Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG của TRIẾT học mác lê NIN ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN đối với VIỆC PHÁT HUY NHÂN tố CON NGƯỜI TRONG sự NGHIỆP CNH, hđh ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.74 KB, 27 trang )

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊ NIN.
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CNH, HĐH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Triết học, với tư cách là một hình thái của ý thức xã hội bao giờ cũng trở
lại với con người, coi con người là đối tượng trung tâm nghiên cứu của bộ môn.
Dù duy tâm hay duy vật, biện chứng hay siêu hình, mọi trào lưu triết học từ cổ
đại đến hiện đại đều đi vào lý giải một cách trực tiếp hay gián tiếp những vấn đề
chung nhất về con người. Nhưng sự lý giải ấy xuất phát từ lập trường thế giới
quan, phương pháp luận khác nhau nên sự hình thành, phát triển của các trào lưu,
trường phái triết học cũng khác nhau hoặc đối lập nhau. Cuộc đấu tranh xoay
quanh vấn đề con người là một trong những nét nổi bật của triết học. Chỉ đến
Triết học Mác Lênin ra đời mới tạo ra bước ngoặt cách mạng, khoa học về quan
niệm con người, những giá trị đích thực của con người trong nhận thức và cải tạo
tự nhiên, xã hội và phát triển tư duy mới được trả lại giá trị đích thực. Ngày nay,
lý luận Mác xít về con người đã và đang trở thành thế giới quan, phương pháp
luận khoa học để Đảng ta xác định những quan điểm, giải pháp để phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ thuở bình minh của lịch sử lồi người, khi con người bắt đầu có ý
thức và khả năng tìm hiểu những bí mật của thế giới xung quanh thì con người
cũng bắt đầu đặt ra những câu hỏi và lời giải đáp về chính mình: Con người là
gì? Con người sinh ra từ đâu?... Lời giải đáp đó đã có từ trong các truyền thuyết
thần thoại, sử thi lưu truyền trong dân gian, mặc dù đó chỉ là những quan niệm
có tính chất triết lý thơ sơ, nhân sinh về cuộc sống con người. Và sự xuất hiện tư
duy triết học đánh dấu bước nhảy vọt trong năng lực nhận thức của con người,
đồng thời đánh dấu một giai đoạn mới trong việc tự ý thức về bản thân. Các nhà


2


duy vật phương Tây cổ đại đã giải thích sự cấu tạo của thân thể con người từ các
yếu tố vật chất, họ đã có những "tun ngơn" về con người bằng sức mạnh nhận
thức, sức mạnh cải tạo, có thể hiểu biết và cải tạo thế giới, nhận thức và cải tạo
được số phận và chính bản thân mình. Nhưng sức mạnh tiềm tàng của con người
có tính độc lập khơng phụ thuộc vào sức mạnh nằm ngồi con người. Sự tuyên
chiến của triết học với niềm tin ngây thơ vào sức mạnh siêu nhiên thần bí, các
điều tiên tri kỳ lạ là nhiệm vụ chủ yếu của triết học duy vật đấu tranh với triết
học duy tâm.
Ngoài ra, thời kỳ cổ đại ở Phương Tây, người ta đã cho rằng: triết học
phải là học thuyết dạy cho con người biết sống như thế nào, do đó, nhiệm vụ đặt
ra phải nhận thức và tự nhận thức (Xôcrát). Triết học cổ đại cho ta những tư
tưởng xuất sắc, chẳng hạn Đêmơcrít cho rằng: lúc đầu con người cũng sinh sống
như các động vật, sử dụng các vật phẩm sẵn có trong thiên nhiên. Chính sự thiếu
thốn làm cho nhu cầu ngày càng tăng, từ sự thúc đẩy của nhu cầu mà bàn tay, trí
tuệ của con người tạo nên văn minh về nhà ở, quần áo và các công cụ sản xuất....
Arixtốt - đại biểu đại diện giai cấp chủ nô, ông coi con người nô lệ là "những
công cụ biết nói". Ơng đã nêu lên luận đề: Con người là động vật xã hội và con
người cũng là động vật chính trị. Thừa nhận con người cần phải nghiên cứu thế
giới tự nhiên vì bản thân con người là một bộ phận của tự nhiên. Như vậy, triết
học Phương Tây cổ đại đã rất chú ý bàn đến những vấn đề thực tiễn của con
người, hướng con người với tự nhiên để chinh phục, cải tạo tự nhiên đáp ứng
nhu cầu cuộc sống của mình. Những vấn đề nhân sinh quan cũng giải quyết được
dựa trên mối quan hệ con người với tự nhiên.
Ở phương Đông thời cổ đại, người ta lại bàn luận về các vấn đề "nhân tình
thế thái" với quan niệm con người là tiểu vũ trụ, giải quyết quan hệ người người là gốc để giải quyết các quan hệ khác. Sức mạnh của con người được
hướng vào cải tạo chính con người. Khổng Tử chủ trương nhập thế "Tu thân, tề


3


gia, trị quốc, bình thiên hạ". Lão Tử khuyên răn con người "Vơ vi", "Vơ kỷ".
Thích ca màu ni cứu vớt chúng sinh bằng con đường tu hành "diệt dục", hạnh
phúc tột đỉnh của con người khi nó từ bỏ hoàn toàn đời sống xã hội để quay về
sống với cái "tâm" của mình. Mặc dù chưa tìm thấy được những quan hệ cốt lõi
trong việc cải tạo con người và xã hội lồi người, nhưng những triết gia phương
Đơng cũng có những cống hiến quan trọng trong các giải pháp cải tạo xã hội, con
người về đạo đức, về giáo dục, về nhân sinh quan...
Đến thế kỷ XIV - XV, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời đưa
nhân loại thoát khỏi "đêm trường trung cổ", xuất hiện những tư tưởng mới, phù
hợp với sự ra đời của chế độ xã hội mới. Cuộc đấu tranh kéo dài giữa các hệ tư
tưởng diễn ra liên tục và khá quyết liệt. Lý trí và tự do tư tưởng của con người,
chống lại lịng tin mơng muội có tính tơn giáo và sự biện hộ cho nó là thần học
kinh viện. Sự giải phóng cá nhân con người, sự đề cao cuộc sống hạnh phúc,
chống lại sự chà đạp thô bạo lên nhân cách và chủ nghĩa khổ hạnh. Đến thời kỳ
phục hưng đã xây dựng nên một quan niệm khá hồn chỉnh, có hệ thống về con
người và đã diễn đạt được một hình thái sáng sủa đầy sức sống. Đó là đặt con
người vào vị trí trung tâm của thế giới. Hạnh phúc, sự phát triển và sự hồn thiện
của con người là mục đích của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là sự
phản ánh khát vọng của giai cấp tư sản ở giai đoạn hình thành. Bên cạnh mặt
tiến bộ, cách mạng chứa đựng sẵn những mặt yếu và mâu thuẫn bên trong.
Những mặt này sẽ lớn dần lên cùng với sự tiến lên của giai cấp tư sản thành giai
cấp thống trị. Dù sao triết học thời phục hưng đã chuẩn bị cho một bước phát
triển mới về khoa học, về sự nghiên cứu con người. Niềm tin và sức mạnh của
con người, đặc biệt là tri thức và năng lực tư duy của con người được thể hiện
đậm nét. Những luận đề "Tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức" của Bêcơn,
hay "Tôi tư duy nên tôi tồn tại" - Đềcáctơ. Đây là những luận đề chống lại thái
độ của các tín đồ tơn giáo. Đặc biệt các nhà duy vật thời kỳ này, trong khi khẳng


4


định nguồn gốc tự nhiên, những yêu cầu "bản chất" của con người và xuất phát
từ đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ xã hội cho phù hợp với bản chất con người.
Họ cho rằng lý trí, khoa học và giáo dục là những động cơ thúc đẩy sự tiến bộ
của xã hội. Học thuyết về con người, về xã hội chiếm một vị trí quan trọng trong
di sản tư tưởng của các nhà duy vật thuộc phái khai sáng ở Pháp thế kỷ XVIII.
Đại biểu Môngtexkiơ cho rằng xã hội cũng như giới tự nhiên đều phải phục tùng
những quy luật khách quan, trạng thái tự nhiên của con người là sống hồ bình
và bình đẳng với nhau. Hônbách cho rằng con người sinh ra vốn không thiện,
cũng khơng ác, thiện hay ác là do hồn cảnh tạo nên, đặc biệt là những điều kiện
chân chính của xã hội. Theo ông, sự hiểu biết đúng đắn về lợi ích cá nhân với tư
cách là cơ sở tất yếu của hành vi con người, có thể dung hợp với lợi ích của xã
hội.
Ở Đức, cuộc cách mạng dân chủ tư sản chậm hơn các nước Tây Âu. Kinh
tế, chính trị lạc hậu, nhưng những tư tưởng, lý luận với hình thức tư biện về thế
giới và con người tương đối phát triển. Hêghen đã biết tất cả lo âu và những hy
vọng của con người. Ông chứng kiến sự thay đổi của hai thế giới cũ và mới. Ông
viết: "Con người phải sống trong cả hai thế giới tương phản nhau đến mức ý thức
cũng phải vật lộn trong mâu thuẫn ấy... Một mặt chúng ta thấy con người bị gắn
với tính thời sự tầm thường và tính thời gian của trái đất bị dằn vặt bởi những
nhu cầu và khổ cực, bị đe doạ bởi giới tự nhiên, bị sa lầy vào trong vật chất, bị
thống trị bởi các bản năng tự nhiên. Mặt khác, con nguời vươn lên cái ý niệm
vĩnh cửu, lên vương quốc của tư duy và tự do. Nó tự coi như là ý chí của các quy
luật và các quy định phổ biến. Nó tước bỏ thế giới khỏi tính thời sự phong phú
và giải quyết tính thời sự ấy bằng sự trừu tượng. Tinh thần khẳng định quyền lực
và phẩm giá của nó trước tình trạng hỗn loạn và tàn bạo của giới tự nhiên".
Hêghen là đỉnh cao của triết học tư biện vì ơng đã vận dụng sự trừu tượng
hố trừu tượng đến 2 lần khi ông quy khách thể và khái niệm của nó và quy con



5

người vào nhận thức của họ. Hai lần ấy khá giống nhau để có thể ghép thành một
hiện thực duy nhất, hiện thực của tinh thần tuyệt đối mà sự vận động của nó sẽ
tạo ra thế giới vì thơng qua con người tạo ra sự nhận thức về thế giới ấy. Tinh
thần của con người được đồng nhất với tinh thần của triết học tư biện Hêghen
khi con người đạt tới tột cùng của nhận thức. Nhưng con người trong quan niệm
của Hêghen chỉ là con người tư biện và cái thế giới bắt nguồn từ ý niệm con
người cũng là một thế giới lộn ngược: Thực thể trở thành chủ thể, ý niệm trở
thành bản chất của thế giới và động lực của lịch sử. Còn hành động thực tiễn của
con người thì bị xố bỏ trước tư biện biện chứng. Đây cũng là sự thể hiện tính
chất thoả hiệp về chính trị của giai cấp tư sản Đức, Hêghen coi chế độ chuyên
chế Phổ là "hợp" quy luật, là hình thức cuối cùng và hồn thiện của "ý niệm
tuyệt đối". Như vậy, Hêghen đã xây dựng một lâu đài triết học đồ sộ, nhưng ông
để cho con người sống trong một túp lều tranh của một hiện thực tồi tàn của
vương quốc Phổ. Cuối cùng sự phát triển về kinh tế - chính trị ở Đức đã làm nổ
tung sự điều hoà và chấm dứt bước chuyển tiếp ấy.
Và đến giữa thế kỷ XIX, Lútvích PhoiơBắc (nhà triết học theo phái dân
chủ cấp tiến của giai cấp tư sản Đức) đã bàn đến những vấn đề con người và xã
hội nhiều hơn. Cùng với tự nhiên, con người là đối tượng chân chính của triết
học. Chính vì vậy ông đã gọi triết học của ông là triết học mới "Triết học tương
lai về nhân bản học - học thuyết về con người". Ơng đã khơi phục chủ nghĩa nhất
nguyên về thế giới và con người theo chủ nghĩa duy vật. Theo PhoiơBắc, con
người là một bộ phận của tự nhiên, là một sinh vật có hình thể vật chất ở trong
không gian và thời gian. Không phải thượng đế tạo ra con người, mà con người
do giới tự nhiên đem lại. Không thể tách linh hồn ra khỏi thể xác được. Ý thức
chỉ là thuộc tính của vật chất đặc biệt, chỉ có ở con người - đó là bộ óc. PhoiơBắc
tin tưởng vào khả năng nhận thức của con người. Con người vừa đủ các giác
quan cần thiết để có thể lĩnh hội được tồn bộ thế giới một cách đại thể.



6

Những quan điểm nhân bản đã làm PhoiơBắc nhìn nhận con người có tính
chất một chiều, phiến diện, càng khơng thể đánh giá đúng bản chất của con
người. PhoiơBắc quan niệm con người chỉ là một sinh vật có thực thể, có cảm
giác chứ khơng phải là một sinh vật xã hội có tính lịch sử cụ thể của nó. Đó chỉ
là con người trừu tượng chung chung có tính tộc loại tổng hợp với những tính
chất sinh lý và đạo đức nhất định, con người đứng ngoài lịch sử, trên giai cấp với
bản chất bất biến của nó. Ơng tưởng tượng ra một sự thống nhất linh thiêng của
bản chất con người trong tất cả mọi cá nhân, mọi thời đại, mọi nước. PhoiơBắc
phản đối việc đồng nhất con người với tư duy ý thức như chủ nghĩa duy lý trước
kia đã quan niệm, song ông cho rằng bản chất con người là sự thống nhất toàn
vẹn của linh hồn và thể xác. Nhưng bản chất con người trong quan niệm của ơng
chỉ là cảm tính, là đời sống của ý trí và trái tim, là lương tâm, là tính đa dạng của
những cảm xúc, của cá nhân (yêu ghét, đau khổ, khao khát, hạnh phúc...). Tính
chất tĩnh quan của chủ nghĩa duy vật PhoiơBắc thể hiện rất rõ trong vấn đề ý
thức. Trong việc xem xét hoạt động của con người. Theo ông, con người chỉ
phản ánh thế giới khách quan một cách thụ động, ý thức chỉ là bản sao chép hình
ảnh các sự vật một cách đơn giản có tính chất tự nhiên chủ nghĩa. Ơng hồn tồn
khơng nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con người, hoạt động cách mạng
nhằm biến đổi hiện thực khách quan. Cho nên, triết học mới của PhoiơBắc chỉ là
để giải thích cái gì đã có chứ khơng phải để thay đổi những gì đang có.
Như vậy, trong suốt q trình lịch sử lâu dài, việc con người tự nhận thức
về bản thân mình đã được nâng lên khơng ngừng, cùng với việc nhận thức tự
nhiên và xã hội. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng trong lịch sử, rất nhiều vấn đề
về con người chưa được giải quyết một cách thoả đáng, căn bản và triệt để. Lồi
người chỉ có thể tìm thấy câu trả lời xác đáng cho mọi vấn đề về con người
trong triết học Mác-Lênin.



7

Trước hết, Ăngghen đã khẳng định, trong phê phán triết học mới của
PhoiơBắc: "Người ta chỉ đi từ con người trừu tượng của Phoi ơBắc đến những
con người hiện thực sinh động. Nếu người ta xét những con người đó trong các
hành động lịch sử của họ... Sự sùng bái con người trừu tượng, cái hạt nhân đó
trong tơn giáo mới của PhoiơBắc tất cả được thay thế bằng khoa học nghiên cứu
những con người hiện thực, trong sự phát triển lịch sử của họ" 1. Và thực sự Mác,
Ăngghen, Lênin đã chứng tỏ rằng con người là điểm xuất phát và sự giải phóng
con người là mục đích cao nhất của triết học Mác-Lênin. Ngay trong tác phẩm
"Bản thảo kinh tế - triết học" năm 1844. Mác đã trình bày một cách rõ nét, hệ
thống và khái niệm con người theo quan điểm duy vật lịch sử. Khái niệm đó là
khái niệm đa nghĩa, con người khơng đơn giản là những cá nhân riêng biệt, là
phương thức tồn tại của con người trong thế giới và không đơn giản là chủ thể
trừu tượng của nhân loại. Mà con người là cá nhân đặc biệt thực hiện trong nó
bản chất tộc loại và có mọi khả năng để phát triển. Đối với con người thì tồn bộ
lịch sử là q trình sinh thành của nó, cịn đối với lịch sử, con người thể hiện ra
là một chủ thể của sự phát triển lịch sử. Toàn bộ sự phát triển của con người thể
hiện ra là sự "tự tha hoá", là sự "lột bỏ". Xố bỏ sự tha hố đó là sự chiếm hữu
bản chất của con người. "Con người chiếm hữu bản chất tồn diện của mình một
cách tồn diện, nghĩa là như một con ngưịi hồn tồn" 2. Với quan niệm đó, Mác
chỉ ra sự hình thành phương thức tồn tại mới của con người.
Con ngưịi gắn nó với sự phát triển ngày một phong phú về đời sống của
mình, với việc tổ chức theo cách mới mối quan hệ của con người, với sự thay đổi
địa vị của con người trong xã hội. Mác coi chủ nghĩa cộng sản là sự xố bỏ một
cách tích cực "sự tự tha hoá" của con người, là "sự chiếm hữu một cách thực sự
bản chất của con người, bởi con người và vì con người, là việc "con người hồn
1
2


C.Mác,Ăngghen, Tồn tập, NXB CTQG, Hà nội, 1995, T.21.
C.Mác - Bản thảo KT-TH năm 1844, NXB ST, Hà Nội, 1962, tr.134.


8

tồn quay trở lại con người với tính cách là con người xã hội, nghĩa là có tính
chất người. Sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự
phong phú của sự phát triển đã đạt được"3. Khẳng định vai trò của con người
trong việc cải biến tự nhiên, cải tạo xã hội, chủ nghĩa Mác khẳng định: Con
người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, mà cịn là yếu tố
hàng đầu đóng vai trị quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó
là chủ thể của q trình lịch sử, của tiến bộ xã hội. Bằng lao động sản xuất, con
người cải tạo tự nhiên để thoả mãn nhu cầu của mình, đồng thời cải tạo cả bản
thân mình. Ăngghen viết: "Lao động là nguồn gốc của mọi của cải, lao động là
điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến một
mức mà trên ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân
con người"4. Trong hoạt động lao động chinh phục tự nhiên, con người cải biến
tự nhiên và trên cơ sở đó, sáng tạo ra những điều kiện bảo đảm cho sự sinh tồn
của bản thân mình, sáng tạo ra lịch sử của chính mình, sản phẩm lao động của
con người thể hiện sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên. Con người bằng hoạt
động lao động sáng tạo của mình, chinh phục, cải biến tự nhiên không phải tư
cách là những thành viên của cộng đồng xã hội. Sống trong cộng đồng xã hội,
con người tất yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là trong
hoạt động lao động sản xuất, con người và xã hội không tách rời tự nhiên. Nó có
thể tồn tại, phát triển dựa vào tự nhiên và trên cơ sở biến đổi tự nhiên "Mọi khoa
ghi chép lịch sử đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy và những thay đổi
của chúng do hoạt động của con người gây ra trong q trình lịch sử"5.
Với quan niệm đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cho rằng: nếu

khơng có tự nhiên và xã hội thì con người khơng thể tiến hành sản xuất được.
C.Mác, Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG, 1995, Tập 20, tr.641.
C.Mác, Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG, Hà nội. 1995, Tập 20, tr.641
5
Sđd, Tập 3, tr.29.
56
Sđd, Tập 26, tr.168
3
4


9

Song đến lượt mình, sản xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con
người cải biến tự nhiên, biến đổi xã hội trở thành nhân tố quyết định trực tiếp sự
tồn tại phát triển của con người, của xã hội lồi người. Trình độ sản xuất của con
người càng cao thì càng có điều kiện để thoả mãn nhu cầu vật chất của mình và
do đó càng làm phong phú thêm đời sống xã hội, đời sống tinh thần của con
người, thơng qua đó tự phát triển mình, phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Mác, Ăngghen khẳng định: Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển của lịch sử, của tiến bộ xã hội. Lịch sử loài người là lịch sử của con người,
do con người và vì con người. Phát triển xã hội trước hết có nghĩa là "phát triển
sự phong phú bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân"6.
Mục tiêu cao cả, ý nghĩa vĩnh hằng, bản chất nhân đạo, thước đo nhân văn,
sự phát triển tiến bộ xã hội là phát triển con người, đưa "con người từ vương
quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do" 7. "Để sản xuất ra những con người
phát triển tồn diện, cần phải có một nền kinh tế phát triển cao, một nền văn hoá
tiên tiến, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục phát triển và việc
tạo ra những thành tựu kinh tế xã hội đó khơng chỉ là một phương pháp để tăng
thêm nền sản xuất xã hội mà còn là một phương thức duy nhất để sản xuất ra

những con người phát triển một cách toàn diện" 8. Điểm đặc biệt của triết học
Mác - Lênin còn thể hiện khi xem xét giải quyết vấn đề tương quan giữa nhân tố
sinh học và nhân tố xã hội trong bản chất của con người. Các nhà kinh điển cho
rằng cái quyết định trong con người là cái xã hội. Con người và xã hội khơng
tách rời nhau và chỉ có trong xã hội, trong khn khổ của hồn cảnh xã hội cụ
thể, con người mới tồn tại với tư cách con người, ý thức tư duy của con người
xuất hiện như là sản phẩm xã hội, do đó là tính thứ hai trong sự tồn tại của xã hội
của con người. Từ phê phán con người của PhoiơBắc, Mác khẳng định "bản chất
6
7
8

C.Mác và Ăngghen, Sđd, Tập 19, tr.331
C.Mác và Ăngghen, Sđd, Tập 23, tr.688


10

con người khơng phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hồ các mối quan hệ xã hội"9.
Như vậy đã xác định rõ bản chất xã hội của con người, nhấn mạnh ý nghĩa
của những mối liên hệ, những đặc tính xã hội của con người. Chủ nghĩa Mác
tuyệt đối không cào bằng những đặc thù của cá nhân riêng biệt, không hạ thấp
những phẩm chất đặc thù nhân cách. Mặt sinh học của con người là những quy
luật sinh học nói chung, như những đặc điểm về cơ cấu chức năng của cơ thể,
ảnh hưởng của môi trường đối với hoạt động cơ thể, đặc tính di truyền, một số
nét tâm lý biểu hiện đặc tính phản ánh cấp thấp: tri giác, cảm tính, hoạt động thụ
cảm và phân tích...
Chính mặt xã hội của con người đã làm cho mặt sinh học trong con người
phát triển ở một trình độ khác hẳn về chất đối với những động vật khác. Bằng hoạt

động lao động sáng tạo, con người đã vượt lên trên các động vật không chỉ ở trong
mối quan hệ với xã hội mà cả ở trong mối quan hệ sinh học. Thậm trí mặt sinh học
trong con người cũng khơng tồn tại bên cạnh mà tồn tại ngay trong con người xã
hội, khó có thể phân biệt đâu là mặt sinh học, đâu là mặt xã hội, chỉ có trong nhận
thức chúng ta mới tách chúng ra được mà thôi. Đặc điểm sinh học của con người
chính là ở chỗ con người đã được chuẩn bị về mặt di truyền học để tiếp thu hình
thái xã hội của sự vận động vật chất, đặc biệt là cấu tạo bộ óc. Con người, ngồi sự
di truyền cịn có sự kế thừa xã hội, bằng con đường giáo dục, chương trình này
truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ trước cho thế hệ sau. Mặc dù chương trình
kế thừa về mặt xã hội khơng được ghi lại trong các gien di truyền, nhưng nó vẫn
biểu hiện như nguyên nhân bên trong của sự phát triển cá nhân nhưng nó khơng
thực hiện một cách tự động tách rời với di truyền nhận được từ cha mẹ. Những đặc
điểm di truyền của từng người vừa bảo đảm những thuộc tính sinh học của mình,
vừa bảo đảm để con người tiếp thu chương trình xã hội.
9

C.Mác và Ăngghen, Sđd, Tập 3, tr.11.


11

Lê nin có nhận xét trong xã hội có đứa bé lọt lòng đã bú ngay phải cái tâm
lý tư hữu từ dịng sữa mẹ. Như thế khơng phải cái tâm lý đó đã được truyền lại
bằng con đường di truyền sinh học mà là bằng con đường kế thừa xã hội. Bởi vì
những điều kiện mơi trường lặp lại trong hàng loạt thế hệ đã ảnh hưởng đến việc
con người tiếp thu những hành vi xã hội nhất định nào đó. Lịch sử lồi người đã
diễn ra bên cạnh sự tiến hoá di truyền. Nhưng sự tiến hoá này chậm chạp vơ
chừng nếu so với sự tiến hố xã hội. Quyết định sự tiến bộ của lồi người khơng
phải là nguyên nhân sinh học mà là nguyên nhân xã hội, là sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của các cuộc cách mạng xã hội. Chương trình di truyền chỉ là cơ

sở, là khả năng cho sự phát triển năng lực và phẩm chất con người. Chỉ có bằng
con đường rèn luyện giáo dục làm cho mọi người có điều kiện tiếp thu tất cả
những thành tựu của nền văn hoá vật chất và tinh thần đã được gắn chặt trong
chương trình xã hội mới có thể tạo ra những năng lực và phẩm chất tốt đẹp của
con người.
Song như thế khơng có nghĩa chủ nghĩa Mác-Lênin xem nhẹ tính sinh học
của con người, bỏ qua việc tiếp thu những thành tựu của sinh học và di truyền
học. Khi nghiên cứu những hành vi của những người cụ thể thì khơng chỉ xét đến
những điều kiện xã hội, mà còn phải xét đến cả những điều kiện sinh học (và
điều kiện tự nhiên nói chung). Nói một cách khác, phải xem xét cả những mầm
mống tự nhiên của con người mà bằng cách này hay cách khác đã ảnh hưởng ít
nhiều đến sự phát triển năng lực người. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin
chưa bao giờ nói rằng mọi người đều có năng lực ngang nhau. Quan niệm bình
đẳng của Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự bình đẳng xã hội chứ khơng phải là sự bình
đẳng về mặt sinh học, bình đẳng về năng lực. Bởi thế nên "hành vi" của các dân
tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội được quy định về mặt xã hội thì trong sự
quy định hành vi của từng con người cụ thể cần phải tính đến sự tác động qua lại
hết sức phức tạp giữa mặt xã hội và mặt sinh vật.


12

Như vậy, tương ứng với luận điểm mà Mác nêu ra về bản chất của con
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, thì con người chính là một thực thể xã
hội. Cùng với điều đó cũng cần phải khẳng định rằng con người là một bộ phận
của tự nhiên, là một thực thể sinh học, tổ chức sinh học của thực thể người là
một cái gì đó có giá trị tự thân. Việc nhìn nhận, đánh giá con người trong mối
quan hệ biện chứng giữa các yếu tố sinh học và yếu tố xã hội là phương pháp
luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.

Mặt khác, quan niệm của triết học Mác Lênin khi xem xét bản thân con người từ
các quan hệ xã hội không phải đơn giản, thơ thiển của một phép tính cộng các
quan hệ xã hội hoặc chỉ tính đến quan hệ giai cấp, quan hệ chính trị. Theo quan
điểm duy vật lịch sử, quan hệ sản xuất là cơ sở của các quan hệ xã hội khác,
nhưng các quan hệ xã hội khác có tính độc lập tương đối. Bản thân quan hệ sản
xuất là quan hệ của con người trong quá trình sản xuất.
Các quan hệ xã hội quy định bản chất của con người được triết học MácLênin xem xét không tách rời, cô lập với quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Hơn nữa, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi phải xem xét các
quan hệ xã hội cấu thành bản chất con người trong sự liên hệ "tổng hồ" giữa
chúng. Mặt khác, khơng chỉ là tổng hoà của các quan hệ kinh tế với chính trị và
văn hố, đạo đức và pháp quyền... mà còn phải xem xét mặt vật chất và tinh
thần, mặt không gian và thời gian của các quan hệ xã hội. Trong sự tổng hoà này,
đặc biệt cần thấy rõ sự thống nhất chung toàn nhân loại với cái đặc thù giai cấp
và dân tộc trong cái riêng của mỗi cá nhân con người. Ở đây, cái riêng chỉ tồn tại
trong mối quan hệ với cái chung, những cái chung chỉ là "một bộ phận, một khía
cạnh hay một bản chất" của cái riêng. Sự xem thường cái cá nhân, cái nhân loại
trong việc giải quyết những vấn đề chính trị xã hội là biểu hiện xa lạ với quan
điểm Mác xít. Mặt khác, cũng cần phải phê phán, thổi phồng cái chung toàn


13

nhân loại, hạ thấp đặc thù của cái giai cấp, dân tộc... nếu quan niệm trừu tượng
về con người là một hạn chế của các học thuyết triết học trước Mác thì ngày nay
việc thổi phồng tính chung nhân loại của con người thường lại là cách che đậy
tính giai cấp của các quan điểm chính trị, phản động nhất định.
Như vậy, Mác, Ăngghen, Lênin đã tạo ra bước ngoặt cách mạng trong
nhận thức và quan niệm về vấn đề con người - một vấn đề, một hiện tượng phức
tạp nhất trong lịch sử. Không chỉ dừng lại ở sự phân tích khoa học về bản chất
con người mà chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét con người trong sự thống nhất giữa

bản chất và tồn tại, giữa lý luận và thực tiễn. Cơng lao bất hủ của các ơng chính
là ở chỗ đã làm cho người ta thấy "sự phù hợp giữa sự biến đổi của hoàn cảnh và
hoạt động của con người, chỉ có thể xét và hiểu một cách hợp lý như là thực tiễn
cách mạng"10.
Cần phải coi lịch sử như một quá trình tự sinh của con người, do con
người thực hiện quá trình cải tạo thế giới. Đối với triết học Mác-Lênin, quá trình
xây dựng và phát triển của con người là sự tác động của điều kiện khách quan,
thống nhất với quá trình tự biến đổi, phát triển của con người. Q trình đó được
thực hiện trong tiến trình hoạt động của chính con người.
Thực tiễn phát triển lịch sử của nhân loại đã chứng minh tính đúng đắn của
những tư tưởng, quan niệm đó của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Lịch sử xã hội
loài người đã trải qua nhiều nấc thang phát triển khác nhau, nhiều chế độ xã hội có
trình độ khác nhau, ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự phát
triển của lịch sử xã hội là xã hội với những con người tương ứng. Những con người
ấy vừa là sản phẩm của xã hội, vừa là chủ thể cải tạo xã hội. Xã hội càng phát triển
thì càng tạo ra những con người phát triển cả về năng lực, trình độ, thể chất.... Đồng
thời những con người ấy lại chính là chủ thể để cải biến xã hội.

10

C.Mác và Ăngghen, Sđd, Tập 2, tr.493


14

Những tư tưởng của triết học Mác – Lênin về con người tuy đã ra đời cách
đây hơn 150 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Lần
đầu tiên trong lịch sử, triết học Mác Lênin đã đưa lại cho chúng ta một phương
pháp luận đúng đắn, thế giới quan khoa học cách mạng trên cơ sở của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong xem xét và nhận thức về

con người một cách khoa học, đồng thời các nhà kinh điển đã đặt ra vấn đề phải
giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội thốt khỏi mọi bất
cơng trong xã hội. Những tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn trong tiến trình phát triển
của nhân loại đấu tranh cho mục tiêu cao cả, những tiến bộ xã hội trong thế kỷ
XX vừa qua và càng có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Tiếp cận với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ phương pháp luận về vấn đề con
người, trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lĩnh hội và vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, xây dựng nên hệ
thống những quan điểm, tư tưởng, nội dung các vấn đề về con người một cách
sâu sắc. Hồ Chí Minh ln coi các vấn đề của con người, bản chất con người, sự
nghiệp trồng người là mục tiêu, là quan tâm thường trực, là trách nhiệm vẻ vang
trong cuộc đời hoạt động của mình. Từ lá thư đầu tiên gửi Cụ Phan Chu Trinh
năm 1913 đến lời di chúc cuối cùng, vấn đề tha thiết nhất mà Hồ Chí Minh
thường đề cập là các vấn đề thuộc về con người. Mong muốn cháy bỏng trong
suốt cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm sao cho dân ta, những
người cùng khổ, trẻ em, thanh niên, phụ nữ, những người già cả đều vui vẻ, khoẻ
mạnh, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và sống trong hồ
bình, trong tình hữu nghị, tình u thương và niềm hạnh phúc.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa
là động lực phát triển của lịch sử. Con người sinh ra trong xã hội, do đó các hồn
cảnh xã hội làm nảy sinh trong con người cả cái thiện và cái ác. Vì lẽ đó, khi
kiến tạo một xã hội mới, theo quan niệm của Hồ Chí Minh trước hết phải tích


15

cực, chủ động xây dựng những con người, những nhân cách cho xã hội đó. Xã
hội nào cũng có những con người đại diện cho nó. Xã hội phong kiến ở Việt
Nam, có những nhân cách kẻ sỹ, bậc trượng phu, người quân tử làm nòng cốt
xây dựng xã hội ấy. Xã hội tư sản đã coi các thương gia, nhân sỹ, các nhà tư bản

là nòng cốt xây dựng xã hội đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu phấn đấu
trong cuộc cách mạng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội, vì vậy “muốn có chủ
nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Con người xã hội chủ nghĩa vừa là sản phẩm sinh thành của quá trình phát
triển xã hội mới, vừa là kết quả của hoạt động lao động sản xuất tích cực. Con
người xã hội chủ nghĩa là những con người có phẩm chất rất mới mà xã hội cũ
khơng có. Con người xã hội chủ nghĩa khác với nhân cách của kẻ sỹ, thương gia,
trượng phu, quân tử, nhà tư bản. Đó là những con người được hình thành khơng
chỉ gắn với tiến trình cách mạng của nhân dân mà nó cịn phải đại diện cho các
giá trị đạo đức mới, lý tưởng của xã hội mới. Đó là những con người kiên quyết
chống áp bức và bóc lột, coi lao động là nguồn sống, là trách nhiệm, là vinh dự,
là nguồn tạo ra hạnh phúc. Đó là những con người có tình u sâu sắc với đồng
loại, yêu những người lao động nghèo khổ trên thế giới. Nhân tố cơ bản tạo
thành tính cách của những con người như vậy là tính cách mạng của nó. Cong
người vừa có đạo đức trong sạch, vừa có lý tưởng tiên tiến.
Những quan điểm, tư tưởng trên đây và những lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta
phải hết sức tránh", "Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
phải trồng người", "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người
mới xã hội chủ nghĩa" đã trở thành những tư tưởng xuyên xuốt toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của Đảng ta trong thế kỷ XX, trong những năm đầu và những năm
tiếp theo của thế kỷ XXI.


16

Thực tế chứng minh rằng, những tư tưởng vĩ đại về con người của các nhà
kinh điển, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Con người và nhân tố con người đã trở thành mục
tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, và “chiến lược con người” được

Đảng và Nhà nước ta xác định trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước, trong hệ thống các chính sách xã hội là phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh nước ta. Mỗi con người Việt Nam sẽ tự vươn lên và khẳng đinh đúng diện
mạo của mình trong đời sống xã hội.
Trước đây, trong một thời gian dài do nhận thức không đúng và thực hiện
khơng có hiệu quả trên phương diện lý luận cũng như trong thực hiện chính sách
xã hội cho nên không phát huy hết được mọi tiềm năng, trí sáng tạo của con
người Việt Nam, coi lợi ích của tập thể là cái cao cả, cái tốt đẹp và hồn thiện
nhất, vì vậy, mà lợi ích của cá nhân, của người lao động bị xem nhẹ, thậm trí cho
rằng quan tâm đến lợi ích cá thể là tính xấu, là cái mà cần phải lên án.... Đặc biệt
là trong thời gian dài của chế độ bao cấp thì đã có lúc lợi ích riêng của cá nhân bị
xem nhẹ, khơng được khuyến khích phát triển. Như vậy đã làm triệt tiêu động
lực của sự phát triển, làm lu mờ, cũng như không phát huy được tài năng của mỗi
cá nhân và con người trong sự phát triển kinh tế – xã hội, đánh đồng giữa lợi ích
của nhân tố con người với các nhân tố khác, nói cách khác chỉ thấy con người
như một phương tiện của sự phát triển kinh tế – xã hội.
Các Mác và Ăngghen đã dùng khái niệm con người không phải với tư cách
là một phạm trù độc lập, mà những di sản của các ơng để lại chính là phương pháp
luận nghiên cứu con người một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát
triển. Nghiên cứu nhân tố con người dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chúng ta phải thấy được
con người vừa có tính chủ thể, vừa có tính khách thể, phải thấy được hoạt động
của con người vừa có tính chủ thể, vừa có tính khách thể, hoạt động ấy được gắn


17

chặt với các hoạt động xã hội khác. Vì thế nhân tố con người phải được xác định
là nhân tố trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội. Có như vậy thì mới khai
thác tối đa tinh thần và tài trí của con người, vì con người và do con người.

Ngày nay, trước sự nghiệp công nghiệp hoá, hện đại hoá đất nước nhằm
phát triển lực lượng sản xuất thì yếu tố con người vẫn ln ln là yếu tố quyết
định. Những tư tưởng, quan niệm về con người của Chủ nghĩa Mác Lê nin, của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhận thức lại ngày càng đúng đắn hơn, rõ ràng
hơn. Việc nhận thức đúng đã đặt cơ sở khoa học vững chắc cho sự lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, trong đó nhân
tố con người phải vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, của sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định “Trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững”11. Trong nhận thức và hành động, Đảng và
Nhà nước ta đã có những chủ trương, những chính sách xã hội hợp lý, đặc biệt
chú trọng và coi nhân tố con người là trung tâm cho sự phát triển, coi trọng lợi
ích của cá nhân cũng như của mọi thành viên trong xã hội, giải quyết hài hịa
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng trong mối quan hệ biện chứng thống nhất.
Chúng ta nhận thức rằng: phát triển nguồn lực con người không chỉ tạo ra động
lực của sự phát triển mà còn là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đến năm
2020 là đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghệp theo hướng hiện đại;
nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; dân giàu, nước mạnh, xã hội

11

Tìm hiểu văn kiện Đại hội VIII của Đảng, NXBCTQG, HN.1996. tr.41.


18


công bằng, dân chủ, văn minh; vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng
được nâng cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay được tiến hành trong
bối cảnh thời đại đã có những thay đổi lớn, nằm trong không gian và thời gian
phát sinh những tác động chủ yếu của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ ba –
một cuộc cách mạng mà động lực chủ yếu của nó là sức sáng tạo và trí tuệ của
người lao động, do vậy vấn đề con người càng có tầm quan trọng chiến lược đặc
biệt. Ngồi ra, trong quá trình phát triển, cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề nội
lực. Nếu không xuất phát từ nội lực thì khơng thể có phát triển bền vững. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương VII/Khóa VII đã khẳng định: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Văn kiện Đại hội VIII cũng đã xác định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”12.
Tổng hợp những quan điểm, tư tưởng của Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và những nội dung cơ bản từ những văn kiện, nghị quyết, chủ
trương chiến lược của Đảng, có thể khái quát phương pháp luận trong việc phát
huy tốt nguồn lực con người trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
phải chú ý đến những vấn đề cơ bản sau:
Một là: Cần phải từng bước hồn chỉnh chính sách xã hội nhằm phát
huy mọi phẩm chất, tài năng và trí tuệ con người.
Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, của con người và vì
con người. Chính sách xã hội phải hướng đến mục đích nâng cao phúc lợi cho
nhân dân, tạo điều kiện để giải phóng mọi năng lực của con người, đặt con người
ở vị trí trung tâm của thời đại, không ngừng cải thiện đời sống của con người.

12

Đảng CS Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, NXB CTQG, H. 2001.tr.114.



19

Sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước phải được đặt trong mối
quan hệ với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển nhân cách, trí lực, thể lực,
tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cộng đồng dân
tộc Việt Nam. Việc khơng ngừng gia tăng tính tự giác, năng lực, làm tăng sáng
tạo của mỗi người, việc phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân kết hợp
với sức mạnh tập thể lao động của cả cộng đồng dân tộc trên một cơ sở nền tảng
tinh thần vững chắc phải được coi là định hướng chiến lược cho việc phát huy,
bồi dưỡng nhân tố con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Phát triển kinh tế – xã hội phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, các doanh nghiệp và từng cá nhân
phát huy mọi tiềm năng sẵn có của mình. Giải quyết việc làm, khuyến khích các
ngành nghề truyền thống, tự do hành nghề, phát triển dịch vụ việc làm, khuyến
khích làm giàu hợp pháp, gắn chặt với việc xóa đói giảm nghèo, chú ý đến đời
sống của nhân dân ở vùng xâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, thành lập các
quỹ từ thiện, nhân đạo, xây dựng các phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Lá lành
đùm lá rách”... sâu rộng trong các tầng lớp dân cư.
Hai là: Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, làm cho giáo
dục và đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu nhằm mục đích để nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi để phát triển con người, quyết định đến việc
tạo ra nguồn nhân lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thơng qua giáo dục đào tạo, chúng ta sẽ tạo ra được một thế hệ người Việt Nam
có thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, có đủ tri thức và năng lực
để tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. "Chỉ có thể tăng
trưởng nguồn lực con người khi quá trình hiện đại hố các ngành giáo dục, văn



20

hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hố gia đình, gắn liền với
việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc"13.
Trong những năm vừa qua, do nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khuyến khích mọi người dân học tập
nhằm nâng cao trình độ mọi mặt, trên cơ sở đổi mới hệ thống giáo dục, tổ chức
biên soạn hệ thống giáo trình, giáo khoa, xây dựng lại trường lớp, phổ cập giáo
dục, xây dựng những khu công nghệ và ứng dụng những thành tựu khoa học tiên
tiến trên thế giới với mục tiêu mọi người dân ở mọi lứa tuổi khác nhau đều được
đến trường học tập. Mặc dù vậy, giáo dục đào tạo cũng còn nhiều vấn đề bất cập,
như: việc thống nhất nội dung chương trình đào tạo ở các nhà trường trong cả
nước, trình độ quản lý giáo dục đào tạo cịn nhiều thiếu sót, cơ cấu đào tạo chưa
hợp lý, những vấn đề về thi cử, tuyển chọn, vấn đề đào tạo chưa gắn với sử dụng
nên chưa khai thác hết trí tuệ của con người đã đựơc đào tạo ...
Để giải quyết tốt vấn đề con người, Đảng và Nhà nước phải coi trọng hơn
nữa và đầu tư cho giáo dục một cách thỏa đáng. Mục tiêu của giáo dục đào tạo
trong giai đoạn hiện nay là: nhanh chóng đào tạo lớp người lao động có kiến thức
cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm
với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học công nghệ, xây dựng đội ngũ công
nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hố, nhà kinh doanh,
nhà quản lý có đủ đức, tài. Mơ hình con người Việt Nam cần hướng tới, như văn
kiện Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ là con người “phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng,
làng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình có lối sống văn hố, quan hệ hài
hồ trong gia đình, cộng đồng và xã hội”. Để thực hiện tốt mục tiêu, mơ hình đó,
cần phải đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và
13


Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, NXB CTQG, HN, 1996, tr.5,6.


21

học tập; gắn chặt hơn nữa với mục tiêu kinh tế, xã hội, trên cơ sở công nghệ hiện
đại kết hợp chặt chẽ với công nghệ truyền thống được nâng cao; tăng cường hơn
nữa học với hành, học chữ với học nghề, nhà trường với gia đình và xã hội; huy
động các lực lượng xã hội và thông tin đại chúng tham gia kế hoạch giáo dục
thường xuyên, giáo dục liên tục, giáo dục suốt đời, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy: “Học hành là vơ cùng, học càng nhiều, biết càng nhiều càng tốt”14.
Ba là: Thực hiện tốt dân chủ hóa đời sống xã hội, thường xuyên đổi
mới và hoàn chỉnh cơ chế quản lý của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Con người chỉ có thể phát triển tồn diện trong một mơi trường dân chủ
thực sự. Ở đó, con người được bảo đảm đầy đủ các quyền lợi về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội.... Dân chủ hóa xã hội sẽ tạo ra một tâm trạng xã hội năng
động, kích thích con người vươn tới các tầm cao, đồng thời góp phần tích cực
vào việc khắc phục những hiện tượng xâm phạm quyền con người.
Dân chủ hóa xã hội chỉ được bảo đảm khi thực hiện tốt một trong những
giải pháp là xây dựng, đổi mới công tác quản lý của nhà nước theo hướng phát
huy tốt quyền làm chủ của nhân dân.
Phải luôn bảo đảm cho công tác quản lý của Nhà nước thực sự là của nhân
dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đổi mới phương thức hoạt động của
các thành tố trong hệ thống chính trị xã hội, đặc biệt là việc xây dựng Nhà nước
thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân bằng các cơng cụ quản lý, các
thiết chế, các tổ chức quản lý có tác dụng to lớn trong việc phát huy dân chủ xã
hội hướng đến nhân tố con người. Cơ chế quản lý của Nhà nước là con đường,
cách thức để con người vừa phát huy tốt vai trò làm chủ xã hội, tham gia tích cực
vào các hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động xã hội, vì vậy nhân tố con người

càng được phát huy tốt hơn. Đồng thời phải thực hiện tốt việc củng cố, xây dựng
14

Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN. T.5, tr.309.


22

đội ngũ cán bộ, tinh giản bộ máy theo hướng tinh gọn, kiện tồn hệ thống pháp
chế bảo đảm tính công bằng, nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bốn là: Kế thừa và phát huy những giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ,
bồi dưỡng truyền thống đấu tranh của dân tộc Việt Nam, xây dựng và giữ gìn
bản sắc dân tộc Việt Nam.
Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, là "nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất của phát triển", "văn hoá thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội,
vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư,
vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người" 15. Để phát triển con người, tạo
nguồn nhân lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiệ đại hố đất nước, chúng ta
khơng thể khơng phát huy những giá trị đạo đức, tinh thần của văn hoá dân tộc,
kế thừa để xây dựng những “nhân cách văn hóa”. Đồng thời, cũng cần phải coi
trọng đặc biệt đến việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Bởi vì, đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho sự phát triển lâu bền, sự phát
triển văn hoá và con người là sự phát triển song hành, văn hoá đảm bảo cho sự
phát triển hài hoà tất cả các mặt trong quy định bản chất con người.
Thực hiện tốt vấn đề này tức là sẽ xây dựng được những con người xã hội
chủ nghĩa có đạo đức, tâm hồn trong sáng, có tình cảm và lối sống lành mạnh, có
nhân cách văn hóa đúng với bản sắc, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam,
không lai căng, không chạy theo lối sống thực dụng, đấu tranh chống sự thâm
nhập của các loại văn hóa độc hại, chống tư tưởng kích động thù địch, mất gốc;
khuynh hướng sùng ngoại, bất chấp đạo lý, xâm hại đến thuần phong, mỹ tục và

những giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Xây dựng, phát triển, bảo tồn những giá trị truyền thống, kế thừa chọn lọc
những tinh hoa văn hóa của nhân loại phải theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cần phải xây dựng xã hội ta thành một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập
15

Văn kiện Hội nghị BCHTW lần 3, khoá VIII, NXB CTQG, HN, 1998, tr.34,35.


23

quan hệ xã hội thực sự tốt đẹp và tiến bộ giữa người với người trong sản xuất và
trong đời sống xã hội, trên cơ sở đó tăng nhanh hiệu quả kinh tế - xã hội.
Năm là: Tập trung mọi nỗ lực để xây dựng những con người mới xã hội
chủ nghĩa.
Phát triển con người cũng là quá trình xây dựng và hoàn thiện nhân cách
của những con người mới xã hội chủ nghĩa. Đó chính là q trình tạo ra những
con người giác ngộ xã hội chủ nghĩa sâu sắc, có lập trường tư tưởng vững vàng,
có kiến thức sâu, rộng về chuyên môn nghiệp vụ, là con người có tinh thần và
năng lực làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và bản thân, là những con người lao
động mới, lao động có kỷ luật, năng suất, kỹ thuật và văn hố. Kết hợp hài hồ
sự phát triển phong phú về tinh thần, trong sạch về đạo đức, thể lực tốt, có tinh
thần yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế của giai cấp công nhân.
Những con người mới trong giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước phải là những con người không ngừng phát huy tính tích cực cá nhân, biết
làm chủ tri thức khoa học và cơng nghệ hiện đại, biết giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hố dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại, có tư duy
sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong cơng nghiệp, có tính tổ chức
và kỷ luật, có sức khoẻ, đủ sức gánh vác cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói đây là những nét nổi trội mà con người Việt Nam hiện nay cần có so

với các giai đoạn trước đây. Nó phản ánh nét đặc thù của q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Xây dựng những con người xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần phải đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng
và không ngừng phát triển cho thế hệ trẻ. "Để bồi dưỡng và phát triển nhân tố
con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá
đất nước và đời sống xã hội".


24

Phương pháp luận về vấn đề phát huy nguồn nhân lực con người
khơng chỉ có giá trị đặc biệt trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước nói chung mà cịn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, xây dựng quân đội.
Trong xây dựng và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, yếu tố con người là yếu
tố cơ bản, then chốt, quyết định đến việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng,
xây dựng tiềm lực quốc phòng. Việc chăm lo, phát triển nguồn lực con người trong
hoạt động quân sự có ý nghĩa đặc biệt, bởi vì nhân tố con người quyết định sự
trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta trong suốt những năm
kháng chiến và xây dựng quân đội trong giai đoạn hiện nay và tiếp theo.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động đang tìm mọi cách để thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” hòng chống
phá ta trên tất cả các lĩnh vực, nhất là chống phá ta về vấn đề con người. Bên
cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ thường
xuyên tác động đến con người trong hoạt động quân sự. Vì thế, mọi cán bộ,
chiến sỹ phải không ngừng nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
thắng lợi, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống hạnh
phúc của nhân dân lao động. Cần luôn luôn thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Trong bầu trời, khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng

có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”. “Trong xã hội khơng có gì
tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”16.
Do tính chất và nhiệm vụ của hoạt động quân sự rất phức tạp và khó khăn.
Người chiến sỹ phải hoạt động trên một điạ bàn trải rộng ở khắp cả nước, biên
giới và hải đảo, kể cả những vùng xa xôi và hẻo lánh. Để đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó thì mục tiêu cơ bản trong việc xây
dựng Quân đội hiện nay là phải chăm lo, phát huy nguồn lực con người, xây
16

Hồ Chí Minh, toàn tập, NXBST, H.1987. Tập 7. tr.544.


25

dựng được những qn nhân có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, tin tưởng vào thắng lợi của chế độ xã
hội chủ nghĩa. Giáo dục, bồi dưỡng được những quân nhân “vừa hồng thắm, vừa
chuyên sâu”, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, tham gia tích cực vào việc xây dựng kinh
tế, phát triển đất nước.
Vận dụng phương pháp luận triết học Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
vào việc xây dựng nhân tố con người trong quân đội giai đoạn hiện nay, cần phải
thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần luôn nhất quán nhận thức ở lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy các
cấp về vấn đề con người, xây dựng nhân tố con người là yếu tố quyết định sự
trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội, nên tập trung mọi nguồn
lực vào việc xây dựng con người, tổ chức trong quân đội vững mạnh. Thứ hai,
coi trọng giáo dục đào tạo, huấn luyện, đào luyện nên những quân nhân có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ quân sự giỏi phù
hợp với từng chuyên môn, chuyên ngành đáp ứng tốt với yêu cầu xây dựng quân

đội. Thứ ba, phải có hệ thống các chính sách đúng đắn đối với việc nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của quân nhân, quan tâm giải quyết tốt chính sách hậu
phương quân đội. Thứ tư, Chăm lo phát triển văn hoá quân nhân, làm cho văn
hoá thấm sâu vào tinh thần của quân nhân, văn hoá sẽ làm thức tỉnh những yếu tố
tích cực, những yếu tố chân, thiện, mỹ trong phẩm chất, năng lực của quân nhân.
Thứ năm, quan tâm, xây dựng những con người mới trong quân đội, những quân
nhân phát triển toàn diện, về mọi mặt, họ phải là những điển hình trên các mặt
giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, chiến đấu, công tác, tham gia lao động
xây dựng kinh tế....
Từ nghiên cứu vấn đề con người - bước ngoặt cách mạng của triết học
Mác Lênin. Ý nghĩa phương pháp luận đối với việc phát huy nhân tố con


×