Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN chứng minh chứng cứ trong TTDS 7.5điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.84 KB, 22 trang )

MỤC LỤC


2

LỜI MỞ ĐẦU
Trong tố tụng dân sự (TTDS), quan hệ lợi ích cần được giải quyết trong các vụ việc
dân sự là quan hệ giữa các đương sự, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước
Tịa án thì các đương sự có quyền và nghĩa vụ chứng minh cho Tòa án và những người
tham gia tố tụng khác thấy được sự đúng đắn trong yêu cầu của mình, đồng thời chứng
minh rằng bị đơn phải có nghĩa vụ đối với yêu cầu của mình. Ngược lại, bị đơn cũng có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh sự phản đối yêu cầu của mình đối
với đương sự phía bên kia là có căn cứ và hợp pháp. Ngoài ra, với quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh của các đương sự thì Tịa án cũng có đầy đủ chứng cứ
để giải quyết vụ việc dân sự khách quan, chính xác và đúng pháp luật . Bởi lẽ, tất cả các
hoạt động tố tụng dân sự đều phải đi đến kết luận về giá trị chứng minh của chứng cứ,
trên cơ sở đó mới có thể kết luận về vụ án, vụ việc dân sự.
Như vậy, cung cấp chứng cứ và chứng minh được coi là một trong các nguyên tắc
cơ bản của TTDS .


3

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 Tổng quan về chứng cứ
1.1.1 Định nghĩa về chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể nói, mọi hoạt
động trong q trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của
tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ, chứng cứ


là phần quan trọng, lớn nhất để chứng minh vụ việc dân sự. Dựa vào chứng cứ mà các
đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; các cơ
quan tiến hành tố tụng có đủ hay khơng đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ việc dân
sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cơng dân và bảo vệ pháp
luật.
Có nhiều định nghĩa về chứng cứ của một số nước trên thế giới: Trong Bộ luật Tố
tụng dân sự của Liên bang Nga có quy định: "Chứng cứ trong tố tụng dân sự là những sự
thật khách quan và theo đó mà Tịa án có cơ sở để Tịa án giải quyết vụ án dân sự"; hay
Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: "Chứng cứ là một tư liệu thơng qua đó một
tình tiết được Tịa án cơng nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tịa án được thuyết
phục là một tình tiết nhất định tồn tại hay không". Về nội hàm của khái niệm một số nước
trên tựu chung là khẳng định: Chứng cứ là sự thật khách quan. .
Tại Việt Nam ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải trong bài viết “Chứng cứ, chứng minh trong
tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” 1 từng đưa ra khái
niệm “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và các cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa
án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng
làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay
sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”
Bộ luật Tố tụng Dân sự được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thơng qua ngày 27/5/2004 tại Điều 81 đã đưa ra quy phạm định nghĩa về khái niệm chứng
cứ như sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo
1 Đoàn Thị Ngọc Hải, “Chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015”, ngày 14/03/2017 tại web: />

4

trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu
hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình

tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”. Và theo Điều 93 Bộ luật
TTDS 2015, “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự các cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án hoặc do Tịa án thu thập
được trong q trình tố tụng, từ đó xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn
cứ và hợp pháp hay khơng”.
Chứng cứ có thể hiểu là những gì phản ánh sự thật khách quan, được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tịa án thu thập được theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. Trong một vụ việc dân sự thường có rất nhiều tình
tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự phụ thuộc vào nó. Những tình
tiết, sự kiện đó bao gồm các tin tức, dấu vết được thể hiện dưới những hình thức nhất định
do Tịa án sử dụng làm cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự được gọi là chứng cứ.
Như vậy chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được thu thập theo
trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết
vụ việc dân sự.
1.1.2 Đặc điểm của chứng cứ
a) Tính khách quan của chứng cứ
Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan khơng phụ thuộc vào ý
thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng không được tạo
ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ khơng cịn; do đó khơng thể coi là chứng cứ. Con
người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử
dụng nó. Nguồn gốc của chứng cứ và chứng cứ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nguồn
gốc của chứng cứ là cơ sở hình thành và xây dựng tính khách quan của chứng cứ. Trong
đời sống xã hội, thông qua các hoạt động khác nhau, con người tạo ra và để lại nhiều dấu
vết, thông tin phục vụ cho nhu cầu hoạt động của mình. Những dấu vết, thơng tin này
xuất phát từ những hành vi hợp pháp hoặc không hợp pháp của con người. Do đó nguồn
gốc của chứng cứ là các thông tin, tài liệu, sự kiện nảy sinh trong đời sống xã hội, là sản
phẩm của hành vi con người. Từ đó, thơng qua những hoạt động theo quy định của pháp
luật được thừa nhận, con người sử dụng nó để khẳng định rằng mình có quyền lợi bị
người khác xâm phạm hoặc không vi phạm quyền lợi của người khác .
b) Tính liên quan của chứng cứ



5

Tính liên quan, là thuộc tính quan trọng của chứng cứ, gắn liền với các sự kiện cần
chứng minh trong các vụ việc dân sự.Những thông tin, tài liệu, sự kiện có thật, tồn tại
khách quan chỉ được coi là chứng cứ khi nó có mối liên hệ với các sự kiện cần chứng
minh trong vụ việc dân sự mà Tịa án đang giải quyết. Tính liên quan của chứng cứ gắn
liền với sự chứa đựng thông tin, tài liệu, sự kiện mà các đương sự và các chủ thể tham gia
chứng minh cung cấp cho Tòa án cũng như hoạt động sử dụng chứng cứ của Tòa án trong
việc kết luận một sự việc. Tính liên quan cịn được thể hiện dưới dạng gián tiếp, tức là
dựa vào thông tin đó, phải qua một hoặc nhiều khâu trung gian mới giúp Tịa án đưa ra
kết luận về tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự. Như vậy, tính liên quan
trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp với vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết
Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải có mối quan hệ nội tại, có
mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tịa án có thể xác định
đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà không để xảy ra
trường hợp thừa, hoặc không đầy đủ chứng cứ.
c) Tính hợp pháp của chứng cứ
Tính hợp pháp, là chứng cứ phải được rút ra từ những nguồn gốc nhất định do pháp
luật quy định; quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ phải được tiến
hành theo đúng quy định của pháp luật, cịn những gì không được thu thập, nghiên cứu,
đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật thì khơng được coi là chứng cứ,
không được sử dụng giải quyết vụ việc dân sự.
Nếu thiếu thuộc tính này, việc thu thập, đánh giá chứng cứ sẽ dễ dàng bị các chủ thể
tố tụng lạm dụng, khơng bảo đảm tính đúng đắn, công bằng của thủ tục tố tụng, ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và các chủ thể khác.
1.1.3. Phân loại chứng cứ
Chứng cứ có thể được phân chia thành nhiều loại dựa trên nhiều tiêu chí và cách tiếp

cận khác nhau. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá độ tin cậy
của chứng cứ cũng như trong việc sử dụng chứng cứ.
+ Dựa vào nguồn chứng cứ được phân loại thành chứng cứ theo vật và chứng cứ
theo người. Chứng cứ theo người: Là chứng cứ được rút ra từ lời khai của đương sự,
người làm chứng. Chứng cứ theo vật: Là chứng cứ được rút ra từ những vật như vật
chứng, tài liệu, giấy tờ


6

+ Dựa vào mức độ liên quan cử chứng cứ với các tình tiết, sự kiện cần chứng minh
trong vụ việc dân sự, chứng cứ được chia thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
+ Dựa vào cách thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được chia thành chứng cứ gốc và
chứng cứ sao lại, thuật lại.
+ Dựa vào hình thức thể hiện của chứng cứ, chứng cứ được chia thành chứng cứ viết
và chứng cứ miệng.
Thông thường, các chứng cứ theo vật, chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gốc và chứng cứ
viết có giá trị chứng minh cao hơn.
1.1.4 Nguồn của chứng cứ
Nguồn chứng cứ ở trong tố tụng dân sự là nguồn được thu thập, cung cấp theo trình
tự Bộ luật Tố tụng dân sự và được liệt kê tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự thì được coi
là nguồn. Bởi vậy, nếu khơng có nguồn chứng cứ sẽ khơng chứng minh làm sáng tỏ để
giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguồn của chứng cứ bao gồm: Tài liệu
đọc được, nghe được, nhìn được; dữ liệu điện tử; Vật chứng;Lời khai của đương sự; Lời
khai của người làm chứng; Kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp
lý do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực; Các nguồn khác mà
pháp luật có quy định (Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Có thể hiểu nguồn của chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ. Nó tồn tại hai loại

nguồn chủ yếu là nguồn vật và tài liệu. Tịa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ, từ
đó rút ra các chứng cứ. Bất kỳ loại chứng cứ nào cũng phải nằm trong một loại nguồn
chứng cứ nhất định; nhưng khơng có nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào đó thì
nhất định trong đó sẽ chứa đựng chứng cứ, vì vậy sẽ phạm sai lầm trong đánh giá, sử
dụng. Ví dụ, vật chứng đương sự cung cấp cho Tòa án là nguồn nhưng là vật chứng được
đương sự làm giả, gian dối thì không thể coi vật chứng này là nguồn được; hay kết luận
giám định là nguồn chứng cứ nhưng kết luận giám định sai thì khơng thể coi là nguồn của
chứng cứ được.
1.2 Khái niệm về chứng minh


7

1.2.1. Thế nào là hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
Tại trang 178 của Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục năm 1998 định nghĩa:
"Chứng minh là dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay khơng đúng".2
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, tr. 192 ghi: "Chứng minh là làm
cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ".3
Mỗi vụ việc dân sự phát sinh thường chứa đựng những mâu thuẫn nhất định giữa
các bên đương sự nên rất phực tạp. Để giải quyết được vụ việc dân sự thì mọi vấn đề của
vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng phải được làm rõ trước khi Tòa án quyết định giải quyết
vụ việc dân sự.
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Bản
chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ xác định
các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người
thấy rõ là có thật, là đúng với thực tế. Do đó, các phương thức được các chủ thể chứng
minh sử dụng để chứng minh rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ
của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất cả các căn cứ
pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự. Quá trình chứng minh được diễn ra suốt
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt động chứng minh trong q trình Tịa án

giải quyết vụ việc dân sự bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng.
Trong đó, hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa
của các chủ thể là chủ yếu và mang tính quyết định.
Cung cấp chúng cứ: Là nghĩa vụ chủ yếu là do đương sự giao nộp cho Tòa án,
đương sự muốn làm rõ được yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là có căn cứ hợp pháp
thì trách nhiệm của họ là phải cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án để chứng minh.
Việc cung cấp chứng cứ còn có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp.
- Thu thập chứng cứ là trách nhiệm của các đương sự, hoặc một số trường hợp Tòa
án thu thập. Việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ để chứng minh trong giải quyết
vụ việc dân sự phải đúng hạn, nhanh chóng và kịp thời.
- Nghiên cứu và đánh giá là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng minh. Nó là
một q trình lơgíc nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù hợp của các chứng cứ -

2 Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội
3 Từ điển tiếng Việt (2003), Nxb Đà Nắng, Đà Nẵng.


8

sự phù hợp của chứng cứ ở đây là sự phù hợp giữa những tình tiết, sự kiện đã thu thập
được với thực tế khách quan.
Thông qua nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Tịa án hình thành các đối tượng
chứng minh và sắp xếp các sự kiện theo một trình tự nhất định. Chứng minh trong tố tụng
dân sự có ý nghĩa làm rõ, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự, đảm bảo việc
giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Chứng minh là biện pháp duy nhất để xác định các sự
kiện, tình tiết của vụ việc dân sự. Thông qua hoạt động chứng minh, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân và các chủ thể khác thấy rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được
giải quyết. Đối với các đương sự, chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự
làm rõ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tịa bảo vệ. Trước Tịa
án, nếu đương sự khơng chứng minh được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì

quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể sẽ khơng được Tịa án bảo vệ. Trên thực tế, Tịa
án có thể sai lầm trong việc xácđịnh, đánh giá chứng cứ, khơng làm sáng tỏ được các tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Điều đó dẫn đếu việc giải quyết vụ việc dân sự không
đúng với sự thật và làm cho đương sự không được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Chứng minh khơng chỉ có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự của
Tòa án, mà còn là Phương tiện để các đương sự làm rõ được yêu cầu của mình, bác bỏ
yêu cầu của đương sự khác nhằm thuyết phục Tịa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự mà theo đó việc làm rõ các sự kiện, tình tiết
của vụ việc là cần thiết; trong đó cịn bao gồm cả hoạt động áp dụng luật của Tòa án
đối với vụ việc dân sự cụ thể cần giải quyết
1.2.2. Chủ thể của hoạt động chứng minh
Chứng minh làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự để giải quyết đúng đắn
vụ việc dân sự. Nhưng ở đây phải xác định ai thực hiện việc chứng minh? Nói rõ hơn, ai
là người đứng ra để nghiên cứu, thu thập, giao nộp, đánh giá chứng cứ trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự?
Trong tố tụng dân sự, đương sự tham gia tố tụng là chủ thể trung tâm. Tuy vậy,
chứng minh không chỉ giới hạn ở việc xác định chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu hay
phản đối yêu cầu của đương sự mà còn phải làm rõ được tất cả các vấn đề liên quan đến
vụ việc dân sự Tịa án có nhiệm vụ giải quyết. Khi quyết định giải quyết vụ việc dân sự,
trong bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của mình Tịa án cũng phải chỉ rõ quyết


9

định được dựa trên những căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý nào. Vấn đề xác định rõ chủ
thể chứng minh, quyền và nghĩa vụ của họ như thế nào? Vì mỗi chủ thể tham gia tố tụng
dân sự đều xuất phát từ những mục đích, nhiệm vụ khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của
họ cũng khác nhau. Trong đó, xác định nghĩa vụ chứng minh của đương sự, người đại

diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và Tịa án trong
việc làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ án dân sự.
Theo quy định tại điều 06, điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chủ thể của hoạt
động chứng minh bao gồm đương sự cũng như cá nhân, cơ quan, tổ chức, người bảo vệ
quyền lợi cho đương sự..
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, việc cung cấp chứng cứ và chứng minh
cho yêu cầu của mình thuộc về đương sự. Đây là một trong những nguyên tắc xuất phát từ
quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện. Đương sự có u cầu bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh yêu cầu đó là
hợp pháp. Ngược lại, nếu đương sự phản đối yêu cầu của người khác thì phải đưa ra
chứng cứ để phản đối. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh
đặt ra cho cả hai bên đương sự, bên khởi kiện, bị kiện và người có quyền và nghĩa vụ liên
quan.
Ngoài các đương sự, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũngphải
chứng minh (khoản 3 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tuy khơng có quyền và lợi ích gắn
liền với vụ việc dân sự như đương sự, nhưng các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện u
cầu Tịa án bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác nếu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh thì sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các
đương sự.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng với mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có quyền và nghĩa vụ chứng minh.
Ngồi việc giúp đương sự về mặt pháp lý để đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
họ thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chứng minh bằng việc đưa
ra các chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho các yêu cầu hoặc phản đối các yêu cầu là có cơ
sở.


10


1.2.3 Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2003, tr. 328 ghi: Đối tượng là
người, vật, hiện tượng mà con người nhằm vào trong suy nghĩ và hành động.4
Trong tố tụng dân sự, đối tượng chứng minh là một vấn đề hết sức quan trọng, do đó
khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải xác định được những vấn đề chứng minh bao
gồm các tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan, các căn cứ pháp lý nằm trong phạm vi yêu
cầu khởi kiện và cần được làm sáng tỏ.
Xác định đúng đối tượng chứng minh trong mỗi vụ việc dân sự cụ thể có ý nghĩa rất
quan trọng, có tính chất quyết định tới kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Vì xác định đối
tượng chứng minh cũng có nghĩa là xác định phạm vi những sự kiện, tình tiết của vụ việc
dân sự cần làm rõ, thơng qua đó chứng minh làm rõ nó, để tịa án quyết định giải quyết vụ
việc dân sự được đúng đắn. Trên cơ sở xác định được đúng đối tượng chứng minh mới
xác định được các chứng cứ, tài liệu cần có để giải quyết vụ việc dân sự, từ đó yêu cầu
các đương sự và những người đang lưu giữ, cung cấp cho Tòa án theo quy định của pháp
luật. Nếu không xác định được đúng đối tượng chứng minh sẽ dẫn đến việc tiến hành
chứng minh thừa hoặc thiếu các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự. Điều này
vừa có thể làm mất thời gian, sức lực của mọi người vừa có thể làm cho việc quyết định
giải quyết vụ việc dân sự của tịa án khơng có cơ sở chứng minh sự phản đối đó là có căn
cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ
lợi ích cơng cộng, lợi ích nhà nước hoặc ucầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, u cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp.
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định tại Điều 92 về những tình tiết, sự kiện có tính rõ
ràng thì khơng phải chứng minh như: tình tiết sự kiện mọi người đều biết; những tình tiết,
sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền; những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản được công chứng,
chứng thực hợp pháp. Đối với những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết thì khơng phải
chứng minh. Tuy nhiên, tất cả các tình tiết, sự kiện khơng phải chứng minh phải được Tịa
án thừa nhận.
Nói tóm lại, đối tượng chứng minh bao gồm những tình tiết, sự kiện khẳng định của

bên có u cầu và tình tiết, sự kiện có tính phủ định của bên phản lại u cầu liên quan
đến vụ việc dân sự cần xác định trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
4 Từ điển tiếng Việt (2003), Nxb Đà Nắng, Đà Nẵng


11

1.2.4 Các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
- Cung cấp chứng cứ: Hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đưa lại
cho Tòa án, Viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân sự
-

Thu thập chứng cứ: Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp
đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng để giải quyết vụ việc
dân sự.
Các biện pháp Tòa án được áp dụng để thu thập chứng cứ:
▪ Lấy lời khai của đương sự
▪ Lấy lời khai của người làm chứng
▪ Đối chất
▪ Xem xét, thẩm định tại chỗ
▪ Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định
▪ Định giá, thẩm định giá tài sản
▪ Ủy thác thu thập chứng cứ
▪ Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ

-

Đánh giá chứng cứ: Đánh giá chứng cứ là nhận định giá trị chứng minh của chứng cứ.
Người làm nhiệm vụ thực hiện đối chiếu, so sánh chứng cứ để tìm ra sự thống nhất, mâu
thuẫn, từ đó có thể lần ra sự thật khách quan của vụ việc dân sự.



12

CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
2015 VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH
2.1 Nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ
Tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã khẳng định quyền quyết định và tự định
đoạt của đương sự. Tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự lại quy định về việc cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, trong đó nêu:
1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tịa
án và chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như
đương sự.
Vì sao pháp luật tố tụng dân sự lại đặt ra nghĩa vụ chứng minh cho đương sự? Ở
quan hệ dân sự là quan hệ riêng tư của các bên, do các bên tự quyết định, tự giải quyết là
chủ yếu và chỉ khi các bên không tự giải quyết được thì họ cũng tự quyết định có u cầu
Nhà nước hỗ trợ hay không?
Mặt khác, các bên đương sự là người hiểu rõ vụ việc của mình nhất, thường biết rõ
tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì, cịn hay khơng cịn, đúng
hay khơng đúng và đang ở đâu. Do đó, khi các bên đưa tranh chấp của họ ra Tòa án, thì
tịa án là trọng tài giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách khách quan và đúng pháp
luật, chứ tịa án khơng thể làm thay, chứng minh cho đương sự với những yêu cầu của họ.
Pháp luật đã dành cho đương sự quyền lựa chọn phương án hành động có lợi (đưa ra
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình hay phản đối yêu cầu của người khác) hoặc
phương án hành động bất lợi cho mình (khơng cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu của mình...) thì họ phải gánh chịu hậu quả tương ứng với phương án mà đương sự tự
định đoạt, tự lựa chọn là quy định hợp lý cả về quy phạm pháp luật và cả về thực tiễn xét
xử. Có như vậy mới là biện pháp tác động đến hành vi ứng xử của công dân phải sống

theo hiến pháp và pháp luật mà không cần sử dụng đến biện pháp mạnh là cưỡng chế.
Bởi vậy, việc quy định đương sự phải chịu hậu quả về việc chứng minh của mình
vừa bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự vừa nâng cao trách nhiệm cho đương sự.
Về nguyên tắc, Điều 91 BLTTDS 2015 đã quy định, các đương sự muốn chứng
minh cho yêu cầu của mình thì đều phải phải thu thập, cung cấp, giao nộp các tài liệu
chứng cứ để để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên


13

BLTTDS 2015 có quy định về những tình tiết, sự kiện đương sự không cần thu thập,
cung cấp, giao nộp chứng cứ được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 91 như sau:
1. Đương sự có u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu
thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là
có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây:
a) Người tiêu dùng khởi kiện khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị
kiện có nghĩa vụ chứng minh mình khơng có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà khơng cung cấp, giao nộp
được cho Tịa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng
lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp
tài liệu, chứng cứ đó cho Tịa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc
trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao
động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử
dụng lao động;
c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
Tương tự, đối với trường hợp tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lngười tiêu

dùng khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ theo quy định của Luật bảo vệ người tiêu dùng.
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định tại Điều 92 về những tình tiết, sự kiện có tính rõ
ràng thì khơng phải chứng minh như sau:
1. Những tình tiết, sự kiện sau đây khơng phải chứng minh:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa
nhận;
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có
hiệu lực pháp luật;


14

c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng
thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự
kiện này hoặc tính khách quan của văn bản cơng chứng, chứng thực thì Thẩm phán có
thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản
chính.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc khơng phản đối những tình tiết, sự kiện, tài
liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chun mơn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên
đương sự đó khơng phải chứng minh.
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại
diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện.
Việc khơng chứng minh những tình tiết, sự kiện này là bởi chúng đã được chứng
minh trước đó, việc chứng minh lại là khơng cần thiết vì tịa án, cơ quan nhà nước nào
giải quyết vụ việc cũng đều dựa trên việc thực hiện quyền lực của nhà nước ta. Hơn nữa,
việc chứng minh lại một tình tiết, sự kiện cịn có thể dẫn đến khả năng có một kết luận
khác nhau về nó, kéo theo sự phức tạp trong việc giải quyết vụ việc dân sự, làm trì trệ thủ
tục tố tụng giải quyết vụ việc dân sự, làm giảm uy tín của tịa án và cơ quan nhà nước có

thẩm quyền.
2.2 Q trình thu thập, cung cấp, giao nộp, bảo quản và bảo vệ chứng cứ
2.2.2. Nguồn chứng cứ
Ngoài 8 nguồn chứng cứ quy định tại Điều 82 BLTTDS sửa đổi năm 2011,
BLTTDS 2015 bổ sung thêm các nguồn sau: Dữ liệu điện tử, Văn bản ghi nhận sự
kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực.
Nguồn của chứng cứ được BLTTDS 2015 quy định tại Điều 94:
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.


15

6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản cơng chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Trên cơ sở Điều 82 BLTTDS 2004, sửa đổi 2011, Điều 94 BLTTDS 2015 đã bổ
sung khoản 1, khoản 8 và khoản 9. Ngoài ra bỏ “Tập quán” như một nguồn chứng cứ, bỏ
từ “Các” trong “Các vật chứng”. Việc thay đổi lần này làm rõ hơn các quy định trước đó
về nguồn chứng cứ, để tránh cho việc vận dụng tập quán một cách tùy tiện trong quá trình
giải quyết giải quyết vụ án.
2.2.3 Cách xác định chứng cứ
Kế thừa và phát triển BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS 2015
đã sửa đổi bổ sung quy định các tài liệu được coi là chứng cứ của vụ việc dân sự. Các

nguồn chứng cứ thu thập được tại Điều 94 sẽ được xác định là chứng cứ nếu thỏa các yêu
cầu tại điều 95 BLTTDS 2015 như sau:
Điều 95. Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao
có cơng chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp,
xác nhận.
2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm
theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm,
thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất
xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Thơng điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử,
chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo
quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu
được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị


16

khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại
phiên tòa.
6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định
được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu
việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ
được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến

hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng,
chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều
kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
2.2.4 Xác minh, Thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là việc phát hiện, tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ
việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự. Việc thu thập
chứng cứ có ý nghĩa quan trọng đối với cả việc chứng minh của đương sự và việc giải
quyết vụ việc dân sự của tòa án. Bởi, đương sự chỉ có thể chứng minh được quyền và lợi
ích hợp pháp của mình khi có chứng cứ, tịa án chỉ có thể giải quyết đúng được vụ việc
dân sự khi có đầy đủ các chứng cứ để làm rõ được các vấn đề của vụ việc dân sự.
Các chủ thể chứng minh nói chung đều có quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ.
Trong tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu nên đương sự, người đại
diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tiến hành
thu thập các chứng cứ, tài liệu để gải quyết vụ việc dân sự, tòa án xác định chứng cứ, tài
liệu cần thu thập và yêu cầu các đương sự cung cấp. Tịa án có trách nhiệm hỗ trợ đương
sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong
những trường hợp do Bộ luật này quy định (Khoản 2 điều 6 BLTTDS 2015)


17

Để đảm bảo việc giải quyết đúng các vụ việc dân sự tịa án có thể tiến hành thu thập
chứng cứ trong trường hợp pháp luật có quy định. Tuy nhiên Tòa án chỉ tiến hành thu
thập chứng cứ theo quy định của luật Tố tụng dân sự.
Bên cạnh đó, cũng đã xác định nghĩa vụ của chủ thể xác minh, thu thập chứng cứ
nhằm bảo đảm quyền lợi của đương sự, chẳng hạn Tịa án phải thơng báo tài liệu,
chứng cứ đã thu thập được cho đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình
quy định tại khoản 5 Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Khoản 1, Điều 97 xác minh, thu thập chứng cứ:
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ bằng
những biện pháp sau đây:
a) Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thơng điệp dữ liệu điện tử;
b) Thu thập vật chứng;
c) Xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có
liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản
lý;
đ) Yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng;
e) Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu thập tài
liệu, chứng cứ;
g) Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản;
h) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định của
pháp luật.
Trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, Tịa án giải thích cho đương sự biết, nếu
đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ
hoặc không đưa ra đầy đủ chứng cứ thì Tịa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục
chung. Do vậy khi vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở giải quyết, thì Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án phải yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Khi yêu cầu
đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ, Tòa án phải nêu cụ thể chứng cứ cần giao nộp.
Trong quá trình giải quyết vụ việc, Tịa án cần giải thích cho đương sự biết về trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Khi biết


18

chứng cứ đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ quản lý thì đương sự có quyền u
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không
cung cấp chứng cứ cho đương sự thì phải thơng báo bằng văn bản ghi rõ lý do để đương

sự chứng minh với Tòa án là họ đã thu thập chứng cứ nhưng khơng có kết quả và u cầu
Tịa án thu thập chứng cứ.
2.2.5 Giao nộp tài liệu chứng cứ
Xuất phát từ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ cho tòa
án và chứng minh cho yêu cầu của mình tại Điều 06, Khoản Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015 đã quy định quyền và nghĩa vụ trong việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án: Trong
q trình Tịa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài
liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo
đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài
liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu,
chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà khơng có lý do chính đáng thì Tịa án căn cứ vào tài
liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97
của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự.
Do đó, nếu bất kỳ đương sự nào đang quản lý chứng cứ mà không giao nộp cho Tịa
án hoặc khơng nộp đầy đủ chứng cứ cho tịa án thì cũng phải chịu hậu quả của việc không
nộp hoặc nộp không đầy đủ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Giao nộp chứng
cứ chỉ là một hành vi cụ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh cho yêu cầu của đương sự.
Việc giao nộp chứng cứ là một trong những nội dung quan trọng của tranh tụng nên
đương sự phải giao nộp đầy đủ và công khai các tài liệu chứng cứ, trừ trường hợp pháp
luật quy định được giữ bí mật. Xuất phát từ quan điểm đó, tại Khoản 2 Điều 96 BLTTDS
2015 đã quy định rõ trách nhiệm của Tòa án khi tiếp nhận chứng cứ; khi đương sự giao
nộp chứng cứ: Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập biên
bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu,
chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của
người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành hai
bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ. .
Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm,
thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.



19

Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết
định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu,
chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý
do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu,
chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tịa án khơng u cầu đương sự
giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải
quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên
tịa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của
việc giải quyết vụ việc dân sự. (Khoản 4 Điều 96 BLTTDS 2015).
Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án thì họ phải sao gửi tài liệu,
chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối
với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng
cứ không thể sao gửi được thì phải thơng báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc
người đại diện hợp pháp của đương sự khác. (Khoản Điều 96 BLTTDS 2015).
Sở dĩ việc giao nộp chứng cứ phải làm theo đủ thủ tục nêu trên là nhằm không bị
đánh tráo, giả mạo, sửa chữa, thất lạc hoặc hành vi thủ tiêu chứng cớ... Đồng thời, nó
đảm bảo giá trị pháp lý trong quá trình sử dụng
2.2.6 Đánh giá chứng cứ:
Đây là yêu cầu khắt khe nhất mà tòa phải đảm nhiệm và trách nhiệm này là quan
trọng. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, tồn diện, đầy đủ và chính xác.2. Tòa
án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp
pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ. (Điều 108 BLTTDS 2015)
Hoạt động đánh giá chứng cứ của tịa án có tính chất quyết định tới kết quả giải
quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, ngồi việc tn thủ đúng các quy định của pháp luật về
đánh giá chứng cứ thì tịa phải hết sức thận trọng, ti mỉ trong việc đánh giá chứng cứ;
phải xem xét một cách đầy đủ, toàn diện các ý kiến về đánh giá chứng cứ của Luật sư và

những người khác tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
2.2.7 Bảo quản chứng cứ
Bảo quản chứng cứ là giữ gìn giá trị chứng minh của chứng cứ. Việc bảo quản
chứng cứ trong tố tụng dân sự nếu đã được giao nộp cho tòa, hay tịa thu thập được phải



20

trách nhiệm bảo quản chứng cứ đó. Trường hợp chứng cứ đang lưu giữ ở cá nhân, tổ chức
thì người đó có trách nhiệm bảo quản. Trong trường hợp cần giao cho người thứ ba bảo
quản thì thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người
nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về
việc bảo quản chứng cứ đó. (Quy định cụ thể tại Điều 107 BLTTDS 2015).
Chứng cứ phải được bảo quản lâu dài không để bị mất, thất lạc hoặc giảm giá trị
chứng minh. Chứng cứ có thể do đương sự hoặc tòa án lưu giữ. Trường hợp tòa án lưu
giữ thì tịa cần có biện pháp lưu giữ cẩn thận, chu đáo; Bởi, khi giao nhận chứng cứ tại
tòa, tòa án phải có biên bản giao nhận chứng cứ với các đương sự, nếu để mất, thất lạc,
làm giảm hoặc mất giá trị chứng minh thì trách nhiệm hồn tồn thuộc về tòa án dù dưới
bất kỳ một nguyên nhân nào.
2.2.5. Bảo vệ chứng cứ
Điều 110 BLTTDS 2015 quy định:
1. Trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó
có thể thu thập được thì đương sự có quyền đề nghị Tịa án quyết định áp dụng biện pháp
cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Đề nghị của đương sự phải thể hiện bằng văn bản. Tịa
án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số trong các biện pháp niêm phong, thu giữ,
chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác.
2. Trường hợp người làm chứng bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc mua chuộc để
không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Tịa án có quyền quyết
định buộc người có hành vi lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc mua chuộc phải chấm dứt

hành vi đó. Trường hợp hành vi đó có dấu hiệu tội phạm thì Tịa án u cầu Viện kiểm sát
xem xét về trách nhiệm hình sự.
Việc bảo vệ chống lại hành vi xâm phạm chứng cứ để giữ gìn giá trị chứng minh
của chứng cứ có vai trị quan trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự; bởi vậy, tịa án
cần kịp thời, nhanh chóng áp dụng biện pháp bảo vệ chứng cứ khi có yêu cầu, tránh
trường hợp khi tịa áp dụng biện pháp bảo vệ thì chứng cứ đã bị tiêu hủy.


21

KẾT LUẬN
Pháp luật tố tụng dân sự là một biện pháp bảo đảm thực tế cho các quyền và lợi ích
về dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Xuất phát từ bản chất đặc biệt của quá trình tố
tụng là sự độc lập, tự quyết của các đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình thơng qua hoạt động chứng minh - q trình đi tìm sự thật khách quan của vụ
án. Nên vai trị chứng minh của đương sự trong đó nghĩa vụ của đương sự về việc thu
thập, giao nộp chứng cứ cho Tịa án là quan trọng nhất và có tính chất quyết định đến
hoạt động chứng minh của các chủ thể khác.
Trên đây, nhóm đã đi vào nghiên cứu tập trung vào những lý thuyết lý luận cơ bản
về chứng cứ, chứng minh, làm rõ những quy định về quyền và nghĩa vụ trong việc chứng
minh, cung cấp chứng cứ trong bộ luật tố tụng dân sự 2015, phân tích đầy đủ về q trình
thu thập, xác định, xác minh chứng cứ, giao nộp chứng cứ cho Tòa án cũng như việc phải
bảo quản và bảo vệ chứng của Tịa án. Bài làm góp phần giúp các đương sự nâng cao
nhận thức và quyền và nghĩa vụ của mình trong việc chứng minh và cung cấp chứng cứ
khi tham gia tố tụng dân sự, từ đó sẽ phần nào giảm gánh nặng cho công tác xét xử, giải
quyết các vụ việc dân sự của Tịa án. Trong hồn cảnh hiện nay, khi quá trình giao lưu
quốc tế trên mọi lĩnh vực đang diễn ra hết sức sơi động địi hỏi sự tương thích về văn hóa
pháp lý cũng như thông lệ quốc tế. Việc nhận thức một cách đầy đủ về quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong việc thu thập, giao nộp chứng cứ trong tố tụng dân sự và tạo ra
những cơ chế, biện pháp thiết thực, hữu hiệu để các đương sự có thể phát huy được hết

khả năng tích cực của mình là cần thiết.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục văn bản pháp luật.
1) Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, sửa đổi năm 2011
2) Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

Danh mục tài liệu tham khảo khác
1) Cấn Văn Tuấn (2021), Việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố

2)

3)
4)

5)
6)

tụng dân sự năm 2015, Nguồn từ:
truy
cập ngày 11/11/2021
Đoàn Thị Ngọc Hải (2017), Chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nguồn từ:
, truy cập
ngày 11/11/2021.
Lê Thị Thanh Tâm (2017), Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương
sự theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
Nguyễn Thị Thu Sương (2021), Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền trong tố tụng dân sự, Nguồn từ:

truy cập
ngày 11/11/2021
Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr178
Từ điển tiếng Việt (2003), Nxb Đà Nắng, Đà Nẵng, tr 192, tr328



×