Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG LÝ PHỤC MAN Ở HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.45 KB, 26 trang )

ĐỀ TÀI: TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HỒNG LÀNG
LÝ PHỤC MAN Ở HÀ NỘI


MỤC LỤC
TỔNG QUAN ............................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài ................................................................................................. 1
3. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................................... 1
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................... 2
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu .................................................................................... 2
NỘI DUNG ................................................................................................................................ 2
Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn. ............................................................................. 2
1. Cơ sở lí luận.................................................................................................................... 2
2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................................ 3
Chương 2. Tổng quan tín ngưỡng thờ Thành Hồng Lý Phục Man ......................................... 3
2.1 Nguồn gốc của Thành Hoàng Lý Phục Man .................................................................. 3
2.2. Một số truyền thuyết về Lý Phục Man .......................................................................... 6
2.2.1. Sự tích hồ Mã ........................................................................................................ 7
2.2.2. Thần Lý Phục Man che chở cho dân ...................................................................... 7
2.3. Kiến trúc dân gian ở Quán Giá ..................................................................................... 8
2.3.1 Bia đá thờ Lý Phục Man ....................................................................................... 11
Chương 3. Lễ hội Rước Giá .................................................................................................. 14
3.1. Vị trí nơi diễn ra lễ hội ............................................................................................... 14
3.2 Quá trình diễn ra lễ hội................................................................................................ 14
3.2. Ý nghĩa của lễ hội Quán giá ....................................................................................... 20
Chương 4. Tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng và cuộc sống hơm nay................................... 20
4.1 Thành hồng làng và cuộc sống hôm nay. ................................................................... 21
4.2 Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng ........................................................... 21
4.3 Bảo tồn và phát triển tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng. ............................................. 22
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 23


TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 24


TỔNG QUAN
1. Lí do chọn đề tài

Thờ Thành Hồng là một trong những tín ngưỡng đã sớm xuất hiện ở nước
ta và có tính phổ biến rộng khắp. Ở khắp các làng xã của vùng quê Việt hầu như
làng nào cũng có thờ Thành hồng - người có cơng với làng. Nếu làng nào khơng
có thì đi mượn của làng khác để thờ.
Trong tiểu luận này, tôi chọn Hà Nội làm địa điểm nghiên cứu bởi vì Hà Nội
là trung tâm đầu não của chính trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật. Dù cho lịch sử có
nhiều biến cố thăng trầm thì Hà Nội vẫn là “cái nơi” nơi mang đậm phong tục thờ
Thành Hồng làng, nơi có tục thờ Thành Hoàng sớm nhất trong cả nước, đặc biệt
là Thành Hồng Lý Phục Man người đã có nhiều cơng trạng trong việc đánh đuổi
giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho nước nhà vào thời vua Lý Nam Đế.
Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa,
hiện tượng đơ thị xâm lấn các vùng nông thôn đã một phần nào làm mai một đi tín
ngưỡng ngưỡng truyền thống, thực hiện đề tài để nhắc nhở mọi người ý thức
hướng về cội nguồn, quê cha đất tổ.
Xuất phát từ nhu cầu cá nhân muốn tìm hiểu những điều mà tơi chưa biết về
phong tục tín ngưỡng của ơng cha, tìm ra giá trị văn hóa, bảo tồn phát huy văn hóa
dân gian của dân tộc trong bối cảnh hội nhập ngày nay.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài

Xác định được nguồn gốc và sự ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Thành Hồng
Lý Phục Man đến đời sống tinh thần của người dân. Tìm ra giá trị văn hóa trong tín
ngưỡng truyền thống của q hương đất nước.
Chỉ ra ý nghĩa của tục thờ Thành Hồng làng và giải thích tại sao trong xã
hội hiện đại ngày nay tục thờ Thành Hoàng vẫn cần được gìn giữ và nối tiếp.

3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong bài tiểu luận này là Thành Hoàng làng Lý Phục
Man là một danh tướng thời Lý Nam Đế có nhiều cơng lao trong việc đánh đuổi
giặc ngoại xâm.
1


4. Phương pháp nghiên cứu

Tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính tổng hợp nhiều nguồn tài
liệu. Cùng với đó là kết hợp các thao tác xử lí phân tích dữ liệu tổng hợp. Chọn ra
những thơng tin phù hợp với đề tài để được tiến hành nghiên cứu. Tôi nghiên cứu
đối tượng về mặt giá trị và mở rộng phạm vi nghiên cứu ở mặt ảnh hưởng. Nghiên
cứu theo trục thời gian từ khi hình thành và tồn tại cho đến ngày nay.
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu

Cá nhân có những hiểu biết sâu sắc về nguồn gốc, tục lệ, ảnh hưởng và ý
nghĩa của tục thờ Thành Hoàng làng Lý Phục Man.
Mang đến cho mỗi người có thêm niềm tự hào về làng và Thành hồng làng,
ý thức được vai trị cá nhân trong việc gìn giữ và kế tục tín ngưỡng thờ Thành
hồng làng của dân tộc.
NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
1. Cơ sở lí luận
“Văn hóa dân gian là nền văn hóa của dân chúng. Văn hóa này gồm cả văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Thuật ngữ quốc tế mang nghĩa chính xác nhất
mang nghĩa văn hóa dân gian là từ tiếng Anh: Folkculture (…) Khái niệm này rất
rộng, bao gồm toàn bộ văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của dân chúng. Nội
hàm của nó có vấn đề phương thức sản xuất ra của cải, có phong tục tập quán, sinh

hoạt tinh thần, tri thức tự nhiên và xã hội, quan niệm đạo đức, nhận thức, tình cảm
về thế giới và nhân sinh”. [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ 2002:
620-621]
Năm 2010 trong bài nghiên cứu Văn Hóa Tín Ngưỡng, Nguyễn Văn Bốn
định nghĩa “ Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ đức tin
của con người đối với hiện tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch sử hay huyền
thoại có liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ
những đối tượng siêu hình mà người ta thờ phụng” . Mỗi tín ngưỡng đều có cách
thức biểu lộ khác nhau, có ý nghĩa mục đích riêng rất cụ thể, nhưng cuối cùng đều
2


có một cái chung là niềm an ủi, nâng đỡ về tâm lí, sự mưu cầu hạnh phúc, bình an
của con người.
Theo nhà văn Sơn Nam: Ơng thần ở đình làng gọi là thần Thành Hoàng, cai
quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng
(cả) nơi thơn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh…
Tín ngưỡng thờ thành hồng là cấp độ thứ hai của thờ cúng tổ tiên (trên
phạm vi rộng hơn là làng xã); là niềm tin của một cộng đồng người vào sự che trở
phù hộ của một vị thần linh được dân làng coi là thần trông coi vận mệnh của cộng
đồng, thường được nhà nước phong kiến sắc phong. Niềm tin đó được thể hiện
thông qua những lễ thức nhất định và hội làng hàng năm. Tín ngưỡng thờ thành
hồng đã sớm xuất hiện từ lâu và ngày càng được phổ biến rộng rãi đến các làng,
xã trong nước.
2. Cơ sở thực tiễn
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng xuất hiện do nhu cầu của con người mong
muốn sự phù hộ và che trở. Ở thủ đô Hà Nội nền lịch sử lâu đời từ thuở khai hoang
lập làng, xây thành bảo vệ đất nước, Thành Hồng bảo vệ thủ đơ, tín ngưỡng thờ
cúng Thành Hồng cũng xuất hiện từ đó. Điều kiện địa lí tự nhiên lịch sử mỗi làng
khác nhau, góp phần làm đa dạng Thành Hoàng nơi đây. Mỗi Thành Hoàng của

từng làng xã là một nét đẹp văn hóa riêng biệt nhưng tất cả đều hài hịa trong bức
tranh tín ngưỡng, góp phần tơ đậm nét cho bức tranh văn hóa tồn diện.
Chương 2. Tổng quan tín ngưỡng thờ Thành Hồng Lý Phục Man

2.1 Nguồn gốc của Thành Hoàng Lý Phục Man
Lý Phục Man sinh vào thập kỉ đầu thế kỉ VI sau công nguyên (khoảng từ năm
505-5150, là người làng Yên Sở (Hoài Đức, Hà Nội ngày nay), cha là Phạm Tơng
cịn tên mẹ thì khơng được rõ. Mồ cơi cha từ thửa nhỏ Người ở với mẹ, nhỏ tuổi đã
thích chơi trị “cầm qn đánh giặc”. Tuổi thanh niên chứng kiến cảnh khổ cực của
bà con thơn xóm bị bọn quan đơ hộ đàn áp bóc lột, năm 20-30 tuổi Người ra sức tập
côn quyền, cưỡi ngựa và bắn cung đều giỏi, thuần hóa được hàng chục voi rừng biến
3


chúng thành đội quân để ra trận, Người còn tập trung nghĩa quân ngày đêm luyện
tập võ nghệ trong rừng. Đến khi lực lượng đã đông sức đủ mạnh, mọi người đều
nhất trí với kế hoạch khởi nghĩa đánh đuổi kẻ thù. Nhiều đồn giặc bị phá tan, Phạm
Tu nổi lên như một trang hào kiệt xứ Đoài, cả một dãi non sông từ Đỗ Động đến
Đường Lâm đã sạch bóng qn thù. Người được nghĩa qn suy tơn làm Đỗ Động
tướng quân để toàn quyền lãnh đạo.
Đầu năm 541, Đỗ Động tướng qn đã tìm gặp Lý Bơn (cách phiên tên
khác là Lý Bí, sau xưng là Lý Nam Đế) để liên kết lực lượng cùng nhau đánh đuổi
kẻ thù chung. Anh hùng hội ngộ, Đỗ Động tướng quân gặp được Lý Bôn như cá
gặp nước, như rồng gặp mây. Đặc biệt trong trận đánh quân Lâm Ấp, khi chúng
đen quân xâm lấn vùng Cửu Đức mùa thu năm Quý Hợi (543), lúc này đất nước ta
vừa quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi, biết ta còn phải lo nhiều cho việc dựng
nước, vua quan Lâm Ấp nghe theo lời xúi giục của ngoại bang đã đem quân sang
xâm lấn bờ cõi phía Nam (lúc này nước ta mới có từ Hà Tĩnh trở ra). Mọi người
đều nói rằng “ Với kẻ thù hung hãn như vậy ngoài Đỗ Động tướng qn khơng ai
có thể đương đầu nổi giặc này”! Tin vào tài năng xuất chúng của người tướng trẻ

Lý Bôn đã nghe theo lời bàn, cử Đỗ Động tướng quân vào Nam dẹp giặc. Đúng chỉ
một lần ra qn, người anh hùng xứ Đồi đã lập cơng đuổi được quân Lâm Ấp ra
khỏi bờ cõi, mang lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân. Nghe tin thắng trận báo
về Lý Bôn đã hết lời khen ngợi phong cho Đỗ Động tướng quân tước hiệu là Phục
Man, cho đổi sang họ Lý và gả con gái là công chúa Phương Dung cho ơng. Từ đó
khơng cịn ai gọi Phạm Tu là Đỗ Động tướng quân mà gọi bằng cái tên đầy vẻ tơn
kính là Lý Phục Man (Ở đây có việc đồng nhất Phạm Tu với Lý Phục Man được
sách cổ Việt Điện U Linh chép từu đầu thế kỉ XIV). Đất nước sạch bóng quân thù,
đầu năm Giáp Tý (544) Lý Bôn lên ngôi vua đặt tên là Tiền Lý, đặt tên nước là
Van Xuân. Triều đình có hai ban văn võ, là người có nhiều cơng lớn, Lý Phục Man
đã được vua phong cho làm thái úy đứng đầu ban võ. Đầu năm Ất Sửu (545) bọn
phong kiến nhà Lương sai Trần Bá Tiên sang xâm lược nước ta một lần nữa. Biết
chưa đủ sức, triều đình nhà Lý đành phải lui qn về sơng Lơ Tịch (Hà Nội) xây
4


thành đắp lũy để giữ thế thủ, bảo toàn lực lượng đánh địch lâu dài. Vua Lý bèn cử
Thái úy Lý Phục Man ở lại giữ thành. Còn vua Lý Nam Đế đem quân về Khuất
Liêu cố thủ. Chỉ qua mấy tháng tướng giặc Trần Bá Tiên đã đem quân vây đánh
thành Tô Lịch. Trong một trận giao tranh Lý Phục Man đã anh dũng hy sinh tại
trận tiền. Hai tùy tướng của Lý Phục Man là Trương Hống và Trương Hát mở
đường mang được thi hài của chủ tướng về quên an táng tại khu Hồ Mã gần nhà ở
quê hương. Để tỏ lòng biết ơn và tiếc thương vô hạn người con trung hiếu của Kẻ
Giá, một vị anh hùng dân tộc, nhân dân ta đã trồng cây xung quanh ngôi mộ và lập
miếu thờ để ngày đêm tưởng niệm.
Sử kí của Đỗ Thiện viết Lý Phục Man báo mộng cho vua Trần Nhân Tơng
có nhắc lại chuyện đời vua Lý Thái Tổ, trong một chuyến tuần du, nhà vua đến bến
Cổ Sở, trông thấy phong cảnh núi sơng rất đẹp, nhà vua mới rót một ly rượu xuống
sông mà vái rằng: “ Trẫm xem nơi đây thủy tú sơn kì khác hẳn mọi phương, nếu có
linh hồn của những trang nhân kiệt, thì xin hãy nhận lễ ta dâng hiến”. Rồi tối đó

nằm mộng thấy một dị nhân cao lớn, vạm vỡ, mặt hổ râu rồng, y phục trang
nghiêm, khăn giày rành rạch, đến cúi đầu lạy hai lần và tâu rằng: Thần vốn là
người làng này, họ Lý tên Phục Man, đã giúp Lý Nam Đế và làm tướng quân, nhờ
lòng trung liệt mà nổi danh, nên được cho trấn thủ hai dãi sơn hà Đỗ Động và
Đường Lâm đám mọi Lào đều sợ, không dám xúc phạm, hóa ra cả một phường đều
yên ổn. Đến khi thần thác, đức thượng đế chấm lòng trung ấy nên cho thần giữ
chức như cũ.Thửa nhà Đường sắp làm vua, thần thường mang binh theo Khâu Hòa
phá được nghịch tặc là Ninh Trường Chân, qua đời vua Túc Tông phá được giặc
Đại Thực Ba Tư, sang đời vua đại tông lại phá được giặc Côn Lôn Chà Và… Đến
khi thần mệnh một, linh hồn chẳng tan, thơn dân kính mến, lo sợ khơng người
phịng thủ để ngừa bọn ngoại Lào cướp bóc, nhân thế mới lập đền thờ phụng. Bởi
vậy, thần cịn được dịp nương bóng mà phảng phất trong khoảng trời mây. Hễ khi
nào có dùng binh, thì thần lại ám hộ từ trên không, bọn nghịch tặc vào cướp đều bị
ngăn chống cả. Dứt lời thì khơng thấy đâu nữa. Nhà Vua chưa kịp đối đáp, bổng
nhiên giật mình tỉnh dậy, liền đem tình tiết kể với mọi người. Quan ngự sử đại phu
5


là Lương Văn Nhậm nói: “Đó là lời thần có ý muốn hiển linh để mà lập hình
tượng”. Nhà vua truyền lệnh xen keo, lập tức thấy ứng nghiệm, bèn sai người trong
châu lập đền thờ và tạc một thần tượng y như vua đã thấy trong mộng. Miếu mạo
sum nghiêm, làm phúc thần cho cả một phương. Ngôi miếu thờ Lý Phục Man đầu
tiên này được nhân dân thôn Ba, xã Cổ Sở (nay thuộc Yên Sở) lập nên ngay theo
lệnh vua.

H1. Tượng Đức ông Lý Phục Man
Nguồn: />
2.2. Một số truyền thuyết về Lý Phục Man
Đối với những câu chuyện truyền miệng hay những chuyện dân gian sư tầm
thì thường có nhiều thơng tin mang tính thần thánh hóa.


6


2.2.1. Sự tích hồ Mã
Trong một trận giao tranh với tên tướng giặc Trần Bá Tiên tại thành Tô
Lịch, người đã bị chém đứt mất đầu, mà vẫn ung dung ngồi trên lưng ngựa, một
tay đỡ đầu, tay kia cầm kiếm và phóng ngựa thẳng về phía Tây, đi tới cổng làng
Người gặp một người đàn bà, ghìm cương ngựa người hỏi: “Ta bị thương thế này
liệu có việc gì khơng ?”. Bà ta sợ q khơng nói nên lời mà bỏ chạy. Người quở:
“Thị Cấm”. Vì thế sau này làng lấy tích đó đặt tên làng là Canh Thị Cấm.
Đi thêm một quãng, Lý Phục Man gặp một người con gái, Người lại hỏi: “
Ta bị thương thế này liệu có việc gì khơng?”. Cơ bé mỉm cười mà chẳng dám nói
gì. Và thế là nơi đó cũng lấy tích chuyện đặt tên làng là Canh Thị Hịe. Cả hai
làng này từ đó đã lập miếu thờ Lý Phục Man.
Về tới dốc đình Cầu, Lý Phục Man vào quán nước hỏi thăm bà cụ bán nước
về tình hình các gia đình trong thơn xóm, rồi lại hỏi về vết thương trên cổ, bà cụ
nói: Từ nhỏ đến giờ tơi chưa thấy ai đứt đầu như vậy mà sống được, có phải ngài là
người nhà thánh hay khơng. Nghe bà cụ nói xong Lý Phục Man chào cụ rồi lên
ngựa, cho ngựa phóng như bay xuống khu Hồ Mã rồi biến mất. Người ta vẫn nói
ngài đã hóa thánh và ở lại nơi đây.

2.2.2. Thần Lý Phục Man che chở cho dân
Một lần quân Mông Cổ định kéo vào làng để cướp lương thực, đoàn quân kẻ
cướp ùn ùn người ngựa định kéo vào làng thì nhốn nháo xéo đạp lên nhau mà bỏ
chạy vì chúng đã trơng thấy vị tướng oai phong cưỡi trên mình ngựa từ trong cổng
làng xông ra. Một chốc bọn giặc hoa mắt như đang mắc vào vòng đai ngựa, dân
binh trong làng phục chờ ở các bờ ruộng thừa thế xơng ra dùng địn bẩy, đòn gánh,
dao quắm tiêu diệt chúng. Người ngựa giặc chết nằm ngổn ngang cả một cánh
đồng.

Trong cuộc xâm lược giặc Mơng Ngun lần thứ hai, trong sử tích của Kẻ
Giá ghi rõ: Khi quân Nguyên tiền hô hậu ủng, trống chiêng inh ỏi kéo quân về Cổ
Sở, bọn giặc tới Gị Mèo, mấy tiếng khóc của dân binh báo động, bọn giặc giật
7


mình, trơng thấy các cột khói đen nghi ngút che hết cả làng dừa. Chúng cho rằng ở
đây có thần linh che chở, thế là bọn giặc chưa tới cổng làng đã hò nhau chạy trốn,
người ngựa xéo lên nhau .Một số tên yếu vía, yếu chân đã mất mạng. Mọi người
cho là âm binh của thánh Giá đã ra uy trị tội chúng.
Như vậy chỉ trong hơn 20 năm bọn giặc Mơng Ngun hai lần định mị về
kẻ Giá gây tội ác nhưng đều thất bại. Chốn “Địa linh nhân kiệt” quả là nơi bất khả
xâm phạm. Và còn rất nhiều truyền thuyết trong dân gian được Lý Phục Man âm
phù “Hộ quốc cứu dân” hiện đang còn được lưu truyền trên một địa bàn rộng lớn
của xứ Đoài cùng nhiều nơi khác có lập đền thờ Lý Phục Man.
2.3. Kiến trúc dân gian ở Quán Giá

H2. Toàn cảnh quán Giá ngày nay
Nguồn: />
8


H3. Tam quan ở đền thờ quán Giá
Nguồn: />
Đình Quán Giá vốn là đền thờ Lý Phục Man, nằm giữ rừng Giá, sát chân đê
sông Đáy. Thuộc địa phận xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội ngày
nay. Cụm di tích Quán Giá tồn tại đến ngày nay đã trãi qua một thời kì lịch sử khá
dài của đất nước.
Quán giá Yên Sở lúc đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ, xây dựng lên (cạnh mộ
của Lý Phục Man) để làm nơi hương khói nhớ ơn người sau trận chiến với Trần Bá

Tiên tại thành Tô Lịch.
Trãi qua một thời gian tồn tại đến năm 1016, vua Lý Thái Tổ một lần đi
ngang qua vùng Cổ Sở (Yên Sở ngày nay), đã cho xây dựng các tòa của khu đền
Quán Giá và tạc tượng vị anh hùng. Từ đây Quán Giá được mang dáng vẻ mới,
một khuôn viên hình chữ nhật rộng lên tới 7000 thước vng đất (55m x 130m).
Nơi đền thờ được xây dựng thành hai ngôi nhà thượng điện và bái đường cao thấp
hơn nhau một bậc, có nét sổ tự nối liền thành kiểu chữ cơng. Mỗi nhà có ba gian
hai chái bốn mái, bốn góc mái réo đao như những đàn rồng đang lượn trên khơng
trung thể hiện một thời kì độc lập của nước nhà. Trong thượng điện có ba thần
tượng là đức ơng và hai đức bà ở chính giữa lịng nhà, ngồi “Thiền” trên bục bằng
9


đá, nhân dân địa phương thường gọi là “Tam vị đại vương”. Ngoài thần tượng của
ba vị đại vương , trong thượng điện cịn có tượng hai vị nữ tì đứng hầu ở hai bên.
Đây chính là nơi “cung cấm” nên chỉ có những ai có trách nhiệm mới được vào
chiêm ngưỡng. Nét công tự đầu trong sát cửa thượng điện, trên sập ngự có ba long
ngai, đứng hai đầu sập ngự có tượng của hai tùy tướng là Trương Hống và Trương
Hát là hai người đã có cơng mang thi hài của Lý Phục Man về quê an táng tại khu
Hồ Mã nên được dựng tượng thờ.
Đến thời vua Thần Thái Tông khi đi du tuần qua bến Cổ Sở nhà vua nghỉ lại
một đêm thì được báo mộng về tình hình an ninh của đất nước (lúc này bọn quân
Mông Cổ đang lăm le xâm lược nước ta), nên vua Trần cho xây thêm một nhà tiền
đường năm gian song song với nhà bái đường, nhưng nó thấp hơn ba bậc tạo thành
hình chữ vương. Nhà tiền đường làm hai mái hai đầu dốc, có tường cao, có trang
trí đấu nóc đấu lật và các mảng phù điêu tứ linh (long, ly, quy, phượng) và tứ quý
(tùng, trúc, cúc, mai). Bờ nóc đắp lưỡng long triều nguyệt mang kiến trúc thời
Trần, làm cho mặt của ngôi đền thêm uy nghi tráng lệ, tôn thêm vẻ đẹp bề thế cho
ngơi đền.
Có thể nói ba tịa nhà kiến trúc ở hai triều đại Lý-Trần là những lớp lâu đài

lộng lẫy, mẫu mực của kiến trúc cổ nước Đại Việt.
Triều vua Lê Huyền Tông cho xây dựng hai dãy hành lang làm tả vu, hữu
vu, mỗi dãy 11 gian dài hơn 30m và niên hiệu Dương Đức triều vua Lê Gia Tông,
cho xây một nhà tam quan ở trước cửa gồm một gian hai trái bốn góc, cùng hai dãy
tường ngang có mở hai cổng cuốn. Niên hiệu Chính Hịa triều vua Lê Gia Tông
cho thiết kế theo kiểu cân xứng một bên nhà bia một bên tầu ngựa mỗi cái là một
gian được bố trí ở hai đầu đền trung. Cũng cùng năm đó nhân dân ta cịn xây thêm
hai cột đồng trụ và hai dãy tường hoa mỗi bên để hai cửa chia đơi khu ngồi thành
hai sân rộng, làm cho di tích thêm uy nghi bề thế. Bên trong tam quan, hai góc
ngồi của hai dãy hành lang các cụ cịn xây hai ngơi nhà ba gian rộng, dài bằng
nhau rất cân xứng. Bên Đông dùng làm bếp đun và chuẩn bị cổ mỗi khi có lễ, bên
Tây làm chổ cho các phường hát, phường tuồng nghỉ lại khi mở hội.
10


Vào năm 1707 nhân dân trong xã Yên Sở quyên góp để đúc một ngựa thần
to như ngựa thật, ngựa được sơn trắng nên gọi là “thần Bạch Mã” hiện vẫn còn
được trong nhà tẩu ngựa. Đến năm 1905 nhân dịp tu sửa hành lang, xã cho xây
thêm một ngôi nhà mới sau gian làm chổ tiếp khách.
Đến thời vua Bảo Đại cho nhân dân xây thêm một dãy hành lang tám gian,
dãy hành lang này sửa dụng được hơn 30 năm thì bị mối xơng nên phải dở bỏ.
Cơng trình kiến trúc Quán Giá dược xây dựng trong nhiều thế kỉ bởi nhiều
triều đại khác nhau cùng với biết bao biến thiên lịch sử, nhưng nhìn vào kiến trúc
vẫn rất hài hịa, cân đối. Tuy nhiên cơng trình kiến trúc còn tồn tại đến ngày nay
một phần cũng do nhân dân ta đã có cơng chăm lo, giữ gìn và trùng tu tôn tạo bởi
sự phá hoại của thời tiết, khí hậu và cả con người qua hai cuộc chiến tranh.
Từ khoảng năm 1947 đến 1990, hai lần phải làm lại đền trung vì bị giặc đốt
cháy và mối mọt đục phá làm tồn bộ kết cấu ngơi đền bị hư hỏng nặng. Đến năm
1994, đền hạ được làm lại bằng bê tông cốt thép, tới năm 1997 mới đủ điều kiện
làm lại đền trung.

Tam quan cũng bị cháy cuối năm 1947 đã được trùng tu nhưng do sự sơ suất
của người quản lí năm 1965 ngơi đền lại bị cháy lần thứ hai. Đến năm 1985 nhà
nước cấp tiền trùng tu nhưng mua gỗ trúng toàn loại táu mối-loại gỗ mối rất yêu
thích nên mới dựng được 5 năm đã bị mối đục hết. Đến năm 2000, công trình được
dở đi để làm bê tơng hóa.
Đến năm 2005, hành lang mới tám gian cũng đã được bê tông hóa.
Đây là một cơng trình kiến trúc cổ, được xây dựng trong nhiều thế kỉ từ thời
Hậu Lý, Trần, Hậu Lê (1016-1801). Nó là biểu tượng của lịng biết ơn vô hạn của
nhân dân ta đối với một anh hùng dân tộc và cũng là nguời con trung hiếu của Yên
Sở. Ngày nay đền thờ vẫn còn tồn tại và hàng năm vẫn được tổ chức lễ hội Quán
Giá tại đó nhưng đã được chính quyền và nhân dân địa phương tu sửa bê tơng hóa
theo kiến trúc xưa.
2.3.1 Bia đá thờ Lý Phục Man
Trong đền thờ của Lý Phục Man, hiện cịn có một nhà bia, lưu giữ 5 tấm bia,
có niên đại khác nhau, kích cỡ khác nhau và nội dung cũng không hề giống nhau.
11


Văn bia, thần tích xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII trở đi đều căn cứ văn bản Việt điện
u linh hoặc Đại Việt sử ký toàn thư mà đổi thay chút ít, để biên soạn thần tích cho
phù hợp nơi thờ, chỗ dựng bia thánh Giá thờ phụng Lý Phục Man; song hành trạng
cơng tích mà nhân vật lịch sử từ khi cịn mang tính danh Phạm Tu đến lúc được
vua ban tên hiệu Phục Man và họ Lý của vua, gắn liền với các sự kiện đều thống
nhất ở một con người, một triều đại Tiền Lý, được đời đời tôn vinh.

H4. Bia đá thờ Lý Phục Man tại Quán Giá
Nguồn: />
12



H5: Cửa Tam Quan
Nguồn: />
H6. Mái đền thờ kiến trúc thời Lý
Nguồn: />
13


Chương 3. Lễ hội Rước Giá
3.1. Vị trí nơi diễn ra lễ hội
Rước Giá hay hội Giá là nét sinh hoạt văn hóa cổ truyền ở vùng Kẻ Giá nay
thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Lễ hội được diễn ra tại đình Quán Giá,
làng Yên Sở xưa gọi là Cổ Sở, người dân Yên Sở quen gọi là Quán Giá. Đình được
xây dựng vào thời vua Lý Thái Tổ. Đình thờ Lý Phục Man, một vị tướng của vua
Lý Nam Đế. Năm 1947, bị quân Pháp đốt phá, nhân dân địa phương đã tu tạo
nhiều lần để làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng cho cả cộng đồng dân cư nơi đây.
Theo thường lệ Lễ hội hàng năm được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch và đặc
biệt cứ 5 năm một lần sẽ tổ chức hội lớn (vào năm chẵn). Nhân dân ta mở hội rước
kiệu, nghiềm quân thật linh đình náo nhiệt.
Ai đã từng tới Yên Sở mà chưa từng dự lễ hội quán Giá thì coi như chưa
từng biết đến Yên Sở. Một làng q cổ kính, lưu giữ những nét văn hóa độc đáo
mang đậm bản sắc của một làng quê Việt ở đồng bằng Bắc Bộ với cây đa, giếng
nước, sân đình…cùng với những lễ hội truyền thống tiêu biểu là lễ hội Quán giá
linh hồn của Yên Sở.
3.2 Quá trình diễn ra lễ hội
Lễ hội Quán Giá được tổ chức rất linh hoạt căn cứ vào điều kiện đời sống
kinh tế, mùa màng và tinh thần của người dân từng năm mà bà con tổ chức sao cho
phù hợp. Những năm được mùa, kinh tế khá giả thì bà con tổ chức lớn gọi là “đại
đám”, còn những năm mất mùa, đời sống nhân dân khó khăn thì lễ hội chỉ được tổ
chức đơn giản.
Trong giao ước quy định rước kiệu vào ngày đại đám thì được tiến hành từ

đình để tế Thần. Trước khi tiến hành rước kiệu thì quân kiệu, tổng cờ vào làm lễ
“tế cờ bái tướng” theo nghi thức của nghĩa quân thời Tiền Lý.
Để điều khiển đoàn quân vào sân tế cờ được nghiêm chỉnh, có một tướng
thuộc hạ giữ hiệu lệnh bằng trống. Tiếng trống điểm liên hồi nhưng khơng vội vã
dẫn đồn qn trật tự và sân từ cổng phía đơng, tướng cờ đầu dắt đoàn quân vào
14


trong sân đền đi thành hình chữ chi tạo thành các hàng ngang trước sân đền. Khi
tướng cờ đầu vào đến vị trí của mình nghĩa là đầu hàng qn số một lại ở góc phía
đơng, trống vẫn cịn điểm để cho hàng quân dóng hàng ngang. Khi tất cả các hàng
ngang, dọc đã thẳng hàng, tướng giữ hiệu lệnh điểm trống cắc, tùng thay cho lời hơ
nghiêm. Đồn qn khơng nhúc nhích. Tiếng cắc, tùng lần thứ hai tất cả các hàng
số lẻ đều quay qua trái, tất cả các hàng số chẵn đều quay qua phải. Như vậy tất cả
các hàng quân đều hướng vào trong cửa đền. Tiếng cắc, tùng lần thứ 3, tất cả hạ cờ
côn trước mặt. Hiệu lệnh thứ 4, mọi người trở lại tư thế nghiêm tiếp theo hiệu lệnh
của chỉ huy. Sau 4 lễ trở lại tư thế nghiêm. Một hiệu lệnh cắc, tùng cả đồn qn
cúi mình cắm vũ khí. Tiếng cắc, tùng theo sau cả đoàn quân phất cờ đồng loạt và
trở lại tư thế nghiêm. Đó là xong lễ “tế cờ bái tướng”. Đoàn quân vẫn nghiêm trang
chờ lệnh, lúc này là sang giai đoạn “nghiềm quân”.
Nghiềm quân diễn tả cuộc chiến giáp lá cà phá vòng vây địch của nghĩa
quân Lí Bí thửa xưa. Sau hiệu lệnh dứt khoát của chỉ huy, các hàng ngang số lẻ đều
quay sang phải 90°, các hàng ngang số chẵn quay sang trái 90°. Tiếng trống ngũ
liên mỗi lúc một mau, một to, đồn qn ùn ùn khéo ra vịng quanh cả khu đền thờ.
Tướng cờ đầu ra khỏi tam quan nhưng những hàng quân cuối vẫn còn vòng vèo
trong sân đền trơng thật đẹp mắt.
Mặc cho đồn qn vẫn đang cịn lượn ngoài sân, tướng cờ đầu ra khỏi cột
đồng trụ đã vịng theo một hình xốy trơn ốc trước cửa đền khi tới vịng xốy trong
cùng đường kính chỉ cịn là 2 lá cờ tiêu ở 2 mép đường vào đền, cách nhau chừng
4,00m. Một động tác thật mau lẹ và mạnh mẽ. Tướng cờ đầu vung cao ngọn cờ rồi

vụt mạnh vào khoảng giữa 2 lá tiêu để trở lại kèm theo một tiếng hị cho đồn qn
cất tiếng reo hị vang dội. Bên ngồi tiếng trống chỉ huy đánh ngũ liên dồn dập như
thúc giục, như động viên đoàn quân phá trận. Một trận đồ “bát quái” đang bị phá
tung. Khí thế hừng hực của đồn qn “xung trận” thuở nào như đang hiện ra trước
mắt, khiến cho mọi người xem cũng rạo rực như chính mình đang được sống cùng
người xưa trong ngày tháng oai hùng của lịch sử.

15


Tiếp theo cuộc nghiệm quân là “lễ rước kiệu”, tất cả mọi hàng kiệu, tổng cờ
dóng thành 2 hàng đứng 2 bên lề đường vào đền chờ lệnh phân công. Đây là biểu
diễn cuộc rước mừng chủ tướng ca khúc khải hoàn. Đi đầu đoàn rước là đội múa
lân dẹp đường, một con sư tử, một chúa sơn lâm luôn há miệng nhe nanh chồm lên
nhảy xuống như đang chờn vờn lừa miếng để nuốt chửng chàng dũng sĩ múa côn,
một ả hề rừng bụng to bằng trống mặt tựa lệnh làng nhí nha nhí nhảnh lăng xăng
đảo ngược đảo xuôi khiến mọi người phải dẹp xa mở rộng đường đi. Tiếp đó thì
một đội dân binh đến 20 người mặc quần trắng, áo dài thêm thắt lưng bó que, đầu
vấn khăn đen chân quấn sà cạp đỏ, tay mang các vũ khí thơ sơ như trường, đồng,
lạo, bẩy, thân lĩnh dài thân lĩnh ngắn, quắm trường, quắm tay, thước bản, dao chín,
tù và. Đội quân đi thành hai hàng chỉnh tề , thỉnh thoảng lại thổi hơi dài, hơi ngắn
tù và xen vào những tiếng ốc to, ốc nhỏ thổi gần như cổ vũ đội quân tiến bước, như
thúc giục như hị la đội ngũ xơng pha thật là khí thế của một đồn qn thắng trận.
Theo sau những dân binh là đoàn nghĩa quân (Hàng kiệu) mặc áo dài đỏ,
quần trắng, khăn đen mang cờ lọng, tàn tán, khiêng trống, chiêng, hương án. Nối
tiếp theo hai hàng cả trăm người như một nghiêm trang chỉnh tề. Khoảng giữa hai
hàng quân một đội bát âm mặc áo nâu quần trắng mang theo các nhạc cụ dân tộc
như kèn, trống, đàn, sáo, nhị hồ, thanh la não bạt vừa đi vừa dạo những âm thanh
trang trọng mà tươi vui nhộn nhịp của ngày lễ hội. Một hương án do 4 nghĩa quân
khiêng trên có đỉnh trầm nghi ngút khói hương quấn quýt lấy các lọ hoa, cây đèn

rực rỡ. Hai chiếc lọng vàng do 2 nghĩa quân mang, luôn che bóng hai đầu hương
án càng tăng thêm vẻ uy nghi. Sau hương án có 60 cụ già tuổi từ 60 đến 69, tượng
trưng lực lượng lão dân binh, một nửa mặc áo thong làm, quần trắng, khăn đen,
thắt lưng bó que bằng các lụa màu sặc sỡ, tay mang hồng trường, một nửa mặc áo
thong đỏ, thắt lưng bó que, đầu đội nón sơn, tay mang hoa roi, đi thành hai hàng
trong. Tiếp nữa là 60 cháu thiếu niên từ 13 đến 15 tuổi mặc áo lam dài, quần trắng,
thắt lưng bó que, đầu đội khăn mầu, tay mang cờ chuối, tái hiện cảnh thiếu thời của
anh hùng dân tộc Phạm Tu.

16


Trong đám rước hội làng, họ vừa đi vừa múa cờ theo hình số 8. Mỗi khi có
tiếng kẻng hiệu lệnh của cụ tổng cờ lại đồng thanh hộ một khẩu lệnh “A la ré hừ ré
ré”. Tiếp sau là những nghĩa quân mang biển thần, dùi đồng, phù việt, bát bửu, đèn
lồng đi hai hàng trước kiệu chủ tướng. Một nhóm sinh tiền gồm 4 cháu mặc quần
áo thêu kim tuyến vừa đi vừa múa xênh, phách rộn ràng nhí nhảnh trơng thật đẹp
mắt, 4 chiếc tán tàu, tán ta có thêu kim tuyến do 4 nghĩa quân mang 2 bên trước
kiệu. Gần cuối đội hình đám rước là một hiệu bát cống sơn son thếp vàng, kiệu chủ
tướng mừng khải hồn thắng trận có 16 nghĩa qn khiêng đỡ. Họ đi khoan thai
đĩnh đạc bước chân theo hiệu lệnh của một cụ già mặc áo lam xanh, quần trắng,
khăn đen thắt lưng bó que gõ trống khẩu giữ lệnh. Hai chiếc quạt ban mầu vàng
mở chừng 15 độ che trước kiệu thần. Xung quanh kiệu 4 chiếc quạt rồng, quạt có
che kín cả long ngai đều do nghĩa quân đảm nhiệm .
Những năm mở đại đám rước cả ba kiệu thì kiểu đức ơng đi trước do nghĩa
qn Yên Sở khiêng đỡ. Kiệu đức bà Lý Nương đi thứ hai do nghĩa quân Đắc Sở
khiêng đỡ. Còn kiệu đức bà Á Nương đi sau cùng lại do nghĩa quân Yên Sở đảm
nhiệm. Đi sau mỗi kiệu là một số quan viên mũ áo chỉnh tề mặc quần ống sớ, chân
đi hia chấp tay hầu hiệu. Một số cờ thần, một đám rước hội làng có tới gần 500
trăm người tham gia chấp tác hành ngơi tên chiều dài đám rước trên 300 trăm mét,

quả là quy mơ hồnh tráng khó có lễ hội nào so sánh được. Sự uy nghi, tề chính
của hình ảnh một đội qn thời cổ đại đang ca khúc khải hoàn trong ngày vui thắng
trận mừng cho tướng đã thực sự là ngày hội truyền thống độc đáo ở Kẻ Giá từ rất
xa xưa. Sau mỗi đám rước thì trong đền lại tổ chức tế lễ với những nghi thức “
cung đình ” của một ngôi đền quốc tế thật là trang trọng. Việc hành lễ cũng do hai
làng cắt cử theo những điều giao ước đã có trong bia Tự Đức. Cùng với nhân dân
n Sở, nơi có đền thờ chính thờ đức Phục Man tướng cơng Phạm Tu, thì cịn có
nhiều đền miếu thờ người ở các nơi khác trong một vùng rộng lớn ở xứ Đoài cùng
tổ chức các lễ hội vào ngày kỷ niệm rất linh đình trang trọng.
Sau khi kết thúc phần lễ linh thiêng là mở ra phần hội thật tưng bừng, vui vẻ,
để mọi người được thỏa thích vui chơi, giải trí với các trị chơi như thể hiện trí tuệ
17


uyên thâm và tinh thần thượng võ của dân tộc Việt Nam như đấu cờ người, đấu vật
cổ truyền, các buổi tối lại có ca trù, chèo hát đã tạo nên một khơng khí tươi vui
trong làng suốt cả mấy ngày đêm.
Tinh thần yêu nước thương dân của một vị anh hùng dân tộc từ thời tiền sử
đồng thời nó cũng là thể hiện sự kính trọng và lịng biết ơn của nhân dân ta đối với
người đã có cơng với dân với nước. “ Uống nước nhớ nguồn ”, đạo lý ấy đã trở
thành một truyền thống quý báu của dân tộc để mn đời chúng ta cùng gìn giữ.

H7. Lễ rước
Nguồn: />
18


H8. Lễ nghiềm quân
Nguồn: />
H9. Đấu cờ người

Nguồn: />9/17523613_1448189528554036_2130358692834593584_n.jpg?_nc_cat=109&_nc_sid=8bfeb9&_nc_ohc=4HnGD
eg2cxgAX8zwAby&_nc_ht=scontent.fsgn5-6.fna&oh=80c34a8ab05cb065a43e4247db89472a&oe=5FAC6EF3

19


3.2. Ý nghĩa của lễ hội Quán giá
Tất cả những đặc trưng nổi bật nhất trong lễ hội Quán Giá đã làm cho lễ hội
duy trì đến ngày nay mà vẫn giữ được giá trị riêng nhưng cũng phát huy được giá
trị truyền thống và tuyên truyền được trong xã hội hiện đại.
Lễ hội mô phỏng lại cuộc đấu tranh quyết liệt, đối đầu với kẻ thù của Lý
Phục Man, để ta thấy được lịch sử oai hùng và biết ơn một tấm gương sáng tài giỏi,
tinh thần yêu nước quật cường và lịng dũng cảm, có cơng lao to lớn trong cuộc
chiến chống xâm lược.
Lễ hội Quán Giá là một trong những lễ hội mang nét đặc trưng của lễ hội
truyền thống vùng Bắc Bộ. Thông qua nghi lễ thờ cúng, một phần thể hiện sự tơn
kính, ca ngợi cơng ơn của Lý Phục Man, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm
của người con xứ Đoài, là một niềm tự hào cho quê hương, phần còn lại là mong
muốn của người nông dân cầu cho mưa thuận gió hịa, cầu cho một năm ấm no
hạnh phúc, mùa màng tốt tươi, nhân dân mạnh khỏe…
Lễ hội Quán Giá còn mang lại niềm vui cho mọi người, khơi dậy lòng yêu
nước, tinh thần tự hào dân tộc, cũng là dịp để mọi người hướng về cội nguồn,
tưởng nhớ đến công lao của tổ tiên, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của
người dân Việt Nam.
Qua lễ hội thấy được sức mạnh tập thể, tinh thần đoàn kết của nhân dân. Họ
cùng thờ chung một vị thần, cùng chung tay tiến hành lễ hội, cùng giúp đỡ nhau
trong cuộc sống và gắn kết với nhau hơn thông qua những buổi lễ sinh hoạt. việc
diễn lại thần tích, rước kiệu, diễn xướng, lễ tế, nhằm khuyên răn nhắc nhở cư dân
làng sống lương thiện, hướng về cội nguồn, hiếu kính với cha mẹ, tận tụy với công
việc, đề cao vai trị cá nhân trước cộng đồng…

Lễ hội Giá ngồi mang ý nghĩa lịch sử còn mang giá trị nghệ thuật, văn hóa,
tâm linh và đặc biệt là sự cấu kết cộng đồng. Tạo nên một bức tranh lễ hội mang
đầy màu sắc nhân văn, nhân đạo, có tinh thần giáo dục thế hệ trẻ và tạo nên những
giá trị đẹp đẽ cho văn hóa con người nơi đây.
Chương 4. Tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng và cuộc sống hơm nay
20


4.1 Thành hồng làng và cuộc sống hơm nay.
Trong cuộc sống hơm nay, cịn nhắc đến câu chuyện thờ Thành Hồng thì
cũng khơng tránh khỏi việc bị hiểu lầm là lạc hậu, là mê tín dị đoan. Nhưng con
người Việt Nam ai cũng thờ cúng tổ tiên, sự tin tưởng vào việc có sự tồn tại của tổ
tiên trong suốt cuộc đời mình khơng ai cho là mê tín, là trái đạo cả. Thờ phụng
Thành Hoàng thực ra là một dạng tín ngưỡng tổ tiên ở mức cao hơn, là ơng tổ của
một làng.
Qúa trình đơ thị hóa qua các năm đã làm cho một xã hội in đậm dấu ấn nông
thôn, nguyên vẹn giá trị truyền thống nay đã “chuyển mình” trở thành một xã hội
mang hơi thở của đơ thị, tiên tiến và hiện đại. Nhưng tín ngưỡng thờ thành hồng
làng vẫn cần được gìn giữ và nối tiếp vì nó là biểu hiện của đạo lý “uống nước nhớ
nguồn” giữ một vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong việc hình thành lối sống
biết ơn tổ tiên, nguồn cội.
Ngày nay xu hướng khôi phục các lễ hội, các nghi thức thờ cúng, các tục lệ
truyền thống có liên quan đến Thành hồng làng đang được diễn ra và nhận được
sự ủng hộ của nhà nước. Bởi vì các lễ hội ấy khơng chỉ đem lại sự phấn khởi, còn
khơi gợi lại các giá trị xưa cũ bị phủ mờ bởi lớp bụi thời gian, nó là nét đặc trưng
riêng biệt của người Việt cần được gìn giữ.
4.2 Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng
Tín ngưỡng thờ thành hồng làng được duy trì giúp cho con người, nhất là
thế hệ trẻ hiện nay hòa nhập vào nhịp sống văn hóa hiện đại mà vẫn giữ gìn phát
huy được truyền thống văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt

Nam vừa tiếp thu được những yếu tố tiên tiến của các nước phát triển, vừa mang
đậm nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Người dân thờ thành hoàng nhằm phục vụ cho cuộc sống hiện thực của mình
, là nơi tinh thần được che chở, dựa dẫm, ban phúc lành, là nguồn cổ vũ, động lực
cho con người hăm hở trong làm ăn, sản xuất, thậm trí là nguồn an ủi khi con
người xa cơ lỡ bước.

21


Tín ngưỡng thờ Thành hồng thực chất nó cịn là đạo lý “uống nước nhớ
nguồn” dạy con người phải sống hướng thiện, biết kính trên nhường dưới, kính
trọng, thờ tự tổ tiên và luôn ghi nhớ công lao của những người đã có cơng với xóm
làng, với đất nước, dân tộc.
Sự xuất hiện của Thành hoàng là một hiện tượng mang đậm yếu tố tín
ngưỡng, tâm linh, do con người sáng tạo ra, thể hiện sự nhớ ơn, ghi lòng tạc dạ
cơng đức đối với những người có cơng với dân, với nước, nhằm mục đích bảo hộ
và che chở cho con người trong phạm vi một thành, một làng nhất định. Tín
ngưỡng thờ Thành Hồng cịn đóng vai trị quan trọng trong liên kết, cố kết cộng
đồng làng xã. Là nét đẹp văn hóa tâm linh của người Việt Nam.
4.3 Bảo tồn và phát triển tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng.
Lễ hội dân gian nói chung và nghi lễ thờ thành hồng nói riêng do quần
chúng nhân dân sáng tạo ra xuất phát từ nhu cầu tinh thần khách quan của cuộc
sống lao động sản xuất chống chọi với thiên nhiên và giặc dã đã hình thành nhu
cầu tâm linh không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của cộng đồng được
lưu truyền qua các thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay, vì vậy
phải để cho lễ hội dân gian và nghi lễ thờ cúng Thành Hoàng sống trong quần
chúng nhân dân và chính họ là người tự chủ động bảo tồn và duy trì các hoạt động
của lễ hội và tín ngưỡng thờ cúng Thành Hoàng theo các giá trị truyền thống vốn
có của nó dưới sự hướng dẫn, quản lý của các cơ quan chuyên môn và cơ quan

quản lý nhà nước. Trên cơ sở đó để bảo tồn và phát huy các yếu tố tích cực của lễ
hội thờ cúng Thành Hoàng, loại bỏ những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống
tâm linh của cộng đồng.
Trong quá trình chỉ đạo tổ chức và hướng dẫn cơng tác bảo tồn và phát huy
giá trị của lễ hội nói chung và tín ngưỡng thờ Thành Hồng nói riêng, cần tổ chức
hội nghị, hội thảo khoa học để nghiên cứu một cách khoa học và cẩn trọng đối với
những giá trị của từng di sản một cách nghiêm túc. Để giữ gìn những yếu tố bản
địa, cổ xưa, tích cực của di sản, loại bỏ những yếu tố sao chép ngoại lai, mê tín, dị
đoan, ảnh hưởng đến "thuần phong, mỹ tục" của truyền thống văn hóa dân tộc.
22


Khơng ỷ nại, trơng chờ vào nguồn kinh phí của nhà nước mà cần chủ động, quan
tâm đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa với các hình thức phù hợp với từng địa
phương trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm tăng cường nguồn lực trong
hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa nói chung và tín ngưỡng
thờ Thành Hồng nói riêng. Tun truyền, quảng bá di sản để vận động các tập thể,
cá nhân trong xã hội phát tâm cơng đức, đóng góp huy động cơng sức và trí tuệ,
kinh phí, hiện vật, vật chất, góp phần thiết thực động viên tồn xã hội vào cơng tác
tu bổ, tơn tạo các di tích và các lễ hội có tín ngưỡng thờ Thành Hồng.
KẾT LUẬN
Tín ngưỡng thờ Thành hồng làng là loại hình tín ngưỡng dân gian, là giá
trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, là điểm hội tụ đời sống tâm linh của các
tầng lớp nhân dân trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng gắn liền với hệ thống các thần thoại,
truyền thuyết, thần tích, các di tích đền miếu, các nghi lễ, phong tục và lễ hội, tạo
thành một hệ thống văn hoá vật thể và phi vật thể phong phú, đa dạng. Với những
quan niệm về niềm tin con người được thần thánh hóa, tín ngưỡng thờ Thành
Hồng làng Lý Phục Man mang lại cho cư dân các làng xã một niềm tin an ủi,
động viên, một sự nâng đỡ tinh thần nhất định và cả đạo lý uống nước nhớ nguồn

nhắc nhở mọi người nên sống thiện, đoàn kết và u thương lẫn nhau.
Tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng mang trong mình những quy ước, quy
phạm về cách ứng xử, đòi hỏi chủ thể tin vào đối tượng thờ cúng và phải hành
động tương hợp. Bản sắc văn hóa ấy là những đặc điểm và nhu cầu sinh hoạt tín
ngưỡng của người dân, ln có vai trị tích cực đối với đời sống tinh thần của cư
dân nơi đây.
Đối với thời hiện đại, con người dần lãng quên đi những phong tục tín
ngưỡng dân gian nhưng những phong tục này chính là “cái hồn” của dân tộc, “cái
hồn” độc đáo mang nét riêng của đất nước, nó cịn thể hiện đạo lí “uống nước nhớ
nguồn” của con người Việt Nam nên tín ngưỡng này cần được bảo tồn và phát
triển ở tương lai. Chúng ta có thể hịa nhập nhưng khơng thể hịa tan.
23


×