ thông tin Intenet, multimedia, thực tế “ảo”, công nghệ sinh học đặc
biệt công nghệ gen, công nghệ tế bào, vật liệu mới, năng lượng mới, làm tăng
nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển.
1.1.2 Đặc trƣng của nền KTTT
Lịch sử loài người đã trải qua nhiều nền kinh tế khác nhau: từ kinh tế săn
bắn, hái lượm thời kỳ cổ đại chuyển sang nền kinh kế nông nghiệp, từ nền
kinh tế nông nghiệp chuyển sang nền kinh tế công nghiệp, từ công nghiệp
sang nền kinh tế có thông tin, dịch vụ, công nghệ kỹ thuật cao, đó chính là
nền KTTT. Nền KTTT có những đặc trưng nổi bật sau:
1 - Tri thức khoa học - công nghệ cũng như kỹ năng của con người trở
thành lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu. Giờ đây tri thức khoa học -
công nghệ không còn lý thuyết xa xôi đứng ngoài hoặc đứng trên quá trình
sản xuất mà chuyển thành một bộ phận hữu cơ của cả hệ thống kinh tế - xã
hội, gắn bó với nhau vô cùng chặt chẽ. Với ý nghĩa đó tri thức thực sự đã trở
thành lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất và
trước hết là công cụ sản xuất, trong quá trình sản xuất con người với tư cách
là chủ thể của quá trình sản xuất, với sức lao động, kinh nghiệm, thói quen, tri
thức khoa học - công nghệ của mình đã sử dụng công cụ lao động tác động
vào đối tuợng lao động để tạo ra của cải vật chất. Con người bằng trí thông
minh, khả năng sáng tạo đã cải tạo các công cụ hiện có, sáng tạo ra những

công cụ mới nhằm đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Ở các
thời kỳ cuộc cách mạng trước quá trình đó chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đã
tích luỹ được thì ngày nay quá trình này chủ yếu dựa vào những tri thức khoa
học mới. Tri thức khoa học công nghệ của con người đã phát triển đến mức
trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến đổi trong đời sống kinh tế - xã
hội.

14
Trong nền kinh tế tri thức, vai trò của con người trong lực lượng sản xuất
không hề thay đổi, họ vẫn là chủ thể của quá trình sản xuất và cũng chính họ
là những người sáng tạo ra những thành tựu mới của khoa học - công nghệ.
Tuy nhiên tính chất hoạt động của người lao động và yêu cầu của người lao
động trong nền kinh tế tri thức đã có sự thay đổi căn bản so với con người
trong nền kinh tế nông nghiệp và nền kinh tế công nghiệp. Trong nền kinh tế
công nghiệp, cường độ lao động của con người đã được giảm nhẹ đáng kể
nhờ sự trợ giúp của máy móc, thiết bị và đã sử dụng chúng một cách có hiệu
quả, người lao động phải có hiểu biết về tính năng tác dụng của máy móc đó
và về quá trình sản xuất nói chung, còn trong nền kinh tế tri thức người lao
động phải vừa nghiên cứu vừa sản xuất, sản phẩm của họ là những phát minh
được ứng dụng ngay vào sản xuất. Tri thức khoa học và công nghệ là yêu cầu
quan trọng, tiên quyết với người lao động.
2 - Tri thức cùng với những phát minh khoa học - công nghệ sản sinh từ
tri thức ở trình độ cao là yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh của sản
phẩm, của doanh nghiệp và quốc gia
Trong nền kinh tế tri thức vốn quý nhất là tri thức, với nền tảng tri thức
to lớn và phong phú người ta có thể sáng tạo ra những sáng chế, phát minh kỳ
diệu, tiềm lực kinh tế nhờ đó mà phát triển lên nhiều lần. Trong hoàn cảnh đó,
quyền sở hữu tri thức trở thành quan trọng nhất, nó quan trọng hơn cả sở
hữu về vốn tài chính, tài nguyên và đất đai. Người nào chiếm hữu được
nhiều tài sản trí tuệ hơn người ấy sẽ chiến thắng trong cạnh tranh về kinh tế

thậm chí cả trong chính trị nữa. Tài sản trí tuệ tri thức thực sự đã tạo nên lợi
thế to lớn cho người sử dụng chúng. Bởi lẽ trong thời đại ngày nay sự phát
minh và ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ vào
sản xuất sẽ làm cho sản phẩm sản xuất ra ngày càng thích hợp với yêu cầu
của ngưười sử dụng, làm cho lợi thế về tài chính và vật chất được phát huy
một cách có hiệu quả nhất.
Hãng Microsoft của Bill Gate là ví dụ điển hình cho thấy ông chủ của

15
các công ty công nghệ thông tin sở hữu khối lượng tài sản khổng lồ mà bước
khởi đầu không có gì khác ngoài ý tưởng và trí tuệ.
Hiện nay phát huy lợi thế so sánh là điều kiện tối quan trọng bảo đảm
hiệu quả của việc mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế
công nghiệp, về mặt kinh tế, thế giới đã chia thành hai khối: các nước công
nghiệp phát triển và các nước đang phát triển trong đó có các nước nghèo.
Các nước công nghiệp phát triển có lợi thế là trình độ khoa học - công nghệ
cao, nguồn vốn dồi dào, chiếm khối lượng khổng lồ về tài sản và của cải vật
chất. Còn các nước đang phát triển lợi thế chủ yếu là nguồn nhân lực đông
đảo, giá nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, với lượng dân số lớn
nhưng các nước này chỉ sở hữu lượng tài sản, của cải vật chất hết sức khiêm
tốn. Với những lợi thế so sánh đó dễ dàng nhận thấy sự bất lợi luôn nghiêng
về phía các nước đang phát triển.
Do tri thức tạo nên lợi thế cạnh tranh to lớn của sản phẩm, của doanh
nghiệp và quốc gia, nên sáng tạo được coi là động lực của sự phát triển và đầu
tư vào nghiên cứu phát minh ngày càng được quan tâm, coi trọng. Chính điều
đó đã, đang và sẽ mang lại hiệu quả trực tiếp và to lớn. Trong nền kinh tế tri
thức, sáng tạo thực sự là linh hồn của sự đổi mới. Như vậy cũng có nghĩa là
khoa học thực sự trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu, tri thức khoa học là
yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh ở mỗi đơn vị sản xuất,
kinh doanh (doanh nghiệp) và mỗi quốc gia.

3. Nền kinh tế tri thức vừa đòi hỏi và thúc đẩy, vừa tạo điều kiện phát
triển học tập của mỗi thành viên trong xã hội
Trong nền kinh tế tri thức con người vẫn là yếu tố quyết định quá trình
phát triển. Ở đó, việc học tập trở thành nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi người.
Toàn bộ hệ thống giáo dục đào tạo và việc học tập của mỗi người không chỉ
tạo ra cho mỗi người một nghề để tìm cách kiếm sống mưu sinh, cung cấp cho
mỗi người kiến thức cơ bản về nghề nghiệp, mà quan trọng hơn là tạo ra cho
mỗi nguời một nền tảng tri thức căn bản, có năng lực tự làm phong phú, giàu
có tri thức ấy theo yêu cầu của công việc và năng lực sáng tạo. Con người

16
trong nền KTTT là con người sáng tạo. Sức cơ bắp của con người sẽ là cơ sở
để đánh giá trạng thái thể lực chứ không thể là cơ sở để đánh giá trình độ sức
khoẻ của nguời lao động theo nghĩa rộng. Sức khoẻ của người lao động trong
nền kinh tế tri thức phải bao gồm cả sức sáng tạo, chỉ số IQ sẽ trở thành tiêu
thức quan trọng hàng đầu đánh giá năng lực của mỗi người.
Do sự bùng nổ những phát minh và sự đổi mới thường xuyên kiến thức,
hệ thống giáo dục đào tạo sẽ có những thay đổi căn bản so với hệ thống đó
trong nền kinh tế công nghiệp: đào tạo cơ bản, phát triển năng lực sáng tạo,
quá trình đào tạo và làm việc gắn kết chặt chẽ với nhau. Vì vậy con người
trong nền kinh tế tri thức cũng có những thay đổi căn bản so với con người
trong nền kinh tế công nghiệp.
Mặt khác nền kinh tế tri thức vừa đòi hỏi, thúc đẩy học tập, vừa tạo điều
kiện cho học tập được thực hiện một cách thuận lợi và có hiệu quả. Bởi lẽ xã
hội đã tạo điều kiện, khuyến khích việc học tập của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng Mỗi cá nhân lại nhận thức sâu sắc sự cần thiết phải học tập, tự giác thực
hiện việc học tập. Hệ thống giáo dục đào tạo được đổi mới thích ứng với nhu
cầu học tập và nhu cầu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển của
các phương tiện kỹ thuật đã tạo cho mỗi người có thể học tập ở bất cứ đâu, ở
bất cứ lúc nào.

"Có thể khẳng định rằng xã hội trong nền KTTT là xã hội học tập, con
người có nghĩa vụ và tự giác học tập suốt đời" 53, 14.
4. Sự phát triển mạnh mẽ và ứng dụng rộng rãi với hiệu quả cao của
công nghệ thông tin trong KTTT
Trong nền KTTT thông tin trở thành cơ sở quan trọng hàng đầu bởi sự
đổi mới và sáng tạo luôn đòi hỏi phải có sự thông tin. Việc phát triển công
nghệ thông tin và ứng dụng rộng rãi chúng vào trong đời sống kinh tế - xã hội
dẫn tới thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước và kết nối toàn
cầu. Mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội đều khai thác tác dụng tích
cực của mạng thông tin nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt

17
động của mình. Ở nhiều nước trên thế giới không chỉ những nước công
nghiệp phát triển mà cả một số nước đang phát triển đã coi phát triển công
nghệ thông tin là ngành kinh tế mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ
thông tin đã và sẽ mang lại những biến đổi kỳ diệu trong đời sống kinh tế và
đời sống xã hội. Công nghệ thông tin, mà biểu hiện trực tiếp hiện nay là
truyền thông qua Email, Internet, thương mại điện tử, chính phủ điện tử, đã
thay đổi một cách một cách sâu rộng và trực diện nhất thông tin về mọi vấn
đề, tạo nên sự thay đổi đột biến về cung cấp và tìm kiếm thông tin. Không
tính đến những vấn đề thuộc về lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoài việc phục
vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, giải trí, công nghệ thông tin còn là công cụ
hữu hiệu của tổ chức, phân tích, đưa ra các quyết định điều hành sản xuất và
thương mại. Rất nhiều người đã cho rằng công nghệ thông tin đã trực tiếp,
nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu sản xuất, tạo ra hàng hoá mới và thúc đẩy
tiến bộ khoa học - công nghệ làm tăng trưởng kinh tế.
Nhưng cũng cần phải nhấn mạnh một điều rằng không nên tuyệt đối hoá
vai trò của công nghệ thông tin với sự phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì vai trò
của công nghệ thông tin sẽ trở thành vô nghĩa nếu con người không đủ tri
thức và kỹ năng tổ chức, thu thập, xử lý thông tin, ứng dụng chúng một cách

có mục đích rõ ràng trong kinh tế và đời sống hàng ngày. Công nghệ thông tin
có vai trò chủ yếu với tư cách một công cụ hữu hiệu làm giảm chi phí tài
chính và chi phí thời gian trong việc tìm kiếm thông tin mới cần thiết, nó cũng
kích thích và tạo điều kiện cho các phát minh mới về khoa học - công nghệ và
những yếu tố đó sẽ thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả.
5. Nền KTTT tạo cơ sở bảo đảm sự phát triển bền vững, không huỷ hoại
môi sinh
Đã có một thời kinh tế công nghiệp với kỹ thuật - công nghệ truyền
thống phát triển dựa vào sự tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên
để giành lại lợi nhuận cao nhất và gần như không quan tâm đếm xỉa tới lợi ích
môi trường, sinh thái vì vậy đã dẫn đến những thảm hoạ môi trường như ngày

18
nay. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước xảy ra trầm trọng. Còn trong nền kinh tế
tri thức dựa trên cơ sở kinh tế công nghệ cao sử dụng một cách khoa học, hợp
lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên (thiên nhiên), không gây ô nhiễm môi
trường sống của con người. Những khu công nghệ cao được hình thành là các
khu công nghiệp sạch khác xa với khu sản xuất truyền thống trước đây.
6. Kinh tế tri thức hiện nay đang vận động theo xu hướng toàn cầu hoá
Với tác động vô cùng mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, toàn cầu hoá
là đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế giới ngày nay, nó được thực hiện
thông qua quốc tế hoá thương mại, quốc tế hoá vốn, quốc tế hoá sản xuất với
tốc độ phát triển khoa học - công nghệ như hiện nay, không một quốc gia nào
có thể đi đầu trong mọi kỹ thuật công nghệ cao và mới, vì thế chuyên môn
hoá sản xuất trở nên sâu sắc, do đó đòi hỏi sự hợp tác sản xuất quốc tế, rất ít
có sản phẩm do một nước sản xuất ra, mà là kết quả hợp tác của nhiều nước.
Công nghệ thông tin nhất là mạng Internet, làm cho không gian trở nên nhỏ
bé. Tri thức, công nghệ, vốn, lao động được luân chuyển trên phạm vi toàn
cầu. Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu. Kinh tế tri thức đã thực sự
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá.

Trên đây là những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế tri thức, là những
nét tiêu biểu để phân biệt nền kinh tế tri thức với nền kinh tế nông nghiệp và
nền kinh tế công nghiệp. Việc nhận thức và nghiên cứu chúng có giá trị như
những luận cứ khoa học xác định con đường, hướng đi để xây dựng nền kinh
tế tri thức. Theo Tân Đôn - tác giả bài báo "Kinh tế tri thức là gì ?”, báo Văn
nghệ trẻ số 34 /2000 - tiêu chí xác định sự phát triển của một nền kinh tế ở
trình độ kinh tế tri thức được gói gọn trong bốn con số 70%:
1/ Trên 70% GDP là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công
nghệ cao mang lại
2/ Trong cơ cấu giá trị gia tăng trên 70% là kết quả của lao động trí óc
3/ Trên 70% lực lượng lao động là công nhân trí tuệ
4/ Trên 70% tư bản là tư bản con người.

19
1.1.3 Vai trò của kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là trào lưu mới của sự phát triển văn hoá, kinh tế thế giới
hiện nay. Nó là kết quả khi nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần của
xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định; đồng thời lại có vai
trò thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển của nền văn minh vật chất và văn
minh tinh thần của xã hội loài người.
Trước hết chúng ta xét vai trò của kinh tế tri thức đối với việc thúc đẩy
sự phát triển nền văn minh vật chất.
Kinh tế tri thức đã thúc đẩy nông nghiệp, nghề chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư
nghiệp phát triển. Kinh tế tri thức thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của công
nghiệp, ngành chế tạo làm cho hàm lượng văn hoá, hàm lượng khoa học kỹ
thuật của lĩnh vực công nghiệp chế tạo có sự tăng trưởng, có tính bùng nổ về
giá trị, làm dịu tác dụng phụ đối với việc điều chỉnh phát triển ". Ở Hồng
Kông giá bán một bộ đồ sứ 96 phụ kiện do Trung Quốc sản xuất là 420 Dollar
Hồng Kông, mà bộ phận đồ sứ 56 phụ kiện do Nhật Bản chế tạo thì giá bán là
5.000 Dollar Hong Kong, giá trị đồ sứ Nhật Bản cao hơn 10 lần. Nguyên nhân

ở chỗ nào ? Ngoài giá thành ra, điều then chốt nhất là giá trị phát triển thêm
của khoa học kỹ thuật và của văn hoá" 56, 43.
Ở góc độ khác kinh tế tri thức thúc đẩy ngành thông tin, phục vụ, thương
mại, ngành tiền tệ, ngành văn hoá vui chơi và theo cách nói của người Trung
Quốc " Một đồng tiền vốn vạn đồng tiền lời và điểm đá thành vàng”. Du lịch
quốc tế trong 50 năm từ một ngành lặng lẽ âm thầm đã nhanh chóng tăng tr-
ưởng trở thành một ngành công nghiệp lớn toàn cầu (xe hơi, dầu mỏ, du lịch).
Kinh tế tri thức còn thúc đẩy sự ra đời của những ngành nghề mới lấy
thông tin tri thức, kỹ thuật cao, yếu tố văn hoá, nhân tài làm chủ thể. Giờ đây
nông nghiệp hiệu quả cao về gen, công nghiệp hiệu quả cao về bầu trời, xa lộ
cao tốc thông tin, mạng cao tốc và nhân tài, đã nổi lên như sóng cồn không gì
có thể ngăn cản nổi. Năm 1994 Mỹ mới đưa ra ý tưởng "xa lộ cao tốc thông
tin" và cũng ngay trong năm đó thì xa lộ cao tốc thông tin đã thịnh hành toàn

20
cầu.
Bên cạnh việc kinh tế tri thức đã thúc đẩy nền văn minh vật chất, nó còn
có vai trò thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển văn minh tinh thần.
Phải kể đến việc nó đã thúc đẩy văn hoá kinh tế phát triển hài hoà. Ở thời
đại kinh tế tri thức, tri thức và kinh tế, văn minh vật chất và văn minh tinh
thần đã trở thành hiện tượng kinh tế tri thức mới, cùng cấu thành nền đại văn
minh, là thể thống nhất của văn minh vật chất và văn minh tinh thần. Ở nền
kinh tế tri thức, kinh tế tri thức và văn hoá kinh tế vận hành hai chiều, mở
rộng mọi mặt, phát triển kinh tế tức là thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, cạnh
tranh kinh tế là cạnh tranh tri thức, còn truyền bá văn hoá cũng có nghĩa là mở
rộng kinh tế.
- Kinh tế thị trường, kinh tế pháp chế, kinh tế văn hoá cao nhanh chóng
trưởng thành. Dưới sự tác động của phong trào toàn cầu hoá kinh tế tri thức,
công tác xây dựng hệ thống thị trường, xây dựng pháp chế dân chủ, xây dựng
hệ thống văn hoá lớn sẽ đồng bộ, phân loại giai đoạn liên tục. Dưới sự thúc

đẩy của kinh tế tri thức, việc xây dựng hệ thống thị trường lớn chính là xây
dựng văn hoá dân chủ, văn hoá pháp chế, văn hoá bình đẳng, xây dựng văn
hoá cạnh tranh công bằng nhằm thực hiện việc quy phạm và hoàn thiện.
- Kinh tế tri thức đang khiến cho tri thức và thương mại, ngành hiện vật
và khoa học kỹ thuật cao thống nhất với nhau, trong thời gian ngắn đã tạo ra
lượng của cải văn minh tinh thần, lượng của cải văn minh vật chất khổng lồ.
- Kinh tế tri thức đem lại hy vọng cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục, khoa
học kỹ thuật. Nó cung cấp môi trường tốt đẹp và những biện pháp điều hành
có sức mạnh cho sự nghiệp quản lý tri thức văn hoá. Thông qua chỉ dẫn tiêu
dùng tri thức văn hoá, điều hành thị trường tri thức văn hoá và quản lý lưu
thông tri thức văn hoá. Cho ta biết cổ vũ cái gì, nhấn mạnh cái gì, nghiêm cấm
cái gì, chống cái gì để có được nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Có thể khẳng định kinh tế tri thức đang cải biến môi trường của chúng

21
ta, cải biến làm thay đổi to lớn cuộc sống của chúng ta, làm cho kinh tế, văn
hoá, cuộc sống của con người đạt đến một trình độ, tầm cao mới. Xã hội loài
người đang ở thời đại mà nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần, đồng
thời tăng trưởng một cách nhanh chóng mạnh mẽ.
Hiện nay vai trò của KTTT được thể hiện ở Nhật Bản, EU và đặc biệt là
ở Mỹ. Ở Mỹ, EU, Nhật Bản người ta nhận thấy KTTT sẽ mang lại nhiều biến
đổi sâu sắc có tính cách mạng trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Các nước phát triển đã chủ động nắm lấy cơ hội, hoạch định các chương trình
chiến lược cho đầu tư và phát triển căn bản, luôn có cái nhìn dài hạn, sự phát
triển cho nền kinh tế của mình đạt trong xu hướng chuyển đổi chung sang nền
KTTT. Đứng trước tình hình đó, xét từ góc độ phát triển của lực lượng sản
xuất, người ta nói rằng nhân loại đang chuyển từ văn minh công nghiệp sang
văn minh trí tuệ, chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền KTTT. Điều đó
đã đặt vấn đề cho người Việt Nam, đặt câu hỏi cho người Việt Nam là phải
làm gì để từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức trên quê hương, tổ quốc

mình và để Việt Nam sánh vai với các cường quốc trên thế giới? Với tôi thiết
nghĩ để trả lời cho một phần câu hỏi đó chúng ta phải quan tâm chú ý đến con
người, nguồn lực con người, có như vậy mới tìm được chìa khoá mở cánh cửa
để vào “ngôi nhà” KTTT.
1.2 YÊU CẦU CỦA KINH TẾ TRI THỨC ĐỐI VỚI NGUỒN LỰC CON NGƢỜI
VIỆT NAM
1.2.1 Khái niệm về nguồn lực con ngƣời
Các nhà triết học trước Mác khi đề cập đến con người, bản chất con
người, mối quan hệ giữa con người với con người, tự nhiên và xã hội đều
giống nhau ở chỗ coi bản chất con người là một số đặc tính nào đó vốn có của
từng cá nhân riêng biệt, hoặc là một thực thể tinh thần tự ý thức, tự biểu hiện
mình theo hình ảnh tuyệt đối của thượng đế hoặc là một thực thể tự nhiên sinh
vật thuần tuý. Họ chưa thấy được bản chất của con người ở tính chất xã hội,

×