Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sự vận dụng mối quan hệ giữa vật chất ý thức của đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.68 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................02
NỘI DUNG...................................................................................................03
Phần 1: Lý luận chung về vật chất và ý thức...........................................03
I. Vật chất..............................................................................................04
1.1. Định nghĩa vật chất
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
II. Ý thức...............................................................................................07
2.1. Kết cấu của ý thức
2.2. Nguồn gốc của ý thức
2.3. Bản chất của ý thức
III. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức............................................10
3.1. Vật chất quyết định ý thức
3.2. Vật chất quyết định hình thức biểu hiện, mọi sự biến đổi của ý thức
3.3. Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Phần 2: Sự vận dụng mối quan hệ giữa vật chất - ý thức trong quá trình
đổi mới đất nước ..................................................................................................16
Kết luận.....................................................................................................25


LỜI NÓI ĐẦU
Từ thực tiễn thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc
nhất là những thành tựu có ý nghĩa lịch sử to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước,
nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vận dụng sáng tạo và thành công chủ nghĩa Mác
- Lênin, một lần nữa cho thấy con đường mà Đảng ta đã chọn là: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường chủ nghĩa xã hội trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Những thành tựu trong công cuộc
đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lực mới để nước ta bước vào một
thời kì phát triển mới.


Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc cơng nghiệp hố và hiện đại hoá đã được tạo ra,
quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng. Khả năng giữ
vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng thêm. Cách mạng khoa
học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội.
Tuy nhiên, do ưu thế công nghệ và thị trường thuộc về các nước phát triển
khiến cho các nuớc chưa phát triển đứng trước một thách thức to lớn, nguy cơ tụt hậu
ngày càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh
tranh quyết liệt. Trước tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và
Nhà nước tiếp tục tiến hành đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước về mọi
mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...đặc biệt từ năm 1986 đến nay. Khi đi tìm hiểu
sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình đổi mới đất nước, ta thấy Đảng đã
vận dụng sáng tạo, thành công mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào
cuộc đổi mới trong việc đề ra các đường lối, chính sách đổi mới giúp cho đất nước
ngày càng giàu mạnh. Tơi nhận thấy đề tài có ý nghĩa to lớn ấy đó là mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức. Sự vận dụng mối quan hệ này của Đảng ta vào quá trình
đổi mới.


PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
I. Vật chất
1.1. Định nghĩa vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo Lênin định nghĩa: “vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thơng thường vì
khái niệm vật chất là khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật
chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong

cảm giác, vật chất tồn tại độc lập với cảm giác, ý thức; còn cảm giác, ý thức phụ thuộc
vào vật chất, phản ánh khách quan.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học, Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật
chất là khái niệm rộng nhất, muốn phân biệt với tư cách là phạm tù triết học, là kết quả
của sự khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ thể, với những “hạt nhân
cảm tính”. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có những đặc tính cụ
thể có thể cảm thụ được. Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan
niệm siêu hình của chủ nghĩa duy tâm và đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ
thể của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có, khơng thể tiêu diệt được, nó tồn tại bên
ngồi và khơng lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người; vật chất là một thực tại khách
quan. Khác với quan niệm tuyệt đối của CNDT: vật chất là sản phẩm của tinh thần (ý
thức), "thượng để" của tôn giáo... Vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn
tại lơ lửng ở đâu đó, trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật, hiện
tượng cụ thể, và do đó các đối tượng vật chất có thật, hiện thực đó có khả năng tác
động vào giác quan để gây ra cảm giác, và nhờ đó mà ta có thể biết được, hiểu được và
nắm bắt sự vật này. Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác là một mặt muốn nhấn mạnh tính thứ
nhất của vật chất: “tồn tại khách quan"; vai trị quyết định của nó với vật chất, và mặt
khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người. Nó đã giúp ta
phân biệt CNDV với CNDT một cách rõ ràng nhất.


Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hồn tồn triệt để,
nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, có ý nghĩa trực
tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào các dạng
cụ thể của vật chất trong giới vi mơ. Nó giúp chúng ta có thái độ khách quan trong suy
nghĩ và hành động.
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật

chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là sự biến quan
đổi nói chung chứ không phải là sự chuyển dịch trong không gian. Ăngghen cho rằng
vận động là một phương thức tồn tại vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, gồm
tất cả mọi sự thay đổi trong moi quá trình diễn ra trong vũ trụ.Vận động có 5 hình thức
vận động chính từ thấp lên cao là cơ - hố - lý - sinh - xã hội. Các hình thức vận động
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, một hình thức vận động này được thực hiện là
tác động qua lại với những hình thức vận động khác.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng, khơng thể có vật chất
khơng vận động, tức vật chất tồn tại. Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn
tại của mình. Ăngghen nhận định rằng các hình thức và các dạng khác nhau của vật
chất, chỉ có thể nhận thức được thơng qua vận động mới có thể thấy được thuộc tính
của nó từ các hạt cơ bản trong vi mô đến trong hệ thống hành tinh khổng lồ. Bất cứ
một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm những bộ
phận nhân tố khác nhau, cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động lẫn nhau gây ra nhiều
biến đổi. Nguồn gốc vận động do những nguyên nhân bên trong, vận động vật chất là
tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, khơng thể có vận động bên ngồi
vật chất. Nó khơng do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được, do đó nó được bảo
tồn cả số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận
động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nó nảy sinh một hình thức vận động khác
thay thế. Các hình thức vận động chyển hố lẫn nhau cịn vận động của vật chất thì
vĩnh viễn tồn tại.
Mặc dù vận động ln ở trong q trình khơng ngừng, nhưng điều đó khơng
loại trừ mà cịn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối, khơng có nó thì khơng có
sự phân hố thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng.
Angghen khẳng định rằng khả năng đứng im tượng đối của các vật thể, khả năng cân


bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá vật chất. Nếu vận động là

biến đổi của các sự vật hiện tượng thì đứng im là sự ổn định, là sự bảo tồn tính quy
định sự vật hiện tượng. Đứng im chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động, vận động
trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Trạng thái đứng im còn được biểu hiện
như là một quá trình vận động trong phạm vi sự vật ổn định, chưa biến đổi, chỉ là tạm
thời vì nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản
về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
*Khơng gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
- Khơng gian là hình thức tồn tại cơ bản của vật chất về mặt quảng tính. Khơng
gian ln có 3 chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao).
- Thời gian là hình thức tổn tại cơ bản của vật chất về mặt trường tính. Thời
gian chỉ có một chiều (từ q khứ đến tương lai).
Khơng gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình
thức kết cấu, có độ dài ngắn, cao thấp. Khơng gian biểu hiện sự tồn tại và tách biệt của
các sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng, cịn thời gian phản
ánh thuộc tính của các q trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo
một trình tự nhất định. Thời gian biểu hiện trình độ tốc độ của q trình vật chất, tính
tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi
của các sự vật hiện tượng.
Lênin đã chỉ ra trong thế giới không có gì ngồi vật chất đang vận động. Khơng
gian và thời gian khơng tách rời nhau, khơng có vật chất tồn tại ngồi khơng gian và
thời gian. Ngược lại cũng khơng có khơng gian và thời gian tồn tại ngồi vật chất vận
động.
1.3. Tính Thống nhất vật chất của thế giới
* Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Theo nghĩa chung nhất, tồn tại là phạm trù dùng để chỉ tính có thực của thế giới
xung quanh con người. Khẳng định sự tồn tại là gạt bỏ những nghi ngờ về tính khơng
thực, sự hư vô, tức là gạt bỏ sự “không tồn tại”.
Sự tồn tại của thế giới là hết sức phong phú về dạng, loại. Có tồn tại vật chất và
tồn tại tinh thần. Có tồn tại khách quan và tồn tại chủ quan. Có tồn tại của tự nhiên và

tồn tại của xã hội... Nhưng quy luật phát triển của lịch sử tư tưởng triết học vừa cho
phép lại vừa địi hỏi con người khơng thể dừng lại ở việc khẳng định hay phủ định tồn
tại nói chung, mà phải đi đến quan niệm về bản chất của tồn tại. Theo đó, hình thành


hai trường phái đối lập nhau trong việc giải quyết vấn đề này. Chủ nghĩa duy vật hiểu
sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất của nó là vật chất. Trái lại, các
nhà triết học duy tâm khẳng định chỉ có thế giới tinh thần mới tồn tại nên bản chất của
tồn tại cũng là tinh thần.
Đúng là thế giới quanh ta tồn tại, nhưng hình thức tồn tại của thế giới là hết sức
đa dạng. Vì thế, tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới. Song,
tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Sự khác nhau về nguyên
tắc giữa quan niệm duy vật và quan niệm duy tâm không phải ở việc có thừa nhận hay
khơng thừa nhận tính thống nhất của thế giới, mà là ở chỗ chủ nghĩa duy vật cho rằng,
cơ sở của sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó.
* Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học và khoa học,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thớng nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
- Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất
tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người
phản ánh.
- Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật chất,
cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
- Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó tồn tại vĩnh
viễn, vơ hạn và vơ tận. Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng luôn ln vận động, biến
đổi khơng ngừng và chuyển hố lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của
nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất.
Quan niệm trên đây của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được cuộc sống hiện

thực của con người và toàn bộ sự phát triển của khoa học xác định. Con người khơng
thể bằng ý thức của mình sản sinh ra được các đối tượng vật chất, mà chỉ có thể cải
biến thế giới vật chất trên cơ sở nắm vững những thuộc tính khách quan vốn có của
các dạng vật chất và những quy luật vận động của thế giới vật chất.
II. Ý thức
2.1. Kết cấu của ý thức


Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trưong phái khác
nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là đặc
tính và là sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông
qua lao động và ngôn ngữ. C. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần ý thức là chẳng qua chỉ là
cái vật chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến trong đó.
Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp gồm ý thức tri thức,
tình cảm, ý chí. Trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức,
vì sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người
nhận thức và cải biến giới tự nhiên. Tri thức càng được tích luỹ con người càng đi sâu
vào bản chất của sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là
yếu tố cơ bản quan trọng có ý nghĩa chống quan điểm đơn giản coi ý thức là tình cảm,
niềm tin... Quan điểm đó chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù quáng.
Tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận
coi nhẹ yếu tố vai trò tình cảm ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà chủ nghĩa chủ tâm coi nó là một
thực thể độc lập có sẵn trong cá nhân, biểu hiện xu hướng về bản thân mình, tự khẳng
định cái tôi riêng biệt tách rời xã hội. Trái lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng coi tự ý
thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thơng qua quan hệ với thế giới bên
ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan con người tự phân biệt mình, đối lập mình
với thế giới đó là sự nhận thức mình như là một thực thể vận động, có cảm giác, tư duy
có các hành vi đạo đức và vị trí xã hội. Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực
tiễn xã hội đòi hỏi con người nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh theo các quy tắc

tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra, văn hố cũng đóng vai trị là cái gương soi giúp
cho con người tự ý thức bản thân.
Vô thức là một hiện tượng tâm lý, nhưng có liên quan đến hoạt động xảy ra ở
ngoài phạm vi của ý thức. Có 2 loại vơ thức: loại thứ nhất liên quan đến các hành vi
chưa được con người ý thức, loại thứ hai liên quan đến các đến các hành vi chưa được
con người ý thức, loại thứ hai liên quan đến các hành vi trước kia đã được ý thức
nhưng do lặp lại nên trở thành thói quen, có thể diễn ra tự động bên ngoài sự chỉ đạo
của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con người. Trong
những hồn cảnh đó nó có thể giúp con người giảm bớt sự căng thẳng trong hoạt động.
Việc tăng cường rèn luyện để biến hành vi tích cực thành thói quen có vai trị quan
trọng trong đời sống.


2.2. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc của ý thức bao gồm nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc tự nhiên
Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi
xuất hiện con người và bộ óc. Khoa học chứng minh rằng, thế giới vật chất nói chung
và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người, rằng hoạt
động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh bộ não người.
Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não vì ý thức là chức năng bộ não, bộ não là khí
quản của ý thức. Sự phụ thuộc ý thức vào hoạt động bộ não thể hiện khi bộ não bị tổn
thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên không thể quy một cách đơn giản
ý thức về quá trình sinh lý bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh. Sự xuất hiện của ý thức
gắn liền sự phát triển đặc tính phản ánh, nó phát triển cùng với sự phát triển của tự
nhiên. Sự xuất hiện của xã hội lồi người đưa lại hình thức cao nhất của sự phản ánh,
đó là sự phản ánh ý thức ln gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu
cầu phát triển của xã hội.
* Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền với sự phát triển của bộ óc con người dưới ảnh

hưởng của lao động và giao tiếp quan hệ xã hội. Lao động của con người là nguồn gốc
vật chất có tính xã hội nhằm cải tạo tự nhiên, thỗ mãn nhu cầu và phục vụ mục đích
bản thân con người. Nhờ nó mà con người và xã hội lồi người mới hình thành và phát
triển. Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, đồng thời ngay
từ đầu đã liên kết con người với nhau trong mối quan hệ khách quan, tất yếu; mối quan
hệ này đến lượt nó nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động, nhu
cầu. Và kết quả là ngôn ngữ ra đời.
Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy, với sự xuất hiện của ngơn ngữ,
tư tưởng con người có khả năng biểu hiện thành hiện thực trực tiếp, trở thành tín hiệu
vật chất tác động tới giác quan của con người và gây ra cảm giác. Nhờ có nó mà con
người có thể giao tiếp, trao đổi, truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, thơng qua đó mà ý
thức cá nhân trở thành ý thức xã hội, và ngược lại. Chính nhờ trừu tượng hố và khái
qt hố tức là q trình hình thành thực hiện ý thức, chính nhờ nó mà con người có
thể đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng đồng thời tổng kết hoạt động của mình
trong tồn bộ q trình phát triển lịch sử.
2.3. Bản chất của ý thức


Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản
ánh, sáng tạo và bản tính xã hội. Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thơng tin bên
ngồi, là biểu thị nội dung được từ vật gây tác động và được truyền đi trong q trình
phản ánh. Bản tính của nó quy đinh mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy khách
quan làm tiền đề, bị nó quy định nội dung phản ánh là thế giới khách quan. Ý thức
ngay từ đầu đã gắn liền với lao động, trong hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự
nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu của hoạt động đó.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỡ nó khơng chụp lại một cách thụ động
nguyên xi mà gắn liền với cải biến, q trình thu nhập thơng tin gắn liền với q trình
xử lý thơng tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát
thế giới khách quan ở quá trình chủ động, tác động vào thế giới đó. Phản ánh và sáng
tạo liên quan chặt chẽ với nhau, khơng thể tách rời, khơng có phản ánh thì khơng có

sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở của sáng tạo. Đó là mối quan hệ biện
chứng giữa thu nhận xử lý thông tin, là sự thống nhất mặt khách quan chủ quan của ý
thức.
Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, hoạt động cải tạo thế giới của con
người. Hoạt động đó khơng thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Ý thức
trước hết là nhận thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và những gì đang diễn ra
ở thế giới khách quan về mối liên hệ giữa người và người trong quan hệ xã hội. Do đó
ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội và các quy luật của tồn tại xã
hội đó... Ý thức của mỡi cá nhân mang trong lịng nó ý thức xã hội. Bản tính xã hội
của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh trong sáng tạo. Sự thống nhất đó thể
hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố
ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới quan của con người.
III. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo chủ nghĩa duy tâm: ý thức có trước, vật chất có sau. Họ cho rằng ý thức
quyết định vật chất. Theo chủ nghĩa vật tầm thường:vật chất có trước ý thức có sau.
Do đó vật chất quyết định ý thức nhưng lại không thấy sự tác động trở lại của ý thức
với vật chất. Triết học Mác - Lênin khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức thì vật chất quyết định ý thức và ý thức có tác động trở lại vật chất.
3.1. Vật chất quyết định ý thức
Vật chất là những tiền để, cơ sở nguồn gốc cho sự ra đời tồn tại và phát triển
của ý thức. Vật chất là những tiền đề, cơ sở nguồn gốc cho sự ra đời tồn tại và phát
triển của ý thức. Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. Khi cơ sở vật


chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo. Như vậy vật chất quyết định ý thức là
quyết định cả nội dung, khuynh hướng vận động, phát triển cuả ý thức. Cơ sở vật chất,
điều kiện vật chất hình thành nên các công cụ, phương tiện “nối dài " các giác quan
của con người để nhận thức thế giới.
Cơ sở, điều kiện vật chất mơi trường sống cịn là nơi kiểm nghiệm nhận thức
của con người, xây dựng nhận thức đúng, bác bỏ nhận thức sai. Điều đó chứng tỏ rằng

trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất quyết định ý thức.
-Về mặt sinh học, ý thức là một hoạt động đặc biệt của não bộ con người, thông
qua sự liên kết giữa các noron thần kinh mà có. Các nơron này cũng chỉ là hợp chất
hữu cơ, được cấu thành từ thế giới vật chất.
-Về mặt xã hội, ý thức phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật
chất, nội dung của ý thức là do thế giới vật chất bên ngồi cung cấp.
-Về mặt triết học, thơng qua sự phát triển lâu dài của khoa học về giới tự nhiên
đã chứng minh được rằng ý thức không phải do một thế lực siêu hình nào mà ý thức là
của con người, con người lại là sản phẩm của thế giới vật chất nên ý thức có nguồn
gốc và nội dung từ vật chất.
3.2.Vật chất quyết định hình thức biểu hiện, mọi sự biến đổi của ý thức
Ý thức cơ bản gồm tri thức, tình cảm, ý chí. Dù ý thức có biểu hiện ở khía cạnh
nào thì nó cũng chỉ là sự phản ánh vật chất, hướng tới thế giới vật chất.
Thế giới vật chất còn là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của ý thức. Chẳng
hạn, khi thế giới có sự thay đổi về khí hậu, con người có ý thức hơn trong việc bảo vệ
mơi trường. Khi kinh tế phát triển, tiêu chuẩn sống nâng cao, ý thức cuộc sống cũng
thay đổi, từ quan niệm “ăn no mặc ấm” thành “ăn ngon mặc đẹp”. Khi xã hội chuyển
biến từ chế độ phong kiến sang XHCN, ý thức về quyền con người cũng được thay
đổi.
Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ
cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động của con người vì
nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt
động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần biến thành hiện thực và qua đó
quy định mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình
bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung cụ thể hố mục đích chủ trương biện pháp.
3.3. Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Triết học Mác- Lênin khẳng định ý thức do vật chất sinh ra và quyết định. Song
ý thức có tác động trở lại đối với vật chất: biểu hiện nếu con người nhận thức đúng có
tri thức khoa học, phù hợp với các quy luật khách quan thì ý thức có tác động tích cực



trong việc cải tạo thế giới khách quan. Nếu con người phản ánh không đúng hiện thực
khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì sẽ có tác động tiêu cực đối với hoạt
động thực tiễn, hiện thực khách quan.
Ý thức giúp con người hiểu bản chất quy luật vận động phát triển của sự vật
hiện tượng. Ý thức giúp con người biết lựa chọn những khả năng thực tế phù hợp và
thúc đẩy sự vật đi lên phát triển. Sự tác động của ý thức đối với vật chất chỉ xét trong
giới hạn hoạt động lịch sử của con người. Ý thức chỉ tác dụng đối với hiện thực thơng
qua hoạt động thực tiễn. Ý thức có thể cải biến được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật,
khơng có khả năng tự biến thành hiện thực, nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của
con người, ý thức có thể cải tiến được, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hố những mục
đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính
phản ánh, sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người
có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, bắt nó phục vụ con người.
Kết luận: Ý thức luôn bị vật chất quyết định. Ý thức phản ánh đúng hiện thực
khách quan thì nó tác động lên hiện thực thúc đẩy hiện thực khách quan phát triển, còn
nếu phản ánh sai lệch các hiện thực khách quan thì nó kìm hãm sự phát triển của hiện
thực khách quan. Ý thức chủ quan, hiện thực khách quan được phản ánh vào bộ óc con
người giúp con người hiểu được bản chất, quy luật vận động của sự vật, hiện tượng.
Chúng ta có thể thấy một ví dụ điển hình: Ngay sau khi thống nhất đất nước
30/4/1975, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội và xem Liên Xơ như là một “hình mẫu” và
rập khn một cách giáo điều theo mơ hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ
trong những hồn cảnh và điều kiện đất nước khác biệt so với Liên Xô như: Tập thể
hóa cơng-nơng nghiệp nhà nước nắm độc quyền về kinh tế dẫn đến việc hình thành cơ
chế quan liêu bao cấp về kinh tế. Thế nhưmg, ta nhận thấy rằng đối với Việt Nam, ta
khơng có được bước đà vững chắc và cao lớn như của Liên Xô nên Liên Xơ khơng cịn
là hình mẫu của việc xây dựng XHCN ở Việt Nam nữa. Việc đổi mới cải cách từ năm
1986 là một bước đi tất yếu của lịch sử. Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hồn
thiện dần trong q trình thực hiện. Đổi mới về kinh tế: Quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,

hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Theo mối quan hệ biện chứng thì vật chất quyết định ý thức (Quan điểm về vật
chất và ý thức của Triết học Mác - Lênin) và vận động là phương thức tồn tại của vật


chất nên việc bao cấp hoàn toàn nền kinh tế sẽ dẫn đến việc vận động bị trì trệ, vật
chất không được tạo ra và ý thức trở nên thấp kém. Nền kinh tế bao cấp đã cho thấy
những nhược điểm rất lớn của nó là khơng thể tạo được sự cạnh tranh trong lực lượng
sản xuất. Ngày đó vác cuốc ra đồng, giơ cuốc lên mà nghe tiếng kẻng thì cầm về ln,
khơng thèm cuốc xuống đất nữa vì cuốc hay khơng cuốc thì vẫn được hưởng phần
lương giống nhau, làm hay không làm cũng được hưởng như nhau, dẫn đến vận động
bị trì trệ, vật chất khơng được sản xuất và ý thức không được nâng cao.
Ta thấy nền kinh tế bao cấp đã không phát huy được tính sáng tạo của người
dân khiến cho nền kinh tế khơng có cơ hội để phát triển. Dễ thấy rằng, giữa vật chất và
ý thức có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức chỉ có thể tác
động đối với vật chất khi nó được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn. Nên nếu
thực tiễn trì trệ thì ý thức cũng trì trệ theo. Nhờ có hoạt động thực tiễn, ý thức của
Đảng được nâng cao và đã đề ra đường lối đối mới và cải cách. Trước sự trì trệ và
chậm chạp ấy, cuộc đổi mới và cải cách từ năm 1986 là cần thiết. Công cuộc đổi mới
và cải cách ấy đã chấp nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần để tạo nên sự cạnh
tranh, thúc đẩy quá trình vận động của vật chất, tạo nên sự cạnh tranh trong sản xuất,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nhằm nâng cao ý thức của con người.
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy
vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản cho mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Đó là: Xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng khách quan của vật chất. Tức là mọi hoạt động của con người phải xuất phát
từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách,
kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra

những nhân tố vật chất,tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành
động. Đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của ý thức. Là phát huy vai trị tích
cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trị nhân tố con người trong việc
vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Con người phải tơn trọng tri thức
khoa học; tích cực học tập nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá nó
vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quân chúng, hướng dẫn quần
chúng hành động. Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, chống chủ quan, phát
huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải chống chủ quan


duy ý chỉ, lấy tình cảm, suy nghĩ cá nhân áp đặt cho cái chung, làm điểm xuất phát cho
sách lược,... Đồng thời cũng phải chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường lý luận
khoa học, bảo thủ, thụ động trong nhận thức và thực tiễn.



×