Đề tài : “ Khủng hoảng tài chính và khủng
hoảng nợ quốc tế. Phân tích rủi ro tiềm ẩn của nền kinh
tế Việt Nam”
MỤC LỤC
I. KHÁI NIỆM KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH……………………4
II. DIỄN BIẾN, NGUYÊN NHÂN
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI HIỆN NAY………… 6
III. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG ĐẾN THẾ GIỚI………12
IV. NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG SAU
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ……………………………………….22
V.TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG
ĐẾN VIỆT NAM…………………………………………………….24
VI. MỘT SỐ CUỘC KHỦNG HOẢNG
TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KHU VỰC……………………… 28
VII. CÁC NGUY CƠ RỦI RO TIỀM ẨN CỦA
KINH TẾ VIỆT NAM…………………………………………….35
VIII. KẾT LUẬN , GIẢI PHÁP CHO CÁC RỦI RO
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY………………………………………47
CÁCH TIẾP CẬN CỦA NHÓM
Theo quản điểm của nhóm về đề tài thảo luận. Đây là một đề tài hay có
tính thời sự, đang được rất nhiều người quan tâm. Song với đề tài thảo
luận này thì đây là một đề tài rộng và sâu. Vì nó mang tính bao quát về
nền kinh tế thới giới và nền kinh tế Viêt Nam. Với những kiến thức đã
được học dưới đây là quan điểm của nhóm thảo luận O’ Star. Bài thảo
luận của nhóm nói cách bao quát về diễn biến của cuộc khủng hoảng thế
giới hiện nay, mà bắt nguồn của nó là tại Mỹ.
Với thực trạng của nền kinh tế Việt Nam, nhóm đưa ra các nguy cơ
tiềm ẩn của nền kinh tế Việt Nam. Theo quan điểm của nhóm thì các
tiềm ẩn của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là do cách thức quản lý,
kinh tế vĩ mô. Chứ không phải do nguyên nhân chính là do khủng
hoảng Mỹ gây ra. Cho rù cuộc khung hoảng thế giới có tác động nhất
định đến nền kinh tế Việt Nam.
Thông qua các cuộc khủng hoảng kinh tế tại các nước đang phát triển
( Mehico 1994, Agentina 2001-2002) và cuộc khủng hoảng kinh tế Á
1997.
Nhóm thảo luận O’ Star đưa là quan điểm của nhóm về các rủi ro tiềm
ẩn của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế
thế giới.
-Nhóm O’STAR-
I.LÝ THUYẾT
1/ Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
Qua các cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ điển hình nói ở trên có thể
nói:“Khủng hoảng Tài chính tiền tệ chính là sự đổ vỡ trầm trọng các bộ
phận của thị trường Tài chính tiền tệ kéo theo sự vỡ nợ của hàng loạt
ngân hàng và tổ chức tài chính do sự sụt giảm nhanh chóng về giá tài sản
mà kết quả cuối cùng của nó là sự đông cứng và bất lực của thị trường tài
chính sự sụt giảm nghiêm trọng các hoạt động kinh tế”
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của
nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của
mình. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá so với nguồn
cung. Nhu cầu tiền mặt của người dân hay của nhà đầu tư nước ngoài đã gây
sức ép cho hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính khiến cho hệ thống
ngân hàng và thị trường chứng khoán có thể sụp đổ. Trong nền kinh tế thế
giới hiện đại sự lây lan của khủng hoảng tài chính thường đi kèm với sự
khủng hoảng kinh tế kéo dài.
2/ Một số dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế tài chính
Tuỳ theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm
sau đây:
+ Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền
+ Tỷ gia hối đoái tăng đột biến và dây chuyền
+ Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín
dụng sụt giảm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm.
+ Hệ thống ngân hàng bị tê liệt
+ Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng
+ Các hoạt động kinh tế bị suy giảm
Khủng hoảng tài chính bao gồm khủng hoảng tiền tệ, khủng
hoảng ngân hàng và khủng hoảng nợ nần.
Khủng hoảng tiền tệ : Theo nghĩa hẹp khủng hoảng tiền tệ gắn liền
với chế độ tỷ giá hối đoái cố định, tức trong hoàn cảnh hết sức bị động như
kinh tế đi xuống hoặc vấp phải lan sóng đầu cơ cực lớn. Một quốc gia đang
áp dụng chế độ tỷ giá cố định sẽ phải tiến hành điều chỉnh chế độ này ở
trong nước và phải chuyển sang áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi và mức độ tỷ
giá mà thị trường quyết định thường cao hơn rất nhiều so với mức độ tỷ giá
mà chính phủ cố gắng duy trì. Mức biến đổi của tỷ giá hối đoái thường rất
khó kiểm soát. Hiện tượng này chính là khủng hoảng tiền tệ. Theo nghĩa
rộng, khủng hoảng tiền tệ chỉ sự biến động của tỷ giá hối đoái vượt quá
phạm vi mà một quốc gia có thể gánh chịu.
Khủng hoảng ngân hàng: là hiện tượng ngân hàng can thiệp quá sâu
hoặc cho vay vốn đối với các doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động kinh
doanh có độ rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán. Tín dụng được đầu
tư quá nhiều cho bất động sản và lĩnh vực phi sản xuất sẽ dẫn đến tình trạng
mất cân đối tài chính kinh tế. Tỷ lệ nợ xấu quá lớn khiến hoạt động kinh
doanh trì trệ dẫn đến nguy cơ phá sản.
Khủng hoảng nợ nần : là cuộc khủng hoảng xảy ra ở các nước đang
phát triển vào thập kỷ 80 thể kỷ XX. Có nhiều khả năng đánh giá khả năng
thanh toán nguồn vay nước ngoài của một quốc gia, trong đó chỉ tiêu quan
trọng nhất là tỷ lệ thanh toán nợ nước ngoài tức là tỷ lệ giữa nguồn vay nước
ngoài cả gốc và lãi mà quốc gia đó trả trong một năm trên tổng kim ngạch
xuất khẩu của quốc gia đó trong năm đó hoặc trong năm trước đó. Bình
thường chỉ tiêu này nằm dưới 20%, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 20% chứng tỏ
lượng vốn vay nước ngoài của quốc gia đó quá lớn.
II. DIỄN BIẾN , NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH THẾ GIỚI HIỆN NAY
1.DIỄN BIẾN
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là
biểu hiện rõ nét nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó.
Điểm lại những mốc sự kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã
diễn ra như thế nào.
Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất
động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005
khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất
động sản đã đánh giá thấp thị trường.
Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh
doanh bất động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây
dựng Nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước
đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn
ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm
với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất
động sản nhà ở bi tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
Ngày 05/02 Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số
các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la
thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
Ngày 02/04 New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ,
tuyên bố phá sản.
Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên
trong lịch sử.
Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán
dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh
mục vốn đầu tư và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân
hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục
dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn
nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ
một nhóm các ngân hang khác.
Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50
điểm cơ bản từ mức 6.25% xuống 5.75%.
Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng
về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn.
Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ
thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán
được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do
khủg hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và
Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm
của việc vỡ bong bóng bất động sản.
Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống
4,5%
Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng
vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang
kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:
Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một
cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để
trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearn.
Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã
báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn
Fannie Mae và Freddie Mac
Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ$
Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở
Mỹ bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất
kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp
công ty này tránh phá sản.
Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của Bộ trưởng tài chính Paulson
trị giá 700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài
chính và nợ tín dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự
thảo này.
Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt
Mỹ được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase&
Co với giá 1.9 tỷ đôla
Ngày 29/09: QH Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do
bộ Tài chính Mỹ đề xuất.
Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân
hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán
lẻ cho đối thủ Citigroup.
Ngày 23/11 trong một động thái chưa từng có, cả 3 cơ quan quản lý tài
chính quan trọng nhất của Mỹ đồng thuận đưa ra gói giải pháp trị giá 20 tỷ
USD và bảo lãnh toàn bộ nợ của Citigroup, nhằm kéo tập đoàn có ảnh
hưởng toàn cầu này khỏi nguy cơ sụp đổ.
Ngày 25/11: Fed tuyên bố sẽ mua lại những khoảng cầm cố chứng khoán
trị giá khoảng 500 tỷ USD của Fannie Mae, Fredddie Mac và cả Ginnie
Mae. Thêm vào đó, khoảng 100 tỷ USD đã được bỏ ra để mua lại các
khoảng nợ của Fannie, Fredddie và Federal Home Loan Banks
Hiện tại, khủng hoảng tài chính là mối quan tâm hàng đầu của dân
chúng Mỹ và thế giới. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hôm nay, khủng
hoảng tài chính và sự trì trệ của nền kinh tế Mỹ đang và sẽ ảnh hưởng đến
nhiều nước trên thế giới.Vì nền kinhtế Mỹ được coi là đầu tàu của thế giới.
Rất nhiều quốc gia phụ thuộc vào Mỹ. Vì vậy đã có rất nhiều phân tích
nguyên nhân và thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và ảnh hưởng
của nó đến kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam.
3. NGUYÊN NHÂN
3.1 Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng
tài chính lần này là sự suy sụp của thị trường bất động sản.
Hầu hết người dân Mỹ khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàg và trả
lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài (20-30 năm) sau đó, với lãi suất thả
nổi (điều chỉnh tăng theo thời gian). Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa
lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay
mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất
cao thì người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Có 3 yếu tố
chính tạo bong bóng thị trường bất động sản
Thứ nhất, từ đầu năm 2001, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 tháng 9, khi
mà sau vụ khủng bố giá các cổ phiếu mỹ sụt giảm ,để giúp nền kinh tế thoát
khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn
đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào
giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất
này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
Hai là, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở
của Chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo
được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện
thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie
Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách
mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành
các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp, rồi bán lại cho
các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như
Bear Stearns và Merrill Lynch.
Ba là kế ước nhận nợ của người mua nhà trở thành một loại chứng khoán
(chứng khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi giới đưa vào
giao dịch mua bán lại trên thị trường (thị trường thứ cấp). Trên thị trường
mua đi bán lại, nhiều người đầu tư cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ
tiền ra mua loại chứng khoán này mà họ không hiểu được nó là cái gì, chỉ
biết hàng năm được tiền lãi.
Vì vậy thị trường bất động sản trở nên rất xôi động, có rất nhiều người
thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để
có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường
được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian, khoản tiền
cho vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng
từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm
2007( 10% GDP của MỸ). Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại
các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn
từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất
động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn
năm từ 2001 đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá
nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể
giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ
ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị
trường bất động sản.
Nhưng từ 2 năm trở lại đây, giá bất động sản không ngừng giảm xuống,
giá trị các căn hộ ngày càng thấp hơn các khoản tín dụng đã cấp. Hạn mức
tín dụng giảm xuống thì ngân hàng thu hồi nợ, nhưng người mua nhà không
có khả năng thanh toán.
3.2 Cho vay dưới chuẩn - nguyên nhân của sụp đổ thị trường bất
động sản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính
sách tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Làm
nảy sinh những dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một lượng lớn người đi vay
tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của
người đi vay. Người đi vay dể dàng trong việc định giá lại tài sản để tiếp tục
một khoảng vay mới nhằm trả cho khoản vay cũ. Bên cạnh đó, việc cung cấp
tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ
cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thật sự không đáp ứng đầy đủ
những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng
rủi ro cho các ngân hàng, và bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng lợi. Về
phía ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các ngân
hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi suất rất cao. Mặt khác các công
ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và
chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài
chính gọi là “mua lại các khoản nợ hay khoản phải thu”.
Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một
chiếc khấu cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng
khoán hoá các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay
tiền với lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên là các
chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi
càng cao, thậm chí có chứng khoán không có mức độ xếp hạng tín nhiệm
nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu
hạng.
Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất
động sản Mỹ và khi thị trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ
dây chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả
năng trả lãi vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên
các khoản phải thu này sụt giá thê thảm, các ngân hàng không đủ khả năng
trả các khoản nợ lâm vào tình trạng phá sản.
Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân
cho cuộc khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn.
3.3 Một số nguyên nhân khác:
a) Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến
cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán
ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm
đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí,
còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.Thậm chí, họ còn áp dụng
cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là không thèm
vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng
khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu.
b) Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân
hàng đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty
này. Các ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát
hành CK để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao,
tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của
mình. Có loại CK không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng
rủi ro cũng lớn.
Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty
tài chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đã đổ tiền mua CK này,
nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở
Mỹ tăng nóng.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel
kinh tế 2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được
hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ
thống tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng
hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro
nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất
cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
c) Khủng khoảng niềm tin
Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư
của Mỹ đã làm người dan Mỹ và tiêu dùng ảnh hưởng nghiẹm trọng, nhất là
khi ở các nước phát triển là một nền kinh tế tiêu dùng.
Hệ thống các ngân hàng trong con mắt mọi người trở nên monmh manh khi
mà ba trong năm ông lớn tại thị trường phố Wall sụp đổ là Merrill Lynch,
Lehman Brothers, Bearstearns.
Thị trường tài chính dựa trêm nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã
bị xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman Brothers là biểu tượng đánh
dấu mức độ tin cậy đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp
tục. Một ngân hàng tồn tại hơn 158 đã cùng người Mỹ trải qua rất nhiều khó
khăn, trải qua các cuộc suy thoái cùng nước Mỹ lại sụp đổ. Quả thật là một
cú sốc lớn đối với toàn bộ người dân Mỹ.
3.4 Sự lầm tưởng sức mạnh của nước MỸ
Đã từ lâu từ sau chiến tranh thế giới thứ II người dân vẫn nghĩ họ là một
quốc gia hùng mạnh với kinh tế “khỏe mạnh”. Họ vẫn nghĩ mình là nước
giàu có hơn bất kỳ quốc gia nào. Cùng với những hình thức thanh toán mới
người tiêu dùng nhiều hơn trong khi bản thân họ không thể sản xuất đáp
ứng được nhu cầu đó. Hàng năm người dân Mỹ tiêu thụ một lượng hàng hóa
mà họ không có khử năng chi trả khoảng 80 tỷ USD.
Người dân MỸ không có xu thế tích kiệm trước khi khủng hoảng diễn ra. Ví
dụ là các công ty ôtô Mỹ khi các loại ôtô cùng loại của Nhật(Toyota,
Honda…) và Châu Âu tốn ít xăng hơn thì những chiếc ôtô Ford, GM thường
tiêu hao nhiên liệu gấp đôi.
III. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG ĐẾN THẾ GIỚI
1.NGẮN HẠN
Trong ngắn hạn, năm 2009, chắc chắn kinh tế Mỹ không tránh khỏi suy
thoái trầm trọng. Dù được chính phủ bơm tiền vào các ngân hàng thương
mại và mua các chứng khoán chỉ còn ít giá trị, hệ thống tín dụng không thể
hoạt động bình thường lại ngay. Thông qua hai gói kích cầu của hai vị tổng
thống G.W. Bush 700 tỷ và B. Obama 787 tỷ usd.
Hơn nữa, các nhà đầu tư vẫn còn hoang mang cao độ do chưa biết rõ
hết mức độ nghiêm trọng của sự mất mát. Họ nghĩ rằng tin xấu rồi sẽ hiện
ra nữa.
Tâm lý sợ hãi hiện đang bao trùm lĩnh vực tài chính. Các ngân hàng rất
dè chừng trong việc cho vay, làm ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp
và đến khả năng chi tiêu của dân chúng đối với các hàng hóa lâu bền như xe
hơi. Mặt khác, cổ phiếu mất giá và giá bất động sản giảm mạnh, giá trị danh
nghĩa của tài sản người dân giảm mạnh theo và do đó tiêu dùng trong dân
đang và sẽ giảm mạnh. Sự đình trệ cả hai mặt cung và cầu sẽ làm kinh tế Mỹ
suy thoái nặng.
Vì các yếu tố đó, các dự báo về kinh tế Mỹ đều cho thấy những con số
khá bi quan. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), năm 2008 kinh tế Mỹ phát
triển 1,6% và năm 2009 gần như không tăng trưởng (0,1%). Nếu xét từng
quý thì tình huống trước mắt trầm trọng hơn.
Các nhà kinh tế hàng đầu đang xây dựng mô hình khủng hoảng theo mô
hình nào. Theo hình chữ L ,V ,W. Do đó có một số thời điểm với những báo
cáo khả quan về kinh tế, nhưng có lẽ đó chỉ là dấu hiểu tăng trưởng trong
ngắn hạn mà chưa hẳn thoát được ra ngoài khủng hoảng một cách thực sự.
2. DÀI HẠN
Nhìn vấn đề trong tương lai xa hơn, hiện nay có nhiều đánh giá khác
nhau.
Tình hình của Mỹ hiện nay giống với cuộc đại khủng hoảng trong thập niên
1930 hoặc giống với thời kỳ suy thoái của Nhật trong thập niên 1990. Đại
khủng hoảng thập niên 1930 làm cho Mỹ mất 10 năm mới đưa mức sản xuất
trở lại thời trước khủng hoảng. Nhật cũng mất hơn 10 năm mới ổn định được
hệ thống tín dụng và khôi phục nền kinh tế. Từ các so sánh này, nhiều người
lo là sự suy thoái hiện nay của kinh tế Mỹ có thể kéo dài tới 10 năm.
Tuy nhiên, so với đại khủng hoảng thập niên 1930, các đối sách của Mỹ
hiện nay không đơn độc mà có sự hợp tác của những nền kinh tế lớn vì sự
tùy thuộc vào nhau, nhất là thị trường tài chính đã lên cao độ, Mỹ sụp đổ sẽ
kéo theo sự bất ổn ở các nền kinh tế khác. Hiện nay việc hợp tác đã bắt đầu
trong chính sách lãi suất.
Ngày 09/10/2008 cùng với Mỹ, ngân hàng trung ương của các nước lớn
giảm lãi suất ngắn hạn hàng loạt (Mỹ còn 1,5%, khối Euro 3,75% ). Riêng
Nhật lãi suất đã ở mức quá thấp (0,5%) nên kỳ này không thay đổi. Nỗ lực
này có mục đích giảm phí tổn điều động vốn của ngân hàng, giảm phí tổn
vay vốn của doanh nghiệp và người tiêu thụ nhằm kích thích sản xuất và chi
tiêu. Trong những ngày tới, nếu cần, các nước sẽ can thiệp trực tiếp vào thị
trường ngoại hối để tránh sự biến động đột ngột trong tỷ giá các đồng tiền
chính.
Thêm vào đó, khác với thập niên 1930, hồi đó Mỹ và nhiều nước khác
đều gặp khó khăn ở mức độ gần như nhau, hiện nay kinh tế thế giới ngoài
Mỹ phát triển khá mạnh. Năm 2007, tăng trưởng ở Mỹ chỉ có 2% trong khi
thế giới là 5%. Theo dự báo của IMF, năm 2008 Mỹ tăng trưởng 1,6% trong
khi thế giới 3,9%.
Cùng với cơ chế hợp tác đã có của các nước lớn, sự năng động của kinh
tế thế giới là điều kiện về thị trường giúp kinh tế Mỹ mau hồi phục. Hiện
nay tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ độ 6%, có thể sẽ tăng lên trong năm 2009
nhưng, với các lý do vừa nói, không thể có chuyện tăng lên tới mức 25% của
thập niên 1930.
Một điểm nữa là chính phủ ngày nay đóng vai trò quan trọng hơn và
hiệu quả hơn vì có các cơ chế làm dịu tác động của khủng hoảng so với thập
niên 1930. Để giảm sự lo âu cho những người gửi tiết kiệm ở ngân hàng với
số tiền lớn, chính phủ đã nâng mức bảo hiểm số tiền gửi từ 100.000 USD lên
250.000 USD trong đầu tháng 10 này.
So với Nhật vào thập niên 1990, tình hình của Mỹ hiện nay cũng khác ít
nhất ở hai điểm. Thứ nhất, thị trường bất động sản của Nhật cuối thập niên
1980 và đầu thập niên 1990 tăng nhanh đến mức quá cao một cách bất
thường, hình thành nền kinh tế bong bóng quá lớn nên khi nổ tác động rất
mạnh đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ.
Tình hình của Mỹ hiện nay phức tạp hơn do các công cụ đầu tư tinh vi,
khó kiểm soát, nhưng riêng về giá bất động sản, sự biến động tăng giảm
không lớn lắm so với Nhật Bản 15 năm trước. Thứ hai, trong thập niên 1990
Nhật bị giảm phát nặng nên lãi suất danh nghĩa giảm đến gần số không
nhưng lãi suất thực vẫn cao. Hiện nay Mỹ lạm phát vài phần trăm nên dễ
dùng chính sách tiền tệ kích thích sản xuất hơn Nhật hồi thập niên 1990.
Các yếu tố làm cho kinh tế Nhật hồi phục từ năm 2003 cũng cho thấy những
gợi ý cho khả năng hồi phục của kinh tế Mỹ hiện nay. Một mặt Nhật can
thiệp tích cực vào thị trường ngoại hối giữ cho đồng yen ở mức thấp, nhờ đó
đẩy mạnh xuất khẩu. Mặt khác, chính phủ bơm tiền vào ngân hàng, giải
quyết vấn đề thiếu vốn cho vay.
Ngoài ra, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng cao suốt cả một giai đoạn dài
góp phần tăng ngoại nhu để kinh tế Nhật chóng hồi phục. Cả 3 yếu tố này
ngày nay cũng có thể thấy trong trường hợp của kinh tế Mỹ. Do đó, vấn đề
nợ xấu của Mỹ có lẽ không kéo dài như Nhật 15 năm trước. Có thể từ cuối
năm 2009 kinh tế Mỹ có triển vọng bước vào quá trình hồi phục.
Với tình hình khủng hoảng tình trạng thất nghiệp sẽ ra tăng. Tại Mỹ con
số thất nghiệp đã lên tới 9,5%, tại khu vực châu Âu là là 9,8%. Riêng tại
Đức đầu tàu kinh tế Châu Âu đã là 9%. Riêng ở Nhật là 5,5 %. Tình trạng
thất nghiệp sẽ là thach thức đối với các nước. Khi mà chỉ số thất nghiệp luon
là chỉ tiêu đánh giá nền kinh tế. Việc thất nghiệp cao tạo sức ép lên ngân
sách nhà nhà nước khi phải hỗ trợ tiền trợ cấp. Trong khi ngân sách của các
nước hiện nay có xu hướng thâm hụt cao.
IV NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG SAU KHỦNG HOẢNG
KINH TẾ
Khủng hoảng tài chính khiến cả thế giới bị chịu tác động. Không những thế
nó còn tác động lớn khi cuộc khủng hoảng đi qua. Măc dù cuộc khủng hoảng
chưa có dấu hiệu kết thúc các ngân hàng , tổ chức tài chính trên thế giới lần
lượt nộp đơn phá sản hoặc sáp nhập , bán lại . Các nước trên thế giới gặp
khó khăn trông việc tạo dựng việc làm cho nhân dân khi mà tình trạng thất
nghiệp trở nên nghiêm trọng. Thì dấu hiểu khủng hoạng nợ công đã được
thấy dõ một cách rõ hơn khi mà tổng số nợ công trên thế giới đã ở mức
35000 tỷ USD. Tình hình nợ công không chỉ diễn ra tại các nước nhỏ mà
ngay cả các nước lớn những đầu tàu kinh tế thế giới. Ngay cả đầu tau kinh tế
Mỹ cũng đã nợ tới 11500 tỷ USD , tổng số nợcủa Mỹ chiếm tới 80% GDP
của nước này.Hay nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới là Nhật cũng đã nợ
tới 10000 tỷ USD gấp đôi GDP của nước này.
Có thể nói chưa bao giờ các nước trên thế giới lại vay nợ nhiều như bây giờ
kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II 1945. Việc vay nợ nhiều đã trở thành
một vấn đề ngay từ bây giờ không phải là câu chuyện trước mắt.
Nếu như sau chiến tranh thế giới thứ II với kế hoạch Mashall của mình thì
Mỹ là chủ nở của các nước châu Âu thì hiện tại tất cả đều là những người
đang phải chịu nợ.
Thứ nhất ở các nước phát triển đứng trước tình thế là đảm bảo an sinh xã
hội. Khi mà ở các nước này tình hình dân số già và việc phải trả một khoản
tiền lớn cho lương hưu hay trợ cấp sẽ khiến tình hình nợ công trở nên khó
khăn hơn. Đơn cử Nhật Bản với tuổi thọ bình quân khoảng 86 tuổi thì việc
đáp ứng nhu cầu của người dân sẽ là thach thức lớn. Cộng thêm khoản trợ
cấp thất nghiệp khi mà tinh hình thất nghiệp đang ngày càng cao.
Thứ hai : Với các gói kích cầu của từng quốc gia. Với những số tiền lớn
như vậy cũng tạo nên khoảng thâm hụt ngân sách của mình. Nguy cơ vỡ nợ
ở các quốc gia yếu. Và điều đó đã được minh chứng tai Ireland và Rumani.
Hay một số các quốc gia Hy Lạp , Italia, Tây Ban Nha.
Dưới đây là bảng cho thấy tình trạng nợ công của các nước phát triển
nhất thế giới ( theo buttonwood.economist.com)
Series
Nominal
GDP
(US$)
Public
debt
Public
debt
(% of
GDP)
Populati
on
Populatio
n (%
change
pa)
Public
debt
per
capita
UNITED
STATES 13958.2
7228.
0 51.9 306.8 0.9
23,56
0
JAPAN 4972.2
9490.
4 190.0 127.1 -0.2
74,68
0
CHINA 4933.1 934.5 18.8 1333.5 0.4
701
GERMAN
Y 3097.9
2462.
3 78.4 82.8 0.1
29,73
8
UNITED
KINGDOM 2110.6
1493.
7 68.4 61.9 0.7
24,14
7
FRANCE 2621.9
2057.
4 77.4 62.6 0.5
32,87
2
ITALY 2067.3 2413. 115.2 58.1 0.0
6
41,52
0
SPAIN 1404.1 829.4 58.3 45.8 0.5
18,12
4
RUSSIAN 1283.2 187.8 14.7 141.4 -0.3
1,328
INDIA 1228.1 753.9 60.8 1166.1 1.6
647
INDONESI
A 486.8 157.2 31.4 240.3 1.2
654
AUSTRALI
A 864.5 159.1 18.5 21.3 1.2
7,481
SOUTH
AFRICA 261.6 70.2 35.2 49.0 0.6
1,432
ARGENTI
NA 268.8 124.9 52.9 40.1 1.0
3,113
BRAZIL 1400.2 599.4 41.2 194.4 1.3
3,084
KOREA,
REP. OF 742.6 228.0 29.9 49.4 0.4
4,616
MEXICO 837.7 255.5 30.5 111.2 1.1
2,297
TURKEY 596.4 284.8 47.9 72.6 1.0
3,922
Những con số biết nói. Qua đó ta thấy được tình trang của một số nước.
V. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG ĐẾN VIỆT NAM
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ có tác động trực tiếp thế nào đến
Việt Nam? Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước.Tình
hình hội nhập mở cửa của Việt Nam có sâu rộng với kinh tế Mỹ và thế giới
hay không? Xét trên khía cạnh Đầu tư, hiện nay, Mỹ đứng thứ 6 trong số các
nước đầu tư vào Việt Nam. Mỹ cũng là nhà đầu tư (NĐT) lớn, nếu cộng cả
giá trị đầu tư qua các nước thứ 3 thì Mỹ là NĐT số 1 vào Việt Nam trong
nhiều năm qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt Nam phần lớn là giai đoạn đầu và
tập trung nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại, quan hệ về ngắn hạn chúng
ta xuất sang Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại, Mỹ hiện là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại,
quan hệ giữa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng kể.
Về các tác động gián tiếp, Việt Nam chưa vào sâu trong cuộc chơi toàn
cầu nên đang có lợi thế là cơn tác động này chưa lan tới. Các nền kinh tế
khác trong những ngày qua đã bị ảnh hưởng. Lợi thế này tạo cho chúng ta
cái nhìn tốt về một nền kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ. Chính
điều này đã quyết định tính chất và quy mô của cơn địa chấn này đến nền
kinh tế nước ta.
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với Việt Nam có lẽ
không đáng kể. Những loại chứng khoán mà hiện nay đang có vấn đề của
những công ty chứng khoán và bảo hiểm của Mỹ chưa bán ở Việt Nam. Hệ
thống tiền tệ và thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa
lành mạnh, dễ tổn thương, dễ lâm vào bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong
nội bộ Việt Nam như thiếu tính công khai, thiếu minh bạch, dân chúng khó
tiếp cận, tồn tại giao dịch nội gián , chứ không liên quan nhiều đến cuộc
khủng hoảng ở Mỹ.
Ngành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng không đáng kể bởi hầu hết
các NH Việt Nam là NHTM, phục vụ cho vay tiêu dùng, cho vay doanh
nghiệp, độ phân tán rủi ro cao và không có sự liên thông đầu tư với các ngân
hàng đầu tư lớn của Mỹ như các nước khác.
Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu
tư. Nếu có chăng cũng chỉ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sẽ
làm động tác “xả hàng” cổ phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng
thêm tình hình để kéo giá cổ phiếu ngân hàng xuống“.
Đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam có lẽ cũng không bị ảnh hưởng
nhiều từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ. Các nhà đầu tư chính ở Việt Nam
là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan Ngay cả những công ty chế tạo của Mỹ nếu
có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng này
mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh tế
Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc
và Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam cũng cho thấy công ty
này chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm
được nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Theo một khảo sát gần đây
thì các doanh nghiệp nước ngoài khi được hỏi họ nước nào là địa điểm mà
họ sẽ chú trọng đầu từ vào? Thì Việt Nam được nhiều người chọn lựa là thị
trường mục tiêu hàng đầu. Vì VIệt Nam có tình hình chính trị ổn định cộng
thêm cơ sở pháp lý của Việt Nam ngày càng được cải cách , làm thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cộng thêm khu vực châu Á nói chung và
Việt Nam nói riêng ít bị chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng và được dự đoán
là khu vực sẽ hồi phục nhanh sau khủng hoảng.
Lĩnh vực xuất khẩu: Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy
thoái của Mỹ có lẽ là ở lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20%
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta
xuất khẩu sang Mỹ là hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước
mắt chỉ những mặt hàng này gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng,
việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm
với các nhà sản xuất bản xứ. Vấn đề của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển
dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn.
Trong thời gian trước mắt, Việt Nam nên củng cố sức cạnh tranh của các
ngành công nghiệp để khi kinh tế Mỹ hồi phục sẽ triển khai chiến lược xuất
khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn.
Đối với Bất động sản:
Chỉ có FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng, resort cao cấp là có
thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên sự suy giảm trong lĩnh vực đầu tư này không
phải là điều đáng quan ngại.
Đối với Thị trường chứng khoán:
Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu
tư (NĐT). Còn hoạt động của thị trường chứng khoán vẫn do các yếu tố nội
tại của nền kinh tế nước ta quy định. Điều này thấy rõ nhất khi mà thị trường
chứng khoán Việt Nam không còn quá bị ảnh hưởng của khối ngoại. Nhưng
tháng qua mặc cho các quỹ đầu tư nước ngoài thoái vốn hay khối ngoại bán
ròng thì thị trường chứng khoán VIệt Nam vẫn sôi động . Về mặt tâm lý ảnh
hưởng lớn đến thị trường do thị trường chứng khoán Việt Nam mới được
hình thành vì vậy việc chạy theo đám đông là điều không thể chánh khỏi ở
thị trườn Việt Nam. Mặc cho các công ty chứng khoán tại VIệt Nam có mối
quan hệ làm ăn với các công ty tổ chức nước ngoài hay không thì thị trường
vẫn bị ảnh hưởng theo.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở thị trường nước ngoài có thể khiến
nguồn vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của
các tổ chức đầu tư ở Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngoài.
Nếu các công ty ở nước ngoài khó khăn thì công ty con ở Việt Nam cũng
phải dè dặt trong đầu tư. Điều này làm hạn chế nguồn cung của thị trường,
làm cho TTCK khó có thể tăng quá nhanh như vừa qua.
Đối với ngành du lịch:
Ngành du lịch Việt Nam cũng sẽ không bị tác động nhiều vì khách du
lịch vào Việt Nam rất đa dạng chứ không tập trung ở phân khúc khách cao
cấp.
VI. MỘT SỐ CUỘCKHỦNG HOẢNG TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ
KHUU VỰC
1. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ gắn liền với cuộc đại suy
thoái kinh tế thế giới 1929 – 1933:
Đồng Bảng Anh mất giá nghiêm trọng trên thị trường quốc tế và thị
trường nội địa từ giữa cuối năm 1930. Sau những cố gắng trong tuyệt vọng
đã bị phá giá vào tháng 9/1931 - với tỷ lệ phá giá 33% cùng với tuyên bố của
chính phủ Anh hủy bỏ chế độ chuyển đổi Bảng Anh ra vàng. Khi đồng Bảng
Anh phá giá thì mũi nhọn của cuộc khủng hoảng hướng vào USD, trước sức
ép nặng nề của cuộc khủng hoảng Bảng Anh, giới đầu cơ chuyển hướng tấn
công vào kho dự trữ vàng của Mỹ. Tháng 3/1933, tổng thống Hoa Kỳ ra đạo
luật đình chỉ chuyển đổi USD ra vàng, từ đó làm cho đồng USD ngày càng
mất giá thêm, tháng 1/1934 tổng thống Mỹ chuẩn y đạo luật của Hạ viện:
“Quốc hữu hoá dự trữ vàng”. Tháng 11/1934 chính phủ Mỹ tuyên bố phá giá
đồng USD với tỷ lệ 41%. Hàm lượng vàng của USD giảm từ 1,5046g xuống
còn 0,8867g
2. Cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ quốc tế năm 1967:
Đồng Bảng Anh đã bị mất giá từ đầu năm 1967, đồng Bảng Anh bị bán
ra ồ ạc trên thị trường làm cho nó ngày càng mất giá, NHTW Anh đã sử
dụng dự trữ quốc tế (USD) để mua Bảng Anh vào nhằm giữa tỷ giá Bảng
Anh không bị sụt giảm. Tuy nhiên, không chịu nổi cuộc tấn công của lực
lượng đầu cơ, tháng 11/1971 chính phủ Anh đã phải tuyên bố phá giá Bảng
Anh 14%. Tiếp theo là khủng hoảng đồng Frăng Pháp năm 1968, đồng Mác,
đồng Yên.
3. Cuộc khủng hoảng USD và sự sụp đổ của hệ thống Bretton
Woods
Thực ra thì cuộc khủng hoảng USD bắt nguồn từ năm 1967 với sự phá
giá của đồng Bảng Anh – Theo hệ thống tiền tệ Bretton Woods, ngoài đồng
USD là đồng tiền quốc tế chủ chốt số 1, còn có đồng Bảng Anh giữ vị trí
đồng tiền quốc tế chủ chốt số 2, cuộc khủng hoảng đồng Bảng Anh với sự
phá giá 14% đã góp phần đẩy nhanh cuộc khủng hoảng USD đi đến sụp đổ
năm 1971.
Giới đầu cơ đã tung ra thị trường hàng tỷ USD để mua vàng, hoặc săn
lùng những đồng tiền ổn định. Thị trường hối đoái Frankfurt, Tokyo, Zurich
đã bị chao đảo bởi làn sóng USD tràn vào từ các nơi trên thế giới, NHTW
Đức, Nhật, Thụy Sĩ …đã thả nỗi đồng tiền trong nước, vì không thể can
thiệp để cứu vãn sự xuống dốc của USD.
Trong sự khủng hoảng nghiêm trọng đó của USD, tháng 12/1971 tổng
thống Hoa Kỳ tuyên bố: “Đình chỉ chuyển đổi USD ra vàng”, “Phá giá USD
7,89%”. Sau đó tháng 2/1973 lại phá giá 10%. Hệ thống tiền tệ Bretton
Woods (còn gọi là hệ thống bán vị USD) với tỉ giá cố định đã bị sụp đổ hoàn
toàn
4. Cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ Mexico
Với sự ảnh hưởng rộng lớn và rất nghiêm trọng đến các nước châu Mỹ
la tinh cuối năm 1994
Nguyên nhân
Sau cuộc khủng hoảng nợ năm 1982, Mexico đã tiến hành một loạt cải cách
giúp khôi phục được nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng trở lại trong khi peso
Mexico lại được neo vào dolla Mỹ đã dẫn tới hiện tượng Peso lên giá so với