Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

(Luận án tiến sĩ) phân tích tác động tiền tố đến thu nhập của hộ sản xuất chỉ dẫn địa chỉ trên địa bàn tỉnh quảng ninh nghiên cứu sinh sản xuất chắn mực hạ long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.93 MB, 173 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
–––––––––––––––––––––––––––

NGUYỄN VÂN THỊNH

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NHẬP
CỦA HỘ SẢN XUẤT SẢN PHẨM MANG CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
Nghiên cứu trường hợp hộ sản xuất Chả mực Hạ Long
Ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 934 04 10

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN KHÁNH DOANH

THÁI NGUYÊN - 2021


ii

LỜI CẢM ƠN
Để có được những kết quả như ngày hôm nay, tôi xin trân trọng cảm ơn
Đảng ủy, Ban Giám hiệu, BCN khoa Quản lý – Luật, các Phòng, Khoa, Bộ môn
và tập thể cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh


Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong q trình học tập và


nghiên cứu.
Tơi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn,
PGS.TS Nguyễn Khánh Doanh, người đã dành nhiều thời gian tận tình chỉ bảo, định
hướng và khuyến khích tơi trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thiện Luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo và chuyên viên Phịng Kinh tế



UBND TP Hạ Long, Sở Cơng thương, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh, Hội sản xuất và kinh doanh
Chả mực Hạ Long, Phòng Kinh tế thị xã Quảng Yên đã hỗ trợ, giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành đến các Thầy, Cô trong Hội
đồng bảo vệ đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho Luận án.
Trong q trình nghiên cứu, hồn thiện Luận án, tơi đã nhận được sự động
viên, chia sẻ, giúp đỡ của gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp. Tơi xin
được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2021
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Vân Thịnh

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu sâu rộng như hiện nay, xu
hướng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, kể cả ở thị trường nội địa lẫn
xuất khẩu ngày càng gia tăng, do đó, phát triển sản xuất nơng nghiệp sạch, an tồn
thực sự trở thành vấn đề cấp thiết. Mơ hình phát triển nơng nghiệp theo hướng nơng
sản sạch dưới hình thức sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý (CDĐL) trong những thập niên
gần đây nhận được sự quan tâm lớn tại nhiều thị trường trên thế giới, như Châu Âu
(cuối những năm 90), Malaysia (từ năm 2002), Nhật Bản (năm 2005), ASEAN và
Trung Quốc (năm 2006) hay GlobalGap Thái Lan (năm 2007).
Thực tế cho thấy, việc phát triển sản xuất sản phẩm mang CDĐL đã mang lại
những lợi ích đáng kể khơng chỉ về mặt kinh tế cho các hộ sản xuất và ngân sách
địa phương mà cịn giúp duy trì và phát huy các giá trị truyền thống quý báu của
nhiều vùng miền. Việt Nam cũng coi đây là hướng đi đúng đắn cần được chú trọng
đầu tư nhằm đảm bảo tính hiệu quả và bền vững trong sản xuất nông nghiệp cho
các hộ sản xuất. Đến nay, với gần 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ (SHTT), Việt Nam luôn xác định CDĐL là một giải pháp quan trọng trong xây
dựng thương hiệu cho sản phẩm nhằm nâng cao giá trị kinh tế và hiệu quả sản
xuất, từ đó, giúp cải thiện thu nhập cho hộ sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, bảo
hộ CDĐL giúp tạo ra sức ép xã hội lớn hơn đối với nạn hàng giả, hàng nhái, song
song với đó là nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng cũng như người sản xuất,
kinh doanh.
Nhận thức được lợi ích đáng kể và tác động tích cực của hoạt động sản xuất sản
phẩm mang CDĐL trên các phương diện kinh tế – xã hội – văn hóa, rất nhiều tỉnh
thành trong cả nước đã nỗ lực xúc tiến xây dựng hồ sơ và xin giấy chứng nhận bảo
hộ cho đặc sản mang CDĐL của địa phương mình. Theo số liệu thống kê của Cục
SHTT, tính đến tháng 10/2019, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH & CN) Việt Nam
đã cấp chứng nhận bảo hộ cho 76 sản phẩm mang CDĐL bao gồm 70 sản phẩm của
Việt Nam và 6 sản phẩm của nước ngoài. Cùng trong xu hướng đó của thế giới cũng
như của Việt Nam, tỉnh Quảng Ninh đã và đang tập trung đầu tư nhiều nguồn lực mũi



2

nhọn cho phát triển chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP), trong đó
các sản phẩm mang CDĐL được xác định đóng vai trị then chốt. Tính đến cuối năm
2016, Quảng Ninh đã đăng ký bảo hộ CDĐL thành công cho bốn sản phẩm tiêu biểu
của tỉnh bao gồm: Chả mực Hạ Long, Mai vàng Yên Tử, Ngán Quảng Ninh và Sá
Sùng Vân Đồn. Có thể nói, việc ghi danh trên bản đồ CDĐL quốc gia đã góp phần
tác động tích cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm mang CDĐL trên
địa bàn tỉnh. Theo đó, thương hiệu sản phẩm ngày càng vươn xa, thị trường tiêu thụ
dần được mở rộng. Bên cạnh đó, số lượng lao động và cơ sở chế biến cũng như thu
nhập của hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL tại Quảng Ninh đều có sự gia tăng qua
các năm.
Tuy nhiên, mức cải thiện thu nhập của các hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói chung, hộ sản xuất Chả mực Hạ Long – sản phẩm mang
CDĐL đầu tiên và tiêu biểu nhất của tỉnh nói riêng, đến nay là chưa nhiều, không đồng
đều và chưa thực sự tương xứng với tiềm năng sẵn có của địa phương. Trên thực tế,
một bộ phận các hộ gia đình trực tiếp tham gia sản xuất sản phẩm mang CDĐL trên
địa bàn tỉnh vẫn chưa lĩnh hội đầy đủ những nội dung cốt lõi liên quan đến CDĐL. Bên
cạnh đó, vẫn cịn nhiều hộ dân chưa thực sự ý thức được những hậu quả nếu sử dụng
sai hoặc không bảo tồn CDĐL cũng như những tác động tiêu cực mà hành vi này có
thể gây ra đối với thu nhập của hộ nói riêng, tình hình kinh tế – văn hóa – xã hội của
địa phương nói chung. Nhằm nâng cao hơn nữa thu nhập cho các hộ sản xuất sản phẩm
mang CDĐL nói chung, hộ sản xuất Chả mực Hạ Long nói riêng, việc nghiên cứu các
nhân tố chính tác động đến thu nhập của các hộ sản xuất này trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh là việc làm cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu nội dung: “Phân tích các
nhân tố tác động đến thu nhập của hộ sản xuất sản phẩm mang Chỉ dẫn địa lý trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh – nghiên cứu trường hợp hộ sản xuất Chả mực Hạ Long” làm đề
tài Luận án của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về ảnh hưởng của các nhóm nhân tố đến thu nhập
của hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL nói chung, căn cứ kết quả phân tích thực trạng


3

tác động của một số nhân tố chính đến thu nhập của hộ sản xuất Chả mực Hạ Long nói
riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đề xuất một số giải pháp giúp cải thiện thu nhập
cho các hộ sản xuất Chả mực Hạ Long trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Luận án hướng đến thực hiện các mục tiêu cụ thể như sau:
Góp phần bổ sung và phát triển lý luận về các nhóm nhân tố tác động đến thu
nhập của hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL cũng như những kinh nghiệm trong và
ngoài nước trong việc phát triển bền vững sản xuất sản phẩm mang CDĐL nhằm cải
thiện thu nhập cho hộ sản xuất kinh doanh loại sản phẩm này.
Thơng qua phân tích thực trạng thu nhập của các hộ sản xuất Chả mực Hạ Long
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, xác định mức độ và chiều hướng tác động của một số
nhân tố chính đến thu nhập của các hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL này.
Đề xuất một số nhóm giải pháp giúp thúc đẩy sản xuất nhằm nâng cao hơn nữa
thu nhập cho các hộ sản xuất Chả mực Hạ Long trên bàn tỉnh Quảng Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án bao gồm: thực trạng thu nhập của các hộ
sản xuất Chả mực Hạ Long và những nhân tố chính tác động đến thu nhập của các hộ
sản xuất Chả mực Hạ Long trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích và đánh giá ảnh hưởng của
một số nhân tố chính đến thu nhập của các hộ sản xuất Chả mực Hạ Long – đại diện
cho nhóm hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp giúp nâng cao thu nhập cho các hộ sản xuất này.

Về không gian: Nghiên cứu được thực hiện chủ yếu tại thành phố Hạ Long,
huyện Vân Đồn và thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Về thời gian: Đề tài được thực hiện dựa trên việc thu thập và nghiên cứu thông
tin liên quan trong giai đoạn 2013 – 2019.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chỉ dẫn địa lý, thu nhập của
hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL và các nhân tố chính ảnh hưởng đến thu nhập của


4

các hộ sản xuất này; qua đó, cung cấp một số cơ sở lý luận và bài học kinh nghiệm
về nâng cao thu nhập cho hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL.
Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học giúp cho những nhà hoạch định
chính sách có góc nhìn tồn diện và chi tiết, từ đó có thể thiết lập và tiến hành có hiệu
quả hơn các chương trình, chính sách liên quan đến phát triển sản xuất sản phẩm mang
chỉ dẫn địa lý nhằm góp phần cải thiện thu nhập cho các hộ sản xuất cũng như ổn định
tình hình kinh tế – xã hội của địa phương.
5. Đóng góp của luận án
Về mặt lý luận:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý
luận và thực tiễn về các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ sản xuất sản phẩm mang
CDĐL. Luận án đã phân tích và rút ra những bài học kinh nghiệm phù hợp về phát
triển sản xuất, cải thiện thu nhập cho các hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL có tiềm
năng ứng dụng hiệu quả tại địa bàn nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn:
Luận án là nghiên cứu đầu tiên, mang tính hệ thống và chuyên sâu về các nhân tố
có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, cụ thể là với sản phẩm Chả mực Hạ Long. Luận án sử dụng kết hợp các
phương pháp nghiên cứu truyền thống với phương pháp nghiên cứu hiện đại, phương

pháp nghiên cứu định tính với phương pháp nghiên cứu định lượng.
Luận án đã góp phần làm rõ thực trạng hoạt động và thu nhập của các hộ sản
xuất Chả mực Hạ Long, đồng thời đã phân tích, đánh giá được chiều hướng và mức độ
ảnh hưởng của một số nhân tố chính đến thu nhập của hộ sản xuất Chả mực Hạ Long
cũng như của hộ sản xuất chả mực không mang CDĐL trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Từ đó, chỉ ra được những thành công, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong
phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho hộ sản xuất Chả mực Hạ Long.
Luận án đã đề xuất được hệ thống các giải pháp khá toàn diện về phát triển sản
xuất, nâng cao thu nhập cho hộ sản xuất Chả mực Hạ Long, góp phần thực hiện thành
cơng chương trình OCOP Quảng Ninh cũng như mục tiêu phát triển tổng hòa kinh tế
– văn hóa – xã hội – du lịch của địa phương này trong những năm tới.


5

6. Bố cục của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Kiến nghị, Tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được bố cục thành 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập
của hộ sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Thực trạng về tác động của một số nhân tố chính đến thu nhập của
hộ sản xuất Chả mực Hạ Long trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Chương 5: Giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ sản xuất Chả mực Hạ Long trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh


6


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

Thông qua việc tổng hợp, so sánh, phân tích các cơng trình nghiên cứu quốc tế
và các cơng trình nghiên cứu trong nước liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến
thu nhập của hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL, nghiên cứu sinh đúc kết những điểm
mạnh, những hạn chế cũng như tìm ra khoảng trống nghiên cứu của các cơng trình
trước đó nhằm kế thừa và phát triển trong luận án của mình.
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Đã có rất nhiều các nghiên cứu về CDĐL được công bố, trong đó có các bài
tham luận tại các hội thảo trong khuôn khổ Hiệp định TRIPs hoặc dưới dạng sách
chuyên khảo, tiêu biểu có thể kể đến một số nghiên cứu về các nội dung như sau:
1.1.1. Tác động của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đối với kinh tế - xã hội:
Mặc dù có một số khác biệt trong quan điểm khi bàn về tác động kinh tế – xã
hội của CDĐL, tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu đều thống nhất rằng có những lợi
ích quan trọng gắn với CDĐL. Cụ thể, trong nghiên cứu “Chỉ dẫn địa lý, hàng hóa
cơng cộng và phát triển bền vững: Vai trị của chiến lược và chính sách cơng” cùng
các cộng sự, Belletti (2017) đã khẳng định lợi ích thực tế của sản xuất sản phẩm mang
CDĐL đối với cải thiện thu nhập của người dân và nâng cao đời sống kinh tế - xã hội
của địa phương. Để đạt được những tác động tích cực này khơng hề đơn giản, phụ
thuộc rất lớn vào hiệu quả của cách thức sử dụng và khai thác chúng. Ngoải ra, để có
thể khai thác hiệu quả địi hỏi phải có sự hỗ trợ tích cực cũng như những nỗ lực đồng
bộ của chính quyền và người dân, đặc biệt là các hộ sản xuất và doanh nghiệp. Đồng
quan điểm, các nhóm tác giả nghiên cứu về tác động của CDĐL tại Châu Âu (Arfini
và cộng sự, 2019; Barjolle và Sylvander, 2002), Châu Phi (Biénabe và Marie-Vivien,
2017) và một số quốc gia đang phát triển (Bramley và Biénabe, 2012; Grote và cộng
sự, 2009) cũng chỉ ra rằng tác động của CDĐL thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào quá
trình sản xuất sản phẩm mang CDĐL cũng như những tác động này là không đồng
nhất giữa các quốc gia, vùng, ngành và mã sản phẩm. Các nghiên cứu này chủ yếu
căn cứ trên cơ sở phương pháp luận và sử dụng phân tích định tính từ việc quan sát



7

thực tế với một số sản phẩm mang CDĐL điển hình khi xem xét, khám phá các tác
động của CDĐL đối với tình hình kinh tế – xã hội của các quốc gia. Tuy nhiên, theo
quan điểm của nghiên cứu sinh, nếu nhóm tác giả cung cấp được nhiều hơn những
bằng chứng thực nghiệm cũng như kết hợp sử dụng phương pháp định lượng trong
phân tích ảnh hưởng của CDĐL, các kết quả nghiên cứu có lẽ sẽ thực sự thuyết phục
và đạt độ tin cậy rất cao.
Trong tuyển tập nghiên cứu về “Chứng nhận xuất xứ cho hàng thực phẩm: phát
triển địa phương, chứng nhận toàn cầu” của Barjolle và cộng sự (2009), nhóm tác
giả sử dụng dữ liệu trong một chương trình nghiên cứu tại Châu Âu để đánh giá tác
động của các hệ thống CDĐL theo lãnh thổ. Theo đó, 14 sản phẩm mang CDĐL được
các tác giả nhóm Barjolle sử dụng để đối sánh với nhau, kết quả cho thấy rằng những
lợi ích về mặt kinh tế là động cơ duy nhất trong việc thực hiện các đề án bảo hộ sản
phẩm mang CDĐL. Tuy nhiên, nhóm tác giả cũng chỉ ra rằng việc thực hiện bảo hộ
sản phẩm mang CDĐL có thể dẫn đến tình trạng độc quyền cao hơn trong việc tiêu
thụ sản phẩm, điều này đồng nghĩa với việc những hộ sản xuất nhỏ đối mặt nguy cơ
mất khả năng tiếp cận thị trường cao hơn (Anders và Caswell, 2009). Đứng trước
thực trạng đó, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị về việc thiết lập bảo hộ CDĐL
trong quá trình phát triển chung về nông nghiệp và nông thôn (Blakeney và cộng sự,
2012) như: cần xác định cụ thể vai trò của các tổ chức, cá nhân tham gia nhằm đảm
bảo rằng CDĐL không thuộc về một công ty nào hay bất cứ một cá nhân riêng lẻ nào.
Thêm vào đó, các chính sách nơng nghiệp, phát triển nơng thơn, các quy định an tồn
thực phẩm và các chính sách chống độc quyền (Bicen và Malter, 2019) cũng cần được
quan tâm hơn nữa nhằm phát huy những tác động tích cực của CDĐL với sự phát
triển bền vững chung. Bên cạnh đó, sau khi đăng ký, các quy tắc ứng xử giữa các bên
cần được thiết lập chi tiết, tránh những vấn đề tiêu cực có thể phát sinh giữa các đơn
vị cùng sử dụng tên, mẫu mã sản phẩm mang CDĐL. Có thể nói, nghiên cứu của

Barjolle và cộng sự (2009) là một trong những đề tài có độ rộng nghiên cứu tiêu biểu
với 14 mẫu sản phẩm mang CDĐL đặc trưng, đảm bảo tính đại diện cao, là căn cứ để
suy rộng tổng thể cho các nghiên cứu liên quan.


8

Cũng lựa chọn điểm nghiên cứu là Châu Âu, cụ thể là quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ,
trong bài viết “Cách tiếp cận kinh tế học thể chế mới đối với chuỗi cung ứng sản
phẩm mang Chỉ dẫn địa lý”, Bicen và Malter (2019) thực hiện xem xét những tác
động kinh tế của CDĐL tới đối tượng là các nhà sản xuất. Theo đó, kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng việc sản xuất các sản phẩm mang CDĐL tại châu Âu trong nhiều
trường hợp đã góp phần phát triển nơng thơn, mặc dù mức độ phát triển là không
như nhau giữa các vùng và các loại sản phẩm khác nhau (Barcala và cộng sự, 2016).
Bên cạnh đó, tác giả cũng khẳng định sự cần thiết của việc bảo hộ theo quy chế
nhằm đảm bảo các lợi ích kinh tế – xã hội chung phát sinh theo hướng có lợi cho
cộng đồng người sản xuất (Belletti và cộng sự, 2017; Folkeson, 2005) và các tác
nhân liên quan. Để phân tích ảnh hưởng của CDĐL với phát triển nông thôn tại một
số quốc gia được lựa chọn nghiên cứu ở Châu Âu, tác giả tập trung xem xét một số
nhóm chỉ tiêu như giá trị doanh thu và xuất khẩu của các sản phẩm mang CDĐL.
Theo quan điểm của nghiên cứu sinh, việc xem xét ảnh hưởng của CDĐL với phát
triển nông thôn không nên chỉ dừng lại ở việc cải thiện doanh thu cho các sản phẩm
hay mở rộng quy mô xuất khẩu cho các sản phẩm mang CDĐL (Anselm, 2010) mà
còn là tác động tới cuộc sống của người dân địa phương nói chung, người sản xuất
nói riêng tại khu vực đang nghiên cứu. Đây là hướng nghiên cứu mà nghiên cứu
sinh lựa chọn khai thác để kế thừa và tiếp tục thực hiện trong đề tài của mình.
Cùng mối quan tâm đến tác động của CDĐL đối với đời sống kinh tế - xã hội,
nhóm tác giả Jena và Grote (2010) lựa chọn một quốc gia tại châu Á là Ấn Độ khi
thực hiện nghiên cứu “Đánh giá tác động của việc canh tác lúa Basmati truyền thống
ở tỉnh Uttarakhand, miền Bắc Ấn Độ: xem xét ý nghĩa đối với phát triển các Chỉ dẫn

địa lý”. Với nghiên cứu này, nhóm tác giả đã góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý
luận liên quan đến CDĐL theo hai phương diện: Thứ nhất, CDĐL là một trong các
loại giấy tờ thực nghiệm đầu tiên cung cấp bằng chứng về sản xuất sản phẩm mang
CDĐL; Thứ hai, sản phẩm mang CDĐL góp phần tăng các phúc lợi (Bicen và Malter,
2019) cho các hộ gia đình tham gia sản xuất. Để thực hiện nghiên cứu, các tác giả đã
tiến hành khảo sát 300 hộ nơng dân tại tỉnh Uttarakhand ở phía Bắc Ấn Độ. Các hộ
gia đình tham gia phỏng vấn được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên


9

phân tầng bao gồm cả nông dân trồng lúa mang CDĐL (gạo Basmati) và nông dân
trồng các cây trồng khác không mang CDĐL trong cùng khu vực. Thông qua thực
hiện phân tích, đối sánh tổng lợi nhuận và lợi ích ròng, kết quả nghiên cứu cho thấy
gạo Basmati đem lại lợi nhuận cao hơn nhiều so với những cây trồng khác (cây mía)
khơng mang CDĐL ở cùng địa phương (Barcala, 2016). Ngồi ra, cũng trong nghiên
cứu này, nhóm tác giả đã chỉ ra một số yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất
sản phẩm mang CDĐL (gạo Basmati) như khả năng tiếp cận chính sách, số lao động
trong hộ gia đình. Việc tác giả vận dụng hai phương pháp là phương pháp phân tích
lợi ích biên và phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) trong nghiên cứu đã giúp
kết quả của đề tài này được nhiều nhà kinh tế đánh giá cao về độ tin cậy. Tuy nhiên,
một số ý kiến cho rằng khi xem xét sự khác biệt giữa nhóm sản phẩm có CDĐL và
khơng có CDĐL, để đảm bảo tính đồng nhất trong phân tích, đối sánh tác giả nên
thực hiện đối với cùng một loại sản phẩm thay vì lựa chọn hai loại sản phẩm khác
nhau như trên (gạo Basmati và mía). Cùng quan điểm với luồng ý kiến trên, nghiên
cứu sinh quyết định thực hiện nghiên cứu đối với cùng một loại sản phẩm là Chả mực,
chia theo 2 nhóm: nhóm mang CDĐL và nhóm khơng mang CDĐL tại cùng địa
phương.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ sản xuất nói chung, hộ sản xuất
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nói riêng

Các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ sản xuất cũng nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Cụ thể:
Các nhóm nghiên cứu Abdulai và cộng sự (2001), Demurger và cộng sự (2010),
Flora và cộng sự (2008), Janvry và cộng sự (2001), Okurut và cộng sự (2004) hay
Yang (2004) căn bản đều cho rằng thu nhập của hộ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
bao gồm vốn, trình độ học vấn của chủ hộ, kinh nghiệm sản xuất, số lao động, khả
năng đa dạng hóa thu nhập, cơ hội tiếp cận thị trường. Gần đây, nhóm tác giả Klasen
và cộng sự (2013) trong nghiên cứu về “Lựa chọn cây trồng và động lực thu nhập ở
các vùng nông thôn: bằng chứng cho Indonesia sau khủng hoảng” cũng chỉ ra rằng
trình độ học vấn của chủ hộ càng cao thì hộ gia đình càng giàu có. Ngồi ra, do người
có trình độ, học vấn cao dễ dàng tiếp cận, ứng dụng những kiến thức khoa học, công


10

nghệ, quy trình sản xuất mới nên có nhiều khả năng chuyển hướng sang sản xuất sản
phẩm mang CDĐL. Nguồn dữ liệu thu thập được thông qua phỏng vấn các hộ dân tại
địa phương là căn cứ then chốt cho các nghiên cứu này. Bên cạnh đó, các nhóm tác
giả cũng vận dụng linh hoạt phương pháp luận với phương pháp nghiên cứu định
lượng như hàm sản xuất Cobb-Douglas, mô hình bình phương nhỏ nhất OLS hay hồi
quy Logit khi phân tích mức độ tác động của các nhân tố đến thu nhập của hộ. Quy
mô mẫu khảo sát của các nghiên cứu này khá đa dạng cả về độ rộng và chiều sâu,
được thực hiện với nhiều sản phẩm tiêu biểu, có tính đại diện cho quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ, qua đó giúp phác họa bức tranh khái quát về mối quan hệ giữa một số nhóm
nhân tố chính với thu nhâp của hộ sản xuất.
Nội dung liên quan đến cầu và thị trường cho sản phẩm mang CDĐL đã được ghi
nhận về mặt lý thuyết bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau trên thế giới, tiêu biểu có
thể kể đến Grunert và Aachmann (2016), Jantyik và Tưrưk (2020), Kolady và cộng sự
(2010), Likoudis và cộng sự (2016) hay Moschini và cộng sự (2008). Kết luận chung
trong nghiên cứu của các nhóm tác giả này đó là sản phẩm mang CDĐL có vai trị

quyết định trong việc định hướng thị trường, thu hút khách hàng (Maina và cộng sự,
2019) nhờ lợi thế về thương hiệu và chất lượng được đảm bảo bởi cơ quan chuyên môn
nhà nước. Đồng thời, các tác giả cũng khẳng định cầu và thị trường là hai nhân tố quan
trọng, có tác động trực tiếp đến giá trị của sản phẩm mang CDĐL (Mattos và cộng sự,
2012) trên thị trường, do đó, có mối liên hệ mật thiết và ảnh hưởng không nhỏ đến thu
nhập của những người tham gia sản xuất kinh doanh loại sản phẩm này. Kết quả nghiên
cứu “Chỉ dẫn địa lý và tiềm năng cạnh tranh trên thị trường nông sản” của Moschini
và cộng sự (2008) cho thấy trong hai cuộc khảo sát được tiến hành vào năm 1996 và
1999 tại châu Âu, có lần lượt khoảng 11 phần trăm và 20 phần trăm trong số hơn 16.000
người tiêu dùng cho biết họ lựa chọn và tin dùng các sản phẩm mang CDĐL so với các
sản phẩm cùng loại không mang CDĐL. Cụ thể, trong cuộc khảo sát năm 1999, nhóm
tác giả đã chỉ ra hai động lực chính của hành vi mua sản phẩm mang CDĐL bao gồm:
sự tin tưởng vào bảo lãnh xuất xứ sản phẩm (37 phần trăm) và chất lượng hảo hạng (35
phần trăm) của sản phẩm có được do điều kiện thổ nhưỡng và phương thức sản xuất
đặc thù. Ngoài ra, khoảng 43 phần trăm người tiêu dùng châu Âu được khảo sát cho
biết họ sẵn sàng trả khoản tiền trội thêm (Berenguer, 2004; Bienenfeld và Roe, 2014)


11

tương đương 10 phần trăm giá trị cho một sản phẩm mang CDĐL. Như vậy, có thể
thấy, căn nguyên sâu sa của lượng cầu cao và mức sẵn sàng chi trả (Likoudis, 2016)
hào phóng mà người tiêu dùng giành cho sản phẩm mang CDĐL là nhờ danh tiếng và
chứng nhận bảo hộ SHTT sản phẩm đó đạt được. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng
khẳng định vai trị tích cực của các kênh xúc tiến thương mại (Reviron và cộng sự,
2009) trong việc góp phần quảng bá hình ảnh về sản phẩm mang CDĐL với chất lượng
ưu tú và phương pháp sản xuất độc đáo đến gần hơn với đa dạng thị trường.
Một bằng chứng khác về tác động kinh tế của sản phẩm mang CDĐL ở các nước
đang phát triển được thể hiện trong nhiều nghiên cứu, tiêu biểu như “Tác động kinh
tế của CDĐL đối với các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển: So sánh giữa

trà Darjeeling và trà Oolong” của Kolady và cộng sự (2011), “Chỉ dẫn địa lý: sự
hình thành và phân phối giá trị kinh tế ở các nước đang phát triển” của Reviron
(2009) hay cơng trình thực nghiệm với sản phẩm trà xanh Boseong tại Hàn Quốc
của Suh và MacPherson (2007). Cụ thể, trong đề tài nghiên cứu “Tác động của Chỉ
dẫn địa lý đối với sự hồi sinh của nền kinh tế khu vực: nghiên cứu điển hình trường
hợp trà xanh “Boseong”, Suh và MacPherson (2007) đã thực hiện phân tích dựa
trên dữ liệu sơ cấp thu thập được thơng qua các cuộc phỏng vấn sâu đối với 18 hộ
chế biến và một số đại diện cơ quan chức năng trực tiếp quản lý hoạt động sản xuất
trà xanh mang CDĐL Boseong. Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu gần như hoàn hảo
cộng với gần 1600 năm lịch sử kinh nghiệm đã đem đến hương vị độc đáo, thượng
hạng cho sản phẩm trà xanh vùng Boseong. Kết quả cho thấy chỉ sau sáu năm được
cơng nhận CDĐL, diện tích trồng, số lượng lao động, sản lượng và giá trị thương
hiệu trà xanh Boseong gia tăng nhanh chóng, cùng với đó lượng khách du lịch
(Bowen, 2010) đến các vùng Boseong cũng tăng gấp ba lần. Với mức giá của trà
xanh tăng hơn 90 phần trăm so với trước khi có CDĐL, thu nhập của các hộ sản
xuất và chế biến trà xanh Boseong đã được cải thiện đáng kể so với của các hộ sản
xuất trà Oolong (Kolady và cộng sự, 2011). Nghiên cứu cũng chỉ ra thực tế rằng các
hộ sản xuất trà xanh Boseong quy mô lớn hơn thu được lợi nhiều hơn các hộ quy
mô vừa và nhỏ nhờ lợi thế về các nguồn lực tổng hợp (Reviron và cộng sự, 2009).
Bên cạnh đó, CDĐL khơng chỉ giúp nâng cao thu nhập đáng kể cho các hộ sản xuất
trà xanh mà cịn tác động tích cực đến nguồn thu của một số ngành chế biến thực


12

phẩm và kinh doanh du lịch (Sorgho và Larue, 2016; Vandecandelaere và cộng sự,
2018) trong khu vực Boseong.
Ở một khía cạnh khác, theo kết quả nghiên cứu của Jayasinghe và Henson
(2006) trong “Động lực kinh tế cho các doanh nghiệp thực hiện kiểm sốt an tồn
thực phẩm: Nghiên cứu trường hợp ngành chế biến thịt đỏ và gia cầm của Canada”,

đầu tư của doanh nghiệp có thể trở thành nhân tố bổ trợ đắc lực cho hộ sản xuất, là
sự cộng sinh cần thiết để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển sản xuất sản phẩm mang
CDĐL. Trong nghiên cứu của mình, nhóm tác giả chỉ ra mối quan hệ chuỗi giá trị kết
hợp giữa đầu tư của doanh nghiệp và đầu tư của hộ (Calboli, 2017), trong đó đầu tư
doanh nghiệp sẽ bổ sung vốn và vật tư đầu vào và chịu trách nhiệm tìm kiếm thị
trường tiêu thụ đầu ra cịn hộ gia đình sẽ chịu trách nhiệm sản xuất chính tạo ra sản
phẩm chất lượng. Các tác giả chỉ ra rằng, trên thực tế, trong khi hầu hết các doanh
nghiệp nhỏ gặp rất nhiều khó khăn hoặc quan tâm chưa đúng mức đến vấn đề an toàn
thực phẩm, các doanh nghiệp lớn hơn thường thực hiện tốt hơn công tác này (Bicen
và Malter, 2019). Trong khi đó, chất lượng là một trong những điều kiện tiên quyết
đối với sản phẩm mang CDĐL, vì vậy, hỗ trợ đầu tư từ các doanh nghiệp lớn là vô
cùng cần thiết (Chabrol và cộng sự, 2015), nhất là với các cở sở sản xuất quy mô nhỏ
hay hộ sản xuất kinh doanh cá thể nhằm đảm bảo tiêu chí vệ sinh, an toàn và chất
lượng. Tuy nghiên cứu chưa đưa ra được mô tả định lượng mà vận dụng chủ yếu
phương pháp nghiên cứu định tính dựa trên kết quả phỏng vấn sâu 34 nhà quản lý,
nhưng cũng đã góp phần phác họa mối tương quan dương giữa đầu tư của doanh
nghiệp với quyết định sản xuất của nông hộ nói chung, thu nhập của hộ sản xuất sản
phẩm mang CDĐL nói riêng.
Phương pháp tiếp cận chủ quan nhằm xác định có hay khơng tác động thuận
chiều của chính sách hỗ trợ địa phương và quy mô phân phối với hình ảnh, sức
hấp dẫn của sản phẩm cũng như thu nhập của người sản xuất được nhiều nhóm
tác giả như Barjolle và cộng sự (2004), Grunert và Aachmann (2016) hay Lotti
(2010) Likoudis và cộng sự (2016) sử dụng khi nghiên cứu về chuỗi cung ứng
các sản phẩm nông nghiệp mang CDĐL. Cụ thể, sau thời gian nghiên cứu các
chuỗi cung ứng bơ mang CDĐL của khu vực phía bắc dãy Alps, kết quả nghiên


13

cứu “Dự định của người tiêu dùng về việc mua thực phẩm có chỉ dẫn xuất xứ và

chỉ dẫn địa lý được bảo hộ: Nghiên cứu trường hợp Hy Lạp” của Likoudis và
cộng sự (2016) chỉ ra rằng tuy được hưởng mức trợ giá ít hơn, giá bán lại cao
hơn khá nhiều nhưng thị phần (Lotti, 2010) cũng như thu nhập của các nhà sản
xuất bơ tại vùng sở hữu CDĐL luôn ngang bằng hoặc cao hơn so với của các nhà
sản xuất bơ thơng thường trong nước. Nhóm tác giả đưa ra lý giải cho thực trạng
này là chất lượng vượt trội và danh tiếng được bảo hộ của bơ mang CDĐL đã tạo
nên sức hút cho giỏ hàng hóa đối với đa dạng thị trường cũng như giúp gia tăng
mức sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng cho sản phẩm này (Jantyik và Tưrưk,
2020). Ngồi ra, các hoạt động quảng bá du lịch hay triển lãm thương mại (Jena
và Grote, 2010) của chính quyền địa phương (Marie-Vivien và Biénabe, 2017) cũng
góp phần quan trọng trong việc phát triển hình ảnh thương hiệu bơ Abondance
khơng chỉ trong khu vực dãy Alps mà cịn ra tồn thế giới, giúp đem lại nguồn
thu đáng kể cho người sản xuất khi lượng khách đến các địa phương này tăng
cao.
Trong khi đó, các nhóm nghiên cứu như Jantyik và Tưrưk (2020), Krystallis
và cộng sự (2006) hay Likoudis và cộng sự (2016) tập trung xem xét mức sẵn sàng
chi trả của thị trường đối với các thực phẩm hữu cơ đặc biệt, trong đó có sản
phẩm mang CDĐL. Theo kết quả nghiên cứu về “Thị hiếu của người tiêu dùng,
vấn đề về marketing và các cơ hội cho những sản phẩm mang CDĐL khơng có
nguồn gốc từ Liên minh châu Âu: Kinh nghiệm cho Brazil, Serbia và Thái Lan”
của Canavari và cộng sự (2017), mức giá vượt trội cho thấy sức hút của sản phẩm
mang CDĐL trên thị trường chủ yếu có được do sự đảm bảo về chất lượng vượt
trội, độ an tồn cũng như danh tiếng của sản phẩm đó. Qua nghiên cứu, nhóm tác
giả chỉ ra một số đặc điểm chung của đối tượng khách hàng cho loại sản phẩm
này bao gồm: có thu nhập ở mức khá và ổn định, nắm bắt thông tin thị trường
nhanh và rất coi trọng vấn đề sức khỏe. Trong khi đó, chứng nhận thương hiệu,
đặc biệt là bảo hộ CDĐL được xem như cam kết đảm bảo về chất lượng của sản
phẩm (Mattos và cộng sự, 2012). Vì vậy, những sản phẩm có mang CDĐL với
chất lượng tốt, nguồn gốc rõ ràng sẽ tạo được niềm tin nơi người tiêu dùng,



14

khuyến khích hình thành hành vi mua hàng cũng như mức sẵn lịng chi trả, từ đó,
góp phần nâng cao thu nhập cho người sản xuất các sản phẩm này.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việt Nam từ sau những năm 2005, cùng với sự phát triển của hệ thống luật pháp
về SHTT, vấn đề bảo hộ các sáng tạo trí tuệ, việc quy hoạch vùng sản xuất nơng sản
an tồn, trong đó có sản phẩm mang CDĐL, cũng nhận được sự quan tâm của khá
nhiều nhà nghiên cứu.
1.2.1. Sinh kế của hộ sản xuất nơng nghiệp nói chung, hộ sản xuất sản phẩm mang
chỉ dẫn địa lý nói riêng dưới góc nhìn kinh tế học
Cùng sử dụng phương pháp OLS để ước lượng mơ hình hồi quy các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập hộ trồng lúa, tuy nhiên nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Lân
Duyên (2014), Lê Xuân Thái (2014) và Phan Hoàng Tiến (2011) được thực hiện tại
các địa phương khác nhau. Cụ thể, Lê Xuân Thái (2014) sử dụng phương pháp OLS
trong phân tích, đánh giá kết quả khảo sát thu nhập của 190 hộ trồng lúa trên địa bàn
huyện Long Hồ và Bình Tân tỉnh Vĩnh Long. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân
tố như: trình độ học vấn của chủ hộ, số lượng lao động, diện tích đất canh tác, chi phí
sản xuất và sự tham gia các tổ chức địa phương có tác động thuận chiều đến việc gia
tăng thu nhập bình qn cho hộ trồng lúa. Trong khi đó, Nguyễn Lân Duyên (2014)
tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp từ 598 hộ được lựa chọn ngẫu nhiên tại tỉnh An
Giang khi thực hiện nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở
An Giang”. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng bên cạnh các yếu tố như trình độ học
vấn, diện tích canh tác, số lao động trong gia đình thì yếu tố khoảng cách từ nơi sản
xuất đến trung tâm, cũng như lượng vốn và lãi suất có ảnh hưởng lớn đến thu nhập
của nông hộ. Đặc biệt, những hộ sống gần đô thị thì sẽ có cơ hội cải thiện thu nhập
bởi có thể bán được sản phẩm trực tiếp với giá cao hơn trong khi chi phí vận chuyển
và bảo quản rẻ hơn. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất tăng cường đầu tư phát triển
mạng lưới giao thông nơng thơn, kết nối trung tâm hành chính xã, thị trấn với nông

hộ nhằm phục vụ cho việc vận chuyển sản phẩm dễ dàng và nhanh chóng đến tay
người tiêu dùng. Hai nghiên cứu này, đặc biệt là nghiên cứu của Nguyễn Lân Duyên
(2014) được đánh giá cao bởi độ rộng của mẫu khảo sát cũng như những phân tích
sắc bén của tác giả. Nếu việc lựa chọn mẫu đại diện được lý giải sâu hơn, đây sẽ là


15

những căn cứ đáng tin cậy để suy rộng ra tổng thể, có thể áp dụng cho nhiều địa
phương khác có đặc điểm tương đồng.
Trong nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình ở khu
vực nơng thơn huyện Trà Ơn, tỉnh Vĩnh Long” của Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự
(2011), nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp định lượng để xác định các nhân tố
ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Vĩnh Long. Dữ liệu sơ cấp thu thập
từ phỏng vấn trực tiếp 182 hộ gia đình là căn cứ chính để tiến hành phân tích. Vận
dụng kỹ thuật sử dụng hồi quy đa biến, kết quả mơ hình OLS chỉ ra các nhân tố chính
tác động đến thu nhập của hộ bao gồm kinh nghiệm làm việc của chủ hộ, trình độ học
vấn của chủ hộ, số lượng thành viên trong hộ gia đình, sự tham gia vào các tổ chức
xã hội và số hoạt động tạo ra thu nhập. Một điểm chung nữa trong ba nghiên cứu này
đó là các tác giả cùng sử dụng khung phân tích sinh kế bền vững của DFID làm cơ
sở cho nghiên cứu của mình và cơ bản đã lượng hóa nội hàm của một số nhân tố chính
ảnh hưởng đến thu nhập của hộ sản xuất. Theo đó, trong khung phân tích sinh kế bền
vững, có năm nhóm nguồn lực tác động đến sinh kế của hộ sản xuất: nguồn lực tự
nhiên, nguồn nhân lực, nguồn lực xã hội, nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất.
Khi bất cứ nguồn lực nào đó thay đổi, thì thu nhập của hộ gia đình sẽ thay đổi bởi thu
nhập là một trong những thước đo quan trọng biểu thị cho sinh kế. Nếu tác giả bổ
sung nội dung phân biệt thước đo cho mỗi nhóm nguồn lực thì hàm lượng khoa học
sẽ thực sự phong phú.
Nhóm tác giả Huỳnh Thị Đan Xuân và Mai Văn Nam (2011) thực hiện nghiên
cứu “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ chăn nuôi gia cầm ở

Đồng bằng sông Cửu Long” dựa trên kết quả khảo sát 307 nông hộ tại 5 tỉnh ở Đồng
bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm Long An, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng
Tháp và Trà Vinh. Kết quả ước lượng chỉ ra rằng, việc đa dạng hóa hoạt động tạo
thu nhập đã góp phần cải thiện thu nhập cho các hộ chăn ni. Ngồi ra, nghiên cứu
cũng cho thấy diện tích đất, vốn vay, trình độ văn hóa, số năm kinh nghiệm và khả
năng tiếp cận tín dụng (cả chính thức và phi chính thức) là những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến thu nhập của nơng hộ. Khi hộ chăn ni có diện tích càng nhiều thì
càng thuận lợi và chủ động trong việc lựa chọn hay tham gia hoạt động tọa thu nhập
mà họ cho là phù hợp với điều kiện gia đình. Trong điều kiện các yếu tố khác không


16

đổi khi diện tích đất của hộ tăng 0,1ha thì tổng thu nhập sẽ tăng 2,56 triệu đồng/năm
hay khoảng 210.000 đồng/tháng. Nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi không
gian rộng, các địa phương được lựa chọn có tính đại diện cao cho khu vực ĐBSCL,
tuy nhiên, phương pháp chọn mẫu chưa được trình bày thực sự cụ thể.
Đề tài “Hoàn thiện chuỗi cung ứng sản phẩm Chả mực Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh” của Đặng Hồng Hưng (2018) có thể xem là nghiên cứu gần đây nhất tại Việt
Nam có nội dung tập trung và sâu sát về chuỗi giá trị của sản phẩm mang CDĐL tại
một địa phương thuộc khu vực Đông Bắc. Cụ thể, tác giả lựa chọn Chả mực Hạ Long
– sản phẩm mang CDĐL đầu tiên của tỉnh Quảng Ninh làm sản phẩm nghiên cứu. Với
số lượng quan sát là 180 chia đều cho 6 nhóm tác nhân (người cung cấp mực nguyên
liệu, người thu gom, người sản xuất, người bán buôn, người bán lẻ, người tiêu dùng)
trong chuỗi cung ứng Chả mực Hạ Long, tác giả đi sâu phân tích đặc điểm, vai trị cũng
như những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của chuỗi cung ứng này. Ngoài
các phương pháp nghiên cứu quen thuộc, tác giả còn vận dụng phương pháp lập sơ đồ
chuỗi cung ứng và phân tích kinh tế chuỗi dựa trên các chỉ tiêu kinh tế chính như giá
trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị gia tăng, thu nhập của mỗi nhóm tác nhân và thu
nhập hỗn hợp. Thơng qua đó, nghiên cứu khẳng định vai trị quan trọng của việc gắn

kết các tác nhân xuyên suốt chuỗi cung ứng nhằm đảm bảo chất lượng, nâng cao lợi
thế cạnh trạnh cho Chả mực Hạ Long, từ đó, cải thiện thu nhập cho các nhóm tác nhân,
đặc biệt là nhóm hộ sản xuất, cũng như góp phần phát triển một số lĩnh vực kinh tế-xã
hội liên quan tại địa phương.
1.2.2. Các nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến sinh kế của hộ sản xuất nơng nghiệp
nói chung, hộ sản xuất sản phẩm mang Chỉ dẫn địa lý nói riêng
Trong những năm gần đây, khá nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến các
nhân tố tác động đến sinh kế của hộ sản xuất nơng nghiệp, trong đó có hộ sản xuất
sản phẩm mang CDĐL tại Việt Nam đã được công bố. Nét tương đồng rõ nhất giữa
các nghiên cứu này thể hiện ở việc đa số đều vận dụng khung sinh kế bền vững DFID
(2000) và mơ hình lượng hóa OLS cũng như lấy số liệu sơ cấp làm căn cứ chính trong
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình cũng như mối quan hệ
giữa chúng. Theo đó, các nhân tố chính được xác định ảnh hưởng đến thu nhập của
hộ gia đình trong các nghiên cứu này bao gồm:


17

+) Đặc điểm của hộ: Hộ sản xuất đóng vai trị rất quan trọng trong sản xuất, do
đó, muốn xây dựng thành cơng mơ hình sản xuất sản phẩm mang CDĐL thì cần quan
tâm nghiên cứu rất kỹ về đặc điểm hộ sản xuất để có những phương pháp hợp lý nhằm
khuyến khích và tác động làm thay đổi tư duy đầu tư của hộ, thuyết phục hộ sản xuất
theo đúng quy chuẩn, đảm bảo chất lượng sản phẩm cung ứng, giữ uy tín và hình ảnh
của sản phẩm trên thị trường. Các đặc điểm của hộ cần được xem xét bao gồm: giới
tính của chủ hộ (Nguyễn Trọng Hồi, 2010); kinh nghiệm của chủ hộ (Bùi Quang
Bình, 2010; Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự, 2011); quy mô hộ gia đình (Đinh Phi Hổ,
2003); trình độ học vấn của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là của chủ hộ (Bùi
Quang Bình, 2008; Trương Đơng Lộc và Đặng Thị Thảo, 2011; Mai Văn Nam và Đinh
Công Thành, 2011; Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự, 2011)
+) Điều kiện sản xuất: Trong nghiên cứu của Lê Văn Dũng và Nguyễn Quang

Trường (2011) hay Huỳnh Thị Đan Xuân (2012), điều kiện sản xuất nơng nghiệp
được xác định là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới năng lực và hiệu quả sản xuất trong
lĩnh vực nơng nghiệp, từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của hộ sản xuất. Điều
kiện sản xuất bao gồm điều kiện về tự nhiên như khí hậu, đất đai, thỗ nhưỡng và điều
kiện kinh tế - xã hội như cơ sở hạ tầng kỹ thuật, diện tích canh tác, khoảng cách đến
khu vực cung ứng sản phẩm… Trong khi đó, phần lớn sản phẩm mang CDĐL là đặc
sản nơng nghiệp, vì vậy, có thể nói điều kiện sản xuất đóng vai trị quan trọng, quyết
định hiệu quả sản xuất và thu nhập của các hộ sản xuất các sản phẩm này. Ngoài ra,
đối với những sản phẩm đặc biệt như sản phẩm mang CDĐL, điều kiện tự nhiên và
thổ nhưỡng của khu vực sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó, vị trí địa lý có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh hoặc sự
bất lợi cho một quốc gia, một địa phương hoặc một cơ sở sản xuất nào đó. Dễ nhận
thấy, khoảng cách gần với nguồn nguyên liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm
cùng với hệ thống giao thông thuận lợi là một điều kiện lý tưởng để một cơ sở sản
xuất giảm thiểu chi phí sản xuất, tiết kiệm chi phí vận chuyển. Ngồi ra, nó cịn giúp
rút ngắn thời gian sản phẩm đến tay người tiêu dùng, giúp sản phẩm đảm bảo chất
lượng và độ tươi ngon hơn tại thời điểm cung cấp, điều này làm gia tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.


18

+) Sự tham gia các tổ chức xã hội, đoàn thể địa phương: Trong nghiên cứu về
CDĐL, nhóm tác giả Vũ Trọng Bình và Đào Đức Huấn (2006) đã thực hiện phỏng
vấn lãnh đạo và hội viên của Hội nước mắm Phú Quốc về vai trò của Hội đối với hoạt
động sản xuất nước mắm tại khu vực sở hữu CDĐL. Kết quả khảo sát cho thấy tuy
một bộ phận hội viên chưa tin tưởng hoặc chưa hài lòng việc thực hiện chức năng của
Hội nước mắm Phú Quốc (17,78% số người được phỏng vấn cho rằng Hội “khơng có
bất kỳ vai trị gì”), đa số hội viên đánh giá khá cao vai trò của Hội trong việc hỗ trợ
quảng bá thương hiệu, phát triển kênh phân phối và phổ biến các văn bản pháp lý liên

quan (với tỷ lệ lần lượt là 13,33%, 42,22% và 73,33%). Cùng quan điểm, kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi (2011) cũng chỉ ra rằng việc tham gia các tổ chức
đoàn thể giúp nâng cao khả năng nắm bắt thông tin, tiếp cận các chính sách hỗ trợ
của địa phương, Nhà nước cũng như các cơ hội phát triển sản xuất, mở rộng thị trường
ngày càng nhiều. Trong nghiên cứu này, Nguyễn Quốc Nghi (2011) sử dụng phương
pháp hồi quy đa biến để phân tích mức độ ảnh hưởng của việc tham gia đoàn thể đến
khả năng tiếp cận vốn của khoảng 100 hộ dân tại một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng
sông Cửu Long.
+) Nhóm nhân tố về thị trường: Theo Vũ Thị Minh (2015), thị trường là nhân
tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến mọi hoạt động sản xuất hàng hóa.
Thị trường trong sản xuất nơng nghiệp bao gồm hai loại là thị trường đầu ra và thị
trường đầu vào. Thị trường các yếu tố đầu vào có ảnh hưởng trực tiếp đến mặt cung
sản phẩm và hiệu quả của sản xuất. Thị trường các yếu tố đầu vào, đặc biệt là lao
động và vốn càng phát triển thì khơng những có thể đáp ứng tốt nhu cầu đầu vào của
sản xuất - kinh doanh cả về mặt số lượng, chất lượng, chủng loại, thời điểm, mà còn
cả trên phương diện năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và
quốc tế. Tuy trong nghiên cứu của Vũ Thị Minh (2015), tác giả chủ yếu sử dụng
phương pháp thống kê mơ tả, chưa có ứng dụng phương pháp phân tích định lượng
hiện đại nhưng đã góp phần làm rõ mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến khả
năng tiêu thụ nông sản từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của hộ sản xuất.
+) Đầu tư của hộ sản xuất: Theo kết quả nghiên cứu của Từ Quang Phương và
Phạm Văn Hùng (2013), đầu tư có mối quan hệ cùng chiều với các yếu tố đầu ra khi
đầu tư đóng vai trị như các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Dưới


19

góc độ hộ sản xuất, khi đầu tư tăng, thu nhập của hộ sẽ tăng. Có thể nói, đây là nghiên
cứu lý thuyết điển hình về mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra trong quá trình sản
xuất của các nông hộ tại Việt Nam. Đồng quan điểm, trong nghiên cứu của mình, Lê

Xuân Thái (2014) khẳng định chi phí sản xuất (một dạng của đầu tư) và thu nhập của
hộ sản xuất (một dạng của đầu ra) có mối tương quan dương. Tuy nhiên, cũng trong
nghiên cứu này, tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa số ngày lao động
trong một năm của các thành viên trong hộ với thu nhập của hộ.
+) Mức sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng: Sự sẵn sàng chi trả được đo lường
ở số tiền hoặc phần trăm cao hơn mà khách hàng sẵn lòng chi trả thêm cho sản phẩm
có tính năng vượt trội so với mức giá thơng thường. Do đó, biến sự sẵn sàng chi trả,
theo nghiên cứu của Đặng Thanh Tùng và cộng sự (2018), là một biến quan trọng bởi
nó giúp đo lường nhu cầu đối với một sản phẩm ưu việt so với sản phẩm thơng thường.
Các sản phẩm có chất lượng hảo hạng, nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm như trái cây nhập khẩu hay các sản phẩm mang CDĐL, do đó, tuy được
bán với mức giá cao hơn khá nhiều so với các sản phẩm thông thường cùng loại nhưng
vẫn được thị trường chấp nhận. Nói cách khác, nếu muốn tồn tại được với mức giá
cao trên thị trường, sản phẩm cần đảm bảo về chất lượng và độ an tồn bởi khi đó
mới xuất hiện một lượng người tiêu dùng đủ lớn chấp nhận chi trả thêm một khoản
hợp lý để mua loại sản phẩm này.
Tổng quan tài liệu cho thấy, trên thế giới và tại Việt Nam có nhiều cơng trình
nghiên cứu liên quan đến sản phẩm mang CDĐL và các nhân tố ảnh hưởng đến sinh
kế của hộ sản xuất đã được cơng bố. Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu đó chỉ tập trung
xem xét một hoặc một số khía cạnh nhất định về CDĐL và sản phẩm mang CDĐL
hoặc thu nhập của nơng hộ đơn thuần, chứ chưa có nghiên cứu nào phân tích sâu về
các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL. Nhằm
tiếp tục củng cố và phát triển các kết quả nghiên cứu đi trước, trong đề tài này, ngoài
các phương pháp nghiên cứu quen thuộc, nghiên cứu sinh kết hợp vận dụng phương
pháp phân tích nhân tố khám phá và phương pháp định lượng với mơ hình hồi quy
Cobb-Douglas nhằm phân tích ảnh hưởng của một số nhóm nhân tố chính tới thu nhập
của hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Do hạn chế về


20


nguồn lực trong việc tiếp cận các nguồn thông tin sơ thứ cấp, mặt khác, do hướng
nghiên cứu thiên về lập luận dựa trên quan sát và vận dụng lý thuyết kinh tế, vì vậy,
trong đề tài này nghiên cứu sinh tập trung vào việc xác định, phân tích và đánh giá ảnh
hưởng của một số nhân tố đến thu nhập của hộ sản xuất sản phẩm mang CDĐL chứ
không đi sâu vào khía cạnh tài chính hay tính tốn số học.


21

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NHẬP
CỦA HỘ SẢN XUẤT SẢN PHẨM MANG CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
2.1. Cơ sở lý luận về các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ sản xuất sản
phẩm mang chỉ dẫn địa lý
2.1.1. Khái niệm về chỉ dẫn địa lý và sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý
CDĐL là khái niệm bắt nguồn từ châu Âu, khởi nguồn ở Pháp từ đầu thế kỷ 20,
sau đó được phát triển rộng ra các nước trên thế giới. Theo Quy chế 2081 năm 1992
của Cộng đồng chung châu Âu thì CDĐL để chỉ tên một vùng, một khu vực nhất định
hoặc một quốc gia gắn liền với một loại sản phẩm có chất lượng hoặc danh tiếng có
thể do mơi trường địa lý với những đặc tính vốn có và hoặc sự kết hợp yếu tố con
người của khu vực đó tạo nên, đặc biệt, mối quan hệ địa lý phải xuất hiện ít nhất một
lần trong các giai đoạn của quá trình sản xuất, chế biến (Hughes, 2016; Juma và cộng
sự, 2016) sản phẩm.
Thuật ngữ “chỉ dẫn nguồn gốc” lần đầu được nêu ra trong Công ước Paris và
Thoả ước Madrid tuy chưa thực sự được định nghĩa rõ nét. Theo đó, thuật ngữ này
chỉ được hiểu chung chung là những chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý của sản phẩm như
“Made in America” mà khơng có mối liên hệ nào với chất lượng đặc thù của sản

phẩm. Bên cạnh những quy định cụ thể hơn về việc sử dụng các chỉ dẫn nguồn gốc
sai hay lừa dối, thoả ước Lisbon đi xa nhất trong 3 Hiệp định với việc đưa ra thuật
ngữ “tên gọi xuất xứ hàng hóa” (TGXXHH) đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa chất
lượng sản phẩm và xuất xứ của nó. Cụ thể, theo thỏa ước Lisbon, TGXXHH được
định nghĩa là “những tên địa lý của quốc gia, vùng, địa phương được đặt cho sản
phẩm mà chất lượng hay những đặc tính của sản phẩm đó liên quan một cách cần
thiết và riêng biệt đến môi trường địa lý nơi sản xuất ra nó, bao gồm cả yếu tố tự
nhiên và yếu tố con người”. Tại hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại
của quyền SHTT (TRIPS), CDĐL là thuật ngữ pháp lý được ghi nhận chính thức với
ý nghĩa là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc


22

từ một khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính
nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định (Gervais, 2003). Trong khi thuật ngữ
TGXXHH chỉ đề cập đến tên gọi địa lý thì thuật ngữ CDĐL có ý nghĩa rộng hơn, có
thế là tên gọi địa lý hay các dấu hiệu khác dưới dạng hình ảnh, biểu tượng...
Cơng tác bảo bộ CDĐL tại Việt Nam chính thức được bắt đầu từ thời điểm ngày
01/07/2006 khi Luật SHTT năm 2005 có hiệu lực. Về cơ bản, kể từ đây những nội
dung liên quan đến CDĐL và sản phẩm mang CDĐL được quy định trong Luật đã
tương đối đầy đủ và phù hợp với các chuẩn mực của Hiệp định TRIPS. Theo Điều 4
khoản 22 Luật SHTT năm 2005 của Việt Nam, điều kiện chung đối với CDĐL được
bảo hộ bao gồm: i) Sản phẩm mang CDĐL có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với CDĐL và ii) Sản phẩm mang CDĐL
có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý và bí quyết sản
xuất của người dân (Cortes, 2014) tại khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước
sở hữu CDĐL đó quyết định. Chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang CDĐL được
xác định bằng một hoặc một số chỉ tiêu định tính, định lượng hoặc cảm quan về vật
lý, hoá học, vi sinh và các chỉ tiêu đó phải có khả năng kiểm tra được bằng phương

tiện kỹ thuật hoặc chuyên gia với phương pháp kiểm tra phù hợp. Ngoài ra, khu vực
địa lý mang CDĐL có ranh giới được xác định một cách chính xác bằng từ ngữ và
bản đồ.
Xét về khía cạnh thị trường, điều 79 Luật SHTT quy định “CDĐL là dấu hiệu
dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc
gia cụ thể và danh tiếng của sản phẩm được xác định bằng mức độ tín nhiệm của
người tiêu dùng (Grunert và Aachmann, 2016) đối với sản phẩm đó thơng qua mức
độ rộng rãi người tiêu dùng biết đến và chọn lựa sản phẩm đó”. Danh tiếng của sản
phẩm phải được người tiêu dùng trong và ngoài khu vực sở hữu CDĐL thừa nhận
(Canavari và cộng sự, 2017), thậm chí từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự thừa nhận
của công chúng khơng chỉ bó hẹp trong một vùng hoặc một khu vực địa lý nào đó mà
cần phải được phát triển ra phạm vi rộng hơn (Menapace và Moschini, 2012). Danh
tiếng và chất lượng của sản phẩm mang CDĐL này có được là do các yếu tố tự nhiên
và yếu tố con người quyết định (Calboli, 2017). Yếu tố tự nhiên bao gồm các yếu tố


23

về khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, địa chất, mơi trường sinh thái v.v…, yếu tố về con
người bao gồm các bí quyết gia truyền, quy trình truyền thống, tay nghề của người
sản xuất địa phương.
Theo quan điểm của nghiên cứu sinh: sản phẩm mang CDĐL là thuật ngữ được
sử dụng để chỉ sản phẩm uy tín, có chất lượng vượt trội so với các sản phẩm cùng
loại không mang CDĐL; là kết tinh của điều kiện đặc thù về tự nhiên, địa lý, khí hậu
và tập quán sản xuất của con người tại khu vực địa lý nhất định và danh tiếng của sản
phẩm được cơ quan có thẩm quyền xác nhận và chứng thực.
2.1.2. Đặc điểm của chỉ dẫn địa lý và sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý
Hiện nay, có nhiều sản phẩm mang CDĐL đã vượt ra khỏi biên giới vùng lãnh
thổ và nổi tiếng toàn cầu như gạo Jasmine, trà Darjeeling, rượu vang Bordeaux hay
phô mai Parmigiano-Reggiano. CDĐL được xem như chứng nhận đảm bảo sản phẩm

mang CDĐL có nguồn gốc từ khu vực địa lý nhất định, có chất lượng vượt trội, danh
tiếng hoặc những đặc tính riêng, khác với các sản phẩm cùng loại. Cụ thể:
2.1.2.1. Mang đặc tính riêng gắn với khu vực địa lý
CDĐL và sản phẩm mang CDĐL gắn với một vùng lãnh thổ xác định, được
hình thành bởi nhiều cấu phần, trong đó có các điều kiện về tự nhiên. Vì vậy, các
sản phẩm mang CDĐL, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp, chịu ảnh hưởng
nhiều bởi các yếu tố tự nhiên của vùng sản xuất như điều kiện đất đai, khí hậu, ví
trị địa lý, ánh sáng, thủy văn. Các yếu tố này có ảnh hưởng quan trọng đến năng
suất, chất lượng, đặc tính của sản phẩm. Đối với các sản phẩm mang CDĐL nói
chung, các sản phẩm chế biến nói riêng, điều kiện tự nhiên cũng là yếu tố quan
trọng, quyết định chất lượng nguồn nguyên liệu, từ đó tác động trực tiếp tới chất
lượng sản phẩm. Ví dụ, nước mắm Phú Quốc có chất lượng vượt trội hơn hẳn so
nước mắm ở các vùng khác nhờ được sản xuất từ cá cơm được đánh bắt ở vùng
biển của Kiên Giang, đồng thời được ngâm ủ trong điều kiện thời tiết, khí hậu và
nguồn nước tại đảo.
2.1.2.2. Là sự kết tinh của truyền thống và tập quán
Tập quán, truyền thống là yếu tố mang đặc trưng rõ nét của một CDĐL, được
thể hiện trên nhiều khía cạnh. Tập quán sản xuất, canh tác của cộng đồng: Trải qua
thời gian, cộng đồng đã cùng nhau chung tay trong việc ‘‘sáng tạo” nên tập quán,


×