Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Các vấn đề trong tuyển chọn thể thao, khái niệm, ý nghĩa nội dung, quan hệ giữa tuyển chọn và huấn luyện vai trò của yếu tố tiên thiên và yếu tố hậu thiên trong các tầng tuyển chọn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.04 KB, 9 trang )

Câu hỏi :
1/ Các vấn đề trong tuyển chọn thể thao, khái niệm, ý nghĩa nội dung, quan hệ giữa
tuyển chọn và huấn luyện. Vai trò của yếu tố tiên thiên và yếu tố hậu thiên trong
các tầng tuyển chọn
2/ Bạn hãy tổ chức tuyển chọn VĐV môn thể thao mà bạn đảm trách, chọn môn thể
thao, lứa tuổi, giới tính, hình thái, chức năng, thể lực, tâm lý, kỹ thuật
BÀI LÀM
Câu 1: Các vấn đề trong tuyển chọn thể thao
I. Khái niệm về tuyển chọn :
Vêbôrich – Tiệp Khắc cũ :“ Tuyển chọn là sự tìm
kiếm những yếu tố ưu việt của điều kiện thiên bẩm,
phù hợp với từng môn thể thao của mỗi người được
tuyển chọn, để bồi dưỡng có mục đích từ khi tuổi còn
nhỏ”û.
TS. Haley – CHDC Đức cũ: “ Tuyển chọn là sự xác
định chính xác khả năng của VĐV thiếu niên có thể
thành công hay không trong việc tham gia tập luyện một
môn thể thao trong lực lượng hậu bị, đồng thời tham gia
tập luyện và thi đấu để giành được thành tích cao ở
các giai đoạn thi đấu tiếp theo”.
Neslmo – CHDC Đức cũ : “ Không có dự báo sẽ
không có tuyển chọn”.
Tuyển chọn VĐV chính là tuyển chọn tài năng thể
thao.
Tài năng thể thao là sự phối hợp ổn định các kỹ
năng vận động và tâm lý cũng như các tư chất giải
phẫu – sinh lý tạo thành tiềm năng tổng hợp để đạt
thành tích cao ở môn thể thao nào đó.
II. Khoa học tuyển chọn tài năng thể thao :
Khoa học tuyển chọn tài năng thể thao (KH TCTNTT)
bao gồm 5 vấn đề lớn : ứng dụng hình thái, chức năng


sinh lý, sinh hóa, tố chất thể lực, tâm lý và sinh học di
truyền trong tuyển chọn tài năng thể thao.


Mô hình tuyển chọn : gồm 2 nội dung quan trọng
Sở trường chuyên sâu từng môn thể thao.
Trình độ tập luyện
Cần coi trọng việc xác lập mô hình tuyển chọn và
đánh giá xác xuất thành tài để nâng cao hiệu quả
tuyển chọn.
Việc lập mô hình tuyển chọn cần được thao tác trên
máy vi tính, lập trình và xửa lý, tính toán để kết luận
có đáng tuyển chọn hay không.
Để trở thành nhà vô địch, không thể không có
sở trừơng chuyên sâu. Thực tiễn huấn luyện thể thao
đã cho thấy, một số trẻ em được tập luyện thì thành
tích tăng rất nhanh, số khác tập luyện nhiều hơn, lượng
vận động cao hơn nhưng thành tích chậm phát triển. Sự
khác biệt giữa hai nhóm là ở sở trường chuyên sâu. Vì
vậy phải coi trọng sở trường chuyên sâu.
Sở trường chuyên sâu cần phải được xem xét trên
các mặt sau đây :
1. Về di truyền học :
Tuổi ấu nhi (từ sơ sinh đến 10 tuổi, bao gồm hai giai
đoạn từ 3 – 6 tuổi và 6 -1 tuổi) là thời ký phát triển
sớm một số yếu tố di truyền có lợi cho sự hình thành
chuyên sâu các môn thể thao, điều này thực chất là
quy luật phát triển của sinh vật. Trẻ từ 6 – 7 tuổi đã
biết tập và đi xe đạp sõi là có tính thăng bằng tốt, số
khác có thể 8 -10 tuổi cũng chưa có khả năng và trình

độ như vậy.
Tính thăng bằng tốt là một mặt biểu hiện của sở
trường chuyên sâu trong một số môn thể thao, tùy theo
yêu cầu của từng môn thể thao mà tuyển chọn yếu
tố này, cũng như cảm giác không gian là yếu tố rất
quan trọng đối với thể dục dụng cụ và nhảy cầu.
Cần biết lựa chọn những phương pháp đơn giản để
sớm phát hiện những thiên atì về từng yếu tố di
truyền.


2. Về tốc độ tăng trưởng của các chi tiêu :
Huấn luyện phát triển sớm, toàn diện các tổ chất
thể lực, huấn luyện đa dạng các loại năng lực và phát
triển sớm mặt nào đó tốc độ tăng trưởng nhanh nhất
đó là sở trường về mặt đó; vì vật cần theo dõi liên
tục trong thời gian dài, nhập số liệu vào máy tính rồi
tính toán mà xác định sở trừơng chuyên sâu của VĐV.
Người có tốc độ tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng
trưởng cao thì được chọn. Đây là kinh nghiệm cũng đáng
ghi nhận.
Về thể hình :
Quan sát sự biến đổi về hình thái là rất quan trong,
cần thiết đối với nhiều môn thể thao; ví dụ : chiều cao
rất quan trọng đối với bóng rổ, bóng chuyền.
Xét nghiệm các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa.
Cần xét nghiệm các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa có mối
quan hệ chặt chẽ với sở trừơng chuyên sâu để quyết
định có tuyển hay không. Ví dụ : sức bền tốc độ hay
sức bền yếm khí có liên quan chặt chẽ đến hoạt tính

(xác định bằng hàm lượng) của các đồng men của lactic
dehydrogenase (LDH), đặc biệt là hoạt tính của đồng men
LDH5, thứ đến là LDH4; độ duy truyền của LDH5 là 85%
(huấn luyện có thể cải biến tối đa 15%). Sức bền ưa khí
có liên quan đến hoạt tính của đồng men LDH1, LDH2
(LDH1 – 2 có nhiều trong sợi cơ tim; LDH4 – 5 tập trung chủ
yếu trong vân cơ). Trong trường hợp tổng hàm lượng LDH
giống nhau (hoặc không đổi một cá thể), nhưng tỷ lệ
LDH4 – 5 tăng cao là dấu hiệu chắc chắn chứng tỏ
năng lực yếm khí sẽ tốt. Cần theo dõi đều đặn trong
tập luyện, không chỉ xét nghiệm một lần là quyết
định tuyển. Hiện nay thường dùng phương pháp so sánh
ngang, ai cao hơn thì tuyển, chưa có thang điểm chung.
Chú ý bù đáp, bổ sung cho nhau giữa các chỉ tiêu
quan trọng của 7 mặt. Hiện đang nghiên cứu phân loại,
lập bảng điểm.
3. Vấn đề tiềm lực vận động :


Tiềm lực vận động là một vấn đề quan trọng của
sở trường chuyên sâu, được biểu hiện ra bằng trình độ
tập luyện; tập luyện ít thời gian mà trình độ tập luyện
(TĐTL) tăng cường nhành là có tiềm lực vận động tốt,
có sở trừơng chuyên sâu; tập lâu mà TĐTL chậm thì
không tuyển, tập ít thời gian mà lên nhanh là rất đáng
chú ý. Nhất thiết phải hỏi thời gian đã luyện tập bao
lâu khi định tuyển chọn VĐV nào đó. Trước đây khi đề
cập vấn đề này cần chú ý phát triển thể thao học
đường để từ đó tìm chọn nhân tài.
4. Vấn đề tuổi xương :

Thông qua xác định tuổi xương để biết tốc độ phát
dục của thanh thiếu niên. Nhưng trẻ em phát dục sớm
chỉ có thể tuyển vào các môn cử tạ và vật (xương
cốt hóa nhanh, hệ cơ phát triển sớm, sức mạnh tăng
nhanh và chiều cao thấp hơn so với người cùng tuổi, có
lợi thế khi tham gia ở các hạng cân nhẹ). Bungary có 1
VĐV có tuổi xương phát dục nhanh (sớm) hơn 3 năm đã
phá kỷ lục thế giới. Những VĐV có tuổi xương phát dục
sớm có thể chuyển sang môn vật.
Hormone tăng trưởng (somatorophin). Hormone – STH,
Grouth hormone (GH) : là hormone kích thích sự trưởng thành
và quyết định chiều cao của thanh thiếu niên; trẻ em
ngủ nhiều; dinh dưỡng đầy đủ sẽ lớn nhanh. Ornithin có
tác dụng kích thích sinh sản hormone tăng trưởng, chú ý
hai men có tác dục hấp thu ornothin vì vậy định lượng các
men này trong máu có thể biết tình hình hoạt động của
STH.
5. Về hiệu quả công tác tuyển chọn :
Hiện nay hiệu quả công tác tuyển chọn của Trung
Quốc đã tăng gấp 3 – 4. Trước đây tuyển chọn chủ yếu
bằng kinh nghiệm, hiệu quả rất thấp, tỷ lệ thành tài
là 1/10 triệu, trong năng khiếu chỉ đạt 1/1 vạn, dần dần
nâng lên thành 1/3 ngàn, và nay đạt tỷ lệ 1/150. Huấn
luyện nghiệp dư cũng đã đạt tỷ lệ từ 1/1 ngàn lên
1/300. Kinh phí đầu tư ban đầu cho VĐV rất cao, khoảng 10
ngàn nhân dân tệ/năm/1VĐV.


Mỹ và các nước Tây u không chú ý đến khoa học
tuyển chọn tài năng vì thể thao học đường phát triển

rất tốt, chủ cần tổ chức thi đấu rồi kiểm tra một số
chỉ tiêu sinh hóa để tuyển chọn. Các nước thuộc thế
giới thứ ba rất cần đến khoa học tuyển chọn vì trình độ
chuyên môn và khoa học chưa cao, thể thao học đường
còn yếu; vì vậy cần có những chỉ tiêu tuyển chọn để
kiểm tra, phát hiện tài năng thể thao, không thể như
các nước u – Mỹ.
6. Việc lập mô hình trên máy vi tính :
Việc lập mô hình trên máy vi tính để tuyển chọn
tài năng thể thao hiện nay mới bắt đầu. Bóng đá thất
bại do tuyển chọn ở tuổi quá muộn. Bóng đá chủ yếu
đòi hỏi xử lý kỹ thuật bằng chân, tuyển chọn ở giai
đoạn từ 5 -8 tuổi là tốt nhất. Diễn viên xiếc đựợc tập
luyện từ 4 tuổi, thậm chí có thể dùng chân chơi bài tu –
lơ – khơ. VĐV bơi lội bắt đầu tập luyện từ 4 – 5 tuổi mới
có cảm giác nứơc tốt và hiệu xuất quạt tay tốt.
7. Vấn đề gen di truyền :
Hiện nay ít dùng phương pháp kiểm tra gen để đánh
giá năng lực vận động, mà chủ yếu xét nghiệm các
chỉ tiêu sinh hóa tương ứng với gen nào cần kiểm tra,
8. Vấn đề sợi cơ :
Về tỷ lệ sợi cơ đỏ, sợi cơ trăng và sợi cơ trung gian
chủ yếu dùng các chỉ tiêu tương ứng có tính chất thực
tế (như bật cao tại chỗ) để tuyển chọn.
9. Nồng độ LDH trong máu :
Nồng độ LDH trong máu cao biểu hiện sức bền tốt,
nhưng chưa nói lên sức bền tốc độ (yếm khí) hay ưa khí.
Người Phương Đông (da vàng) thừơng có sức bền tốc
độ tốt hơn, nhưng sức bền ưa khí không tốt.
10. Về nội tiết nam tính testosterone :

Hai VĐV có cùng thời gian tập luyện và thành tích
tương đương nhau, người nào có hàm lượng testosterone
trong máu thấp thì có thể bổ sung được, người có hàm
lượng quá cao thì không bổ sung thêm được vì sẽ gây


nên trạng thái mà đông y gọi là dương hóa, quá vượng,
bất lợi. Thực ra, testosterone cũng chỉ là một nhân tố,
còn nhiều nhân tốc sinh hóa khác quyết định thánh tích
thể thao. Mỹ hiện nay thường dùng phương pháp bổ
sung globulin sinh trưởng (STH hay GH).
Trích từ tài liệu “Nội dung trao đỗi với chuyên gia
Trung Quốc Trương Kiến Hoa – Viện trưởng viện KHTDTT
Quảng Tây”
 Vai trị của yếu tố tiên thiên và hậu thiên trong các tầng tuyển chọn :
a/ Tầng tuyển chọn cơ sở, sơ cấp : Các nhân tố tiên thiên là chính, nội dung chủ
yếu gồm :
- Điều tra phả hệ di truyền.
- Kiểm tra mức độ phát dục trưởng thành
- Kiểm tra đánh giá hình thái chức năng và một số tố chất, tâm lý
b/ Tầng tuyển chọn trung cấp: kết hợp giữa nhân tố tiên thiên và hậu thiên
c/ Tầng tuyển chọn cao cấp: các yếu tố hậu thiên là chính
- Giai đoạn tuyển chọn ban đầu ( sơ tuyển ) : Nhiệm vụ chính là tuyển chọn có
định hướng dựa trên mơ hình đặc điểm của VĐV phù hợp với yêu cầu từng
môn thể thao. Cần xác định được những tiền đề bẩm sinh của các em thiếu
niên nhi đồng.
Do đó giai đoạn này cịn được gọi là giai đoạn phát triển năng khiếu chung. Có ý
nghĩa rất quan trọng trong tuyển chọn VĐV cấp cao.
Tuyển chọn ban đầu của các em được sơ tuyển cũng khác nhau phụ thuộc vào
nhóm các mơn thể thao. Việc chọn đúng thời điểm sinh học để tuyển chọn năng

khiếu có ý nghĩa kinh tế và quyết định tới hiêu quả của công tác đào tạo VĐV cấp
cao.
Qua thực tiễn nhiều năm của công tác tuyển chọn, ta thấy chọn thẳng các em vào
tập luyện từng môn thể thao ở giai đoạn ban đầu là không hợp lý.
- Giai đoạn tuyển chọn vào tập luyện các môn thể thao ( giai đoạn phát triển
năng khiếu chuyên môn) : nhiệm vụ là xác định năng khiếu của các em phù
hợp với từng môn thể thao kéo dài từ 1 – 3 năm với một chương trình huấn
luyện tồn diện phù hợp với các mơn bóng hoặc các môn thể thao cá nhân
như tốc độ và độ chuẩn xác của phản xạ cảm giác, độ linh hoạt của hệ thần
kinh, tư duy thao tác và các tính chất của sự chú ý.


- Trong giai đoạn này các nhà chuyên môn cần chú ý đến những thành phần chung
nhất của năng lực thể thao như : khả năng tiếp thu kỹ thuật nhanh, biết thích ứng
nhanh với những căng thẳng của cơ bắp lớn : các chức năng sinh lý ( tuần hồn, hơ
hấp) phát triển cao
- Tuy nhiên việc đánh giá năng lực chỉ có trong điều kiện so sánh vì nhịp độ phát
triển năng lực không đồng đều phụ thuộc vào tuổi sinh học . Mỗi giai đoạn lứa tuổi
có đặc điểm thể chất và trí tuệ riêng.
- Phát triển năng lực sẽ có hiệu quả hơn nếu các HLV biết nhấn mạnh các tác động
sư phạm, tâm lý , nội dung cũng như hình thức của chương trình huấn luyện phù
hợp với những thay đổi thuận lợi đặc trưng cho từng lứa tuổi
- Giai đoạn tuyển chọn định hướng vào chun mơn hóa sâu 1 mơn thể thao
được kéo dài trong nhiều năm . Trong giai đoạn này các năng lực chuyên
môn đặc trưng về tài năng của các VĐV trẻ phải được bộc lộ trong đặc thù
của từng mơn thể thao. Do đó trong giai đoạn này việc giải quyết các nhiệm
vụ tuyển chọn được dựa trên mô hình các năng lực tâm lý của các mơn thể
thao cụ thể
- Giai đoạn nâng cao thành tích thể thao :có mục đích chính là tuyển chọn
những VĐV có triển vọng vào các đội đại biểu của tỉnh , thành, ngành hoặc

đội tuyển quốc gia. Vấn đề này tương đối phức tạp bởi vì ngồi việc xác
định rõ mức độ phát triển các năng lực tâm lý, các đặc điểm tâm lý cá nhân,
tâm lý xã hội của từng VĐV cịn phải giải quyết các nhiệm vụ dự báo thành
tích trong thi đấu của các VĐV đó. Đồng thời khi giải quyết các nhiệm vụ
tuyển chọn.

Câu 2 : Tổ chức tuyển chon VĐV
Khi tiến hành tuyển chọn VĐV trong bất kỳ môn thể thao nào cần chú ý các bước
sau :
Chuẩn bị các test
Chuẩn bị các đối tượng
Kiểm tra thử
Tổ chức kiểm tra đo đạc – trắc nghiệm
Xử lý số liệu
Xây dựng các thang điểm tuyển chọn
Vào điểm cho từng đối tượng kiểm tra


Dự kiến danh sách trúng tuyển
Dự kiến nguyên tắc tuyển
Đánh giá chất lượng dự tuyển
 Tổ chức tuyển chọn VĐV Bóng đá
Lứa tuổi : 10 tuổi
Giới tính : Nam
- Test hình thái :
+ Tuổi
+ Cân nặng
+ Chiều cao
+ Vịng ngực
+ Huyết áp

+ Tim, mạch
+ Thính lực
+ Thị lực
+ Hệ tiết niệu, sinh dục
+ Thuận chân trái hay tay phải
- Test thể lực :
+ Mềm dẻo
+ Chạy 50m (s)
+ Cơ bụng
+ Chạy biến tốc
+ Chạy 400m (s)
- Test tâm lý :
Ảnh hưởng của trạng thái tâm lý đối với hoạt động thể lực của con người là vô
cùng quan trọng. Đặc biệt trong tình hình trình độ hình thái, chức năng, tồ chất, kỹ
thuật ngang nhau, phẩm chất tâm lý càng trở nên quan trọng hơn. u cầu của mơn
Bóng đá đối với phản xạ của VĐV là rất cao, yêu cầu trong một khoảng thời gian
rất ngắn phải hoàn thành động tác tấn cơng và phịng ngự chuẩn xác. Qua kiểm tra
phản xạ bị động, có thể phản ánh tính nhịp điệu động tác, tiết tấu nhanh chậm và
khả năng ức chế phân hóa động tác tay chân


- Test kỹ thuật :
+ Tâng bóng
+ Đá bóng bằng lịng
+ Đá bóng bằng mu trong
+ Dẫn bóng




×