Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Giá trị, ý nghĩa nội dung tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản việt nam đối với công cuộc xây dựng , chỉnh đốn đảng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.37 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
--oOo-TIỂU LUẬN MÔN :
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài : Giá trị, ý nghĩa nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng Sản
Việt Nam đối với công cuộc xây dựng , chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam hiện
nay ?

Sinh viên thực hiện :
Họ Và Tên : Đỗ Thiện Hòa
Ngày sinh : 20/08/2001
SHSV :19020817
Mã lớp : K64_H
Trường đại học Công Nghệ Hà Nội

HÀ NỘI 2021


I.

Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng Sản Việt Nam

1. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách
mạng nước ta đến thắng lợi.
Cách mạng vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi khi có Đảng
cộng sản, chính đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Luận điểm đó của
Mác, Ăngghen, và Lênin trước hết bắt nguồn từ vai trò của Đảng đối với
cách mạng và từ địa vị, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời
đại ngày nay.Cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi trước hết phải
dựa vào sức mình là chính, nhưng mặt khác cũng phải biết kết hợp sức


mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, sức mạnh của cách mạng thế
giới. Cách mạng Việt Nam do đó phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng của
các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và cách mạng vô sản ở các nước chính
quốc, giữ mối liên hệ đó là nhiệm vụ của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
cách mạng Việt Nam là đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội
Việt Nam lúc đó. Thực tiễn gần 80 năm qua đã chứng minh cách mạng
Việt Nam luôn luôn cần có Đảng lãnh đạo, nhân tố hàng đầu đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, khơng một lực
lượng chính trị nào có thể thay thế được vai trị lãnh đạo đó.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đều quan niệm
Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân. Luận điểm đó hồn tồn đúng khi giai cấp
cơng nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng chính
trị độc lập, được lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn đường.
Xuất phát từ tình hình Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến,


kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh thấy rằng việc ra đời Đảng
cộng sản ở đây, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp cơng nhân cịn nhỏ bé, phong trào cơng
nhân cịn non yếu. Do đó phải kết hợp với phong trào yêu nước rộng lớn
của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân; phong
trào này diễn ra liên tiếp, từ rất lâu trước khi có giai cấp cơng nhân và
phong trào công nhân, phong trào yêu nước trong thời đại mới rất gần với
phong trào công nhân và đang bế tắc về đường lối cho nên rất dễ tiếp thu
lý luận Mác - Lênin. Khái quát về quy luật đặc thù của việc ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết

hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới sự thành
lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”[1]. Ở đây phong trào
cơng nhân dù có tiên tiến nhất, nhưng nếu khơng gắn bó với phong trào
yêu nước, trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cũng khơng
mở rộng được cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và đưa cuộc đấu
tranh đó đến thắng lợi.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Khi xem xét bản chất giai cấp của một chính đảng khơng phải xem
đảng đó mang tên gì, thành phần xuất thân của đảng viên mà vấn đề quyết
định là phải căn cứ vào nền tảng tư tưởng, tơn chỉ, mục đích, ngun tắc
tổ chức và hoạt động của đảng đó. Trước sau như một, dù là mang tên
Đảng Cộng sản Việt Nam; Đảng Cộng sản Đơng Dương; Đảng Lao động
Việt Nam, thì theo Hồ Chí Minh, Đảng ta vẫn mang bản chất giai cấp
công nhân. Bởi vì tơn chỉ, mục đích, nền tảng tư tưởng, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Đảng ta mà Hồ Chí Minh chỉ ra đều ln tn thủ
nghiêm túc các nguyên tắc về xây dựng Đảng cộng sản của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Theo Người, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mang bản chất giai cấp


cơng nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Đảng đó khơng chỉ
đại biểu, đại diện, chiến đấu vì lợi ích của giai cấp cơng nhân mà còn của
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Tổng kết thực tiễn hoạt động của
Đảng ta, Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta vĩ đại, vì ngồi lợi ích của giai cấp,
của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta khơng có lợi ích gì khác”[2].
4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin "làm cốt".
Tính đúng đắn, tính cách mạng và khoa học của một lý luận mà
chính đảng đã lựa chọn là điều kiện tiên quyết làm nên thắng lợi của cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin,

“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”[3] . Nhờ lý luận
ấy. Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước, đã xây dựng Đảng
cộng sản Việt Nam và trang bị cho Đảng vũ khí tinh thần để Đảng làm
trịn vai trị tiên phong, vai trò lãnh đạo cách mạng.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc
của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
● Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ
○ Theo Hồ Chí Minh, tập trung trên nền tảng dân chủ là cơ
quan lãnh đạo của Đảng đều do quần chúng đảng viên bầu
nên, chủ trương nghị quyết của Đảng do tập trung kinh
nghiệm, ý kiến của quần chúng đảng viên mà thành, quyền
lực của cơ quan lãnh đạo do quần chúng đảng viên giao
phó, chứ khơng phải tập trung quan liêu, chun quyền, độc
đốn. Còn dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung là từ việc bầu
cơ quan lãnh đạo, đến ra nghị quyết đều có sự lãnh đạo, chỉ
đạo chặt chẽ, thống nhất chứ không phải dân chủ theo kiểu
phân tán, tuỳ tiện, vô tổ chức, dân chủ và tự do quá trớn.
● Hai là, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
○ “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn


đi đôi với nhau”[4], Người hướng dẫn rất cụ thể trong thực
hiện nguyên tắc này là cần phải chủ động, sáng tạo xuất
phát từ tính chất, u cầu của cơng việc, điều kiện hoàn
cảnh nhất định để mang lại hiệu quả thiết thực, Người nhắc
nhở: “Nhưng không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một
người vẫn có thể giải quyết được, cũng đưa ra bàn bạc - mới
là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy là hiểu tập thể lãnh
đạo một cách máy móc. Kết quả cứ khai hội mà hết ngày

giờ” và “những việc bình thường, một người có thể giải
quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi.
Những việc quan trọng, mới cần tập thể quyết định”[5].
Người kết luận “Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân
chủ tập trung”[6]
● Ba là, tự phê bình và phê bình
○ Hồ Chí Minh khơng chỉ kêu gọi, nhắc nhở, căn dặn mà bản
thân Người luôn luôn gương mẫu làm trước, thể hiện sự
nhất quán giữa lời nói với việc làm, giữa giáo dục và nêu
gương. Với tinh thần thực sự cầu thị của một người cộng
sản, Người chân thành nhắc nhở, yêu cầu các đồng chí và
cộng sự của mình cần thẳng thắn, đừng ngần ngại trong góp
ý kiến với Người. Người nói: “...tơi làm điều xấu, các đồng
chí trơng thấy, phải phê bình cho tơi sửa chữa ngay. Nếu tơi
có vết nhọ trên trán, các đồng chí trơng thấy, lại lấy cớ "nể
Cụ" khơng nói, là tơi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì
khơng quan trọng nhưng nếu nhọ ở trong óc, ở tinh thần,
mà khơng nói cho người ta sửa, tức là hại người”[7]. Đó thực
sự là một tấm gương sáng ngời của Hồ Chí Minh về sự tự
phê bình và phê bình theo tinh thần của Lênin: Bị một phen
thất bại không nguy hiểm bằng không dám thừa nhận sự thất


bại, không dám rút ra ở đây tất cả những kết luận.
● Bốn là, kỷ luật nghiêm minh và tự giác
○ Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật nghiêm để đảm bảo tư tưởng
nhất trí và hành động thống nhất của tồn Đảng”[8]. Kỷ luật
của Đảng cịn vượt qua mục đích tự thân của nó. Sự tập
trung thống nhất ý chí và hành động trong kỷ luật của Đảng
là yêu cầu căn bản đem tới sự thống nhất về tư tưởng và

hành động của quần chúng cách mạng. Đó là tấm gương và
là niềm tin của quần chúng đối với đội ngũ tiền phong của
mình. Nếu “đảng viên phạm sai lầm, thì sẽ đưa quần chúng
đến sai lầm”[9]
● Năm là, đồn kết thống nhất trong Đảng.
○ Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng Cộng sản Việt Nam được
Hồ Chí Minh vun đắp, xây dựng là dựa trên nền tảng lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự đoàn kết thống nhất của Đảng
còn được dựa trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng; dựa trên cơ sở một mục đích, một lý tưởng thống
nhất. Mặt khác, đoàn kết thống nhất trong Đảng Cộng sản
Việt Nam theo Hồ Chí Minh phải dựa trên những nguyên tắc
tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đây là cơ sở để
tạo sự thống nhất về tư tưởng, về tổ chức, từ đó có sự thống
nhất về hành động của toàn Đảng, nhằm đưa đường lối,
quan điểm của Đảng vào trong cuộc sống, biến các chủ
trương của Đảng thành hành động cách mạng trong nhân
dân. Sự đoàn kết thống nhất thực sự lành mạnh, trong sáng,
chân chính của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có thể được xây
dựng trên cơ sở này. Xa rời cơ sở đó sẽ khơng có đồn kết
thống nhất.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là


người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, với tư cách là người lãnh đạo, Đảng phải
thuyết phục, thu phục, chinh phục được quần chúng nhân dân. Điều đó
chỉ có thể thực hiện được bằng đường lối, chủ trương đúng đắn, cách
mạng và khoa học của Đảng - ngọn cờ để dẫn dắt, tập hợp quần chúng
hành động; bằng hành động gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên của

Đảng - với cái tâm, cái trí, cái đức của người cộng sản chân chính, lời nói
việc làm thống nhất, bằng việc Đảng cộng sản Việt Nam ln ln là trí
tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc, đạo đức văn minh của toàn xã hội;
bằng lợi ích thiết thực mà Đảng đem lại cho mỗi con người.
Cùng với thực hiện vai trò lãnh đạo, Đảng phải làm tròn bổn phận là
người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng sinh ra là để đấu tranh cho
độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vì lợi ích của
giai cấp, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Không thực hiện được
mục tiêu đó, Đảng cộng sản khơng cịn lý do tồn tại. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"Đảng khơng phải là một tổ chức để làm quan phát tài", mọi quan niệm
Đảng là “cứu tinh” của nhân dân đều trái với tư tưởng của Người và cần
phải được đấu tranh phê phán, loại bỏ.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Chỉnh đốn Đảng là một nhiệm vụ rất quan trọng liên quan trực tiếp
tới sức mạnh, uy tín chính trị của Đảng và mỗi đảng viên. Vì vậy Hồ Chí
Minh u cầu cơng tác chuẩn bị phải chu đáo, tỉ mỉ, thận trọng, phải xác
định được nội dung, phương châm chỉ đạo, hình thức và bước đi cụ thể,
tránh nơn nóng, chủ quan, Người nói: "Chỉnh Đảng phải làm từng bước,
phải có trọng tâm"[10]. Mặt khác, theo Người về phương pháp tiến hành là
phải trên trước, dưới sau; phải làm từ trong cấp uỷ rồi đến đảng viên, phải
coi trọng ở tất cả các cấp, nhưng trước hết phải coi trọng chỉnh đốn đảng


ở chi bộ; phải chỉnh đốn tư tưởng trước, tổ chức sau và kết hợp chặt chẽ
với nhau; phải dựa vào quần chúng, động viên quần chúng và tạo điều
kiện để quần chúng tham gia chỉnh đốn Đảng.
II. Một số nội dung chủ yếu về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống quan

điểm toàn diện và phong phú, một di sản quý báu, góp phần quan trọng vào sự
phát triển học thuyết về chính đảng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư
tưởng đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng và hoạt
động của Đảng ta. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng của Người vào
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay là tất yếu và cấp thiết.
1. Cần nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng.
Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở việc kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó,
cần phải thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên đường lối, chủ
trương của Đảng, lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền
thống dân tộc và kiến thức mới của thời đại. Tăng cường công tác lý luận
của Đảng để đảm bảo cơ sở khoa học của đường lối và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Uốn nắn những lệch lạc, mơ hồ, dao động tư tưởng về
chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh kiên quyết chống sự suy thối về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc vạch ra đường
lối, chiến lược kinh tế - xã hội đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm
và điều kiện của nước ta. Muốn sáng tạo, tránh giáo điều, dập khn,
Đảng phải nâng cao trí tuệ của mình lên ngang tầm thời đại. Bác Hồ đã


nhiều lần nhắc nhở "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có học thức".
Vì vậy, nâng cao trí tuệ của Đảng là đòi hỏi Đảng, đội ngũ đảng viên phải
ra sức học tập lý luận, văn hoá, khoa học kỹ thuật, ngoại ngữ...
2. Xây dựng củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền tảng và
hạt nhân chính trị của Đảng ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trị hết sức quan trọng, là cầu nối
Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật

của Nhà nước. Do vậy, cần khảo sát, đánh giá thực trạng của từng tổ chức
cơ sở đảng để có biện pháp đổi mới chỉnh đốn cho phù hợp. Bảo đảm mỗi
loại hình cơ sở hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Chấn chỉnh,
củng cố các cơ sở yếu kém. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ
cơ sở, chú ý bố trí đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Phát huy vai trò của mỗi
tổ chức cơ sở đảng trong tổ chức, quy tụ sức mạnh của đơn vị hồn thành
nhiệm vụ chính trị, làm tốt cơng tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng
viên.
3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Mỗi cán bộ, đảng viên là một phần tử cấu thành tổ chức Đảng, vì thế
Đảng chỉ vững mạnh khi đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng cao.
Chất lượng cán bộ, đảng viên ảnh hưởng trực tiếp tới bản chất giai cấp
cơng nhân của Đảng, đến vai trị và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, liên
quan trực tiếp tới uy tín của Đảng trong quần chúng. Để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay các tổ chức đảng, nhất là ở chi
bộ cần phải quản lý chặt chẽ, đánh giá đúng đội ngũ cán bộ, đảng
viên.Bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho họ.
Phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, đúng người, đúng việc và đưa cán bộ,
đảng viên vào hoạt động thực tiễn để bồi dưỡng, rèn luyện. Thường


xuyên kiểm tra, sàng lọc, kiên quyết, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những
người khơng cịn đủ tư cách đảng viên.
4. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thắt chặt mối
quan hệ giữa Đảng với quần chúng.
Sức mạnh của Đảng là sức mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Điều kiện đảm bảo cho sức mạnh ấy, chính là sự tuân thủ nghiêm ngặt
nguyên tắc tập trung dân chủ. Do đó, việc phát huy dân chủ phải đi đôi
với tăng cường kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên có quyền được thơng tin,
bàn bạc, tham gia quyết định cơng việc của Đảng, khi đã có nghị quyết

thì phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Thực hiện nghiêm túc,
thành nề nếp chế độ tự phê bình và phê bình. Mọi biểu hiện vơ tổ chức,
vơ kỷ luật, gây chia rẽ, bè phái làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất
của Đảng phải được xử lý kỷ luật nghiêm minh. Xây dựng quy chế ra
nghị quyết lãnh đạo của Đảng, quy chế làm việc của các cấp lãnh đạo
đảm bảo phát huy trí tuệ của tập thể.
Xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân là một
trong những mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
cơng tác xây dựng Đảng. Bởi theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, thắng lợi của cách mạng là sự phấn đấu hy sinh và trí thơng
minh sáng tạo của hàng triệu nhân dân. Vì vậy, sự gắn bó với quần chúng,
trước hết, người đảng viên phải tin vào khả năng và lực lượng của nhân
dân. Nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước quần chúng,
phải chăm lo đến lợi ích và đời sống của người dân. Phải hịa mình với
quần chúng thành một khối, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần
chúng, gương mẫu trước quần chúng từ lời nói đến việc làm, tơn trọng
quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua phong trào cách mạng của quần
chúng mà rèn luyện và sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên.


5. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra đường lối, chính sách, đảm bảo sự
định hướng cho phát triển của đất nước. Đảng nắm vững tổ chức và cán
bộ, để đảm bảo thực hiện có kết quả đường lối của Đảng. Đảng khơng
phải là cơ quan quyền lực Nhà nước, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị,
đồng thời là một bộ phận của hệ thống chính trị, Đảng hoạt động trong
khn khổ của hiến pháp và pháp luật.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay, khâu mấu chốt
cần tập trung là đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước ở cấp
Trung ương và chính quyền ở cấp địa phương, Đảng không buông lỏng

lãnh đạo, đồng thời không bao biện làm thay Nhà nước mà phát huy
mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, cần chú ý xác định mục tiêu, phương hướng và nội
dung hoạt động từng thời kỳ, đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng
tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong đổi mới tổ chức và hoạt
động. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới phong
cách hoạt động, lề lối làm việc thực sự dân chủ, thiết thực, nói và làm
thống nhất, khắc phục bệnh quan liêu, tuỳ tiện, chủ quan, hình thức.

Tài Liệu Tham Khảo :Hồ Chí Minh tồn tập
[1] :tập 10, tr8
[2] :tập 10, tr4
[3] : tập 2, tr268
[4],[5],[6] : tập 5, tr505


[7] :tập 5, tr224
[8]:tập 7, tr335
[9] :tập 9, tr289
[10]:tập 6, tr 465



×