Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN NỘI DUNG QUY LUẬT SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ VẬN DỤNG THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.08 KB, 30 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.Lý do chọn đề tài:
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau hiện tượng mn hình
mn vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối
liên hệ có tính lặp lại của các hiện tượng, đó hình thành nên
khái niệm quy luật. Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận
thức khái niệm cơ bản là sản phẩm của tư duy khoa học, phản
ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chính thể của chúng. Các
quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con
người đều mang tính khách quan.Con người không thể tạo ra
hoặc tự ý sẽ bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó
trong thực tiễn.”Quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của
phép biện chứng duy vật, nói cho biết phương thức của sự vận
động, phát triển. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất
quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét các
sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật này sẽ
dẫn đến tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ
nhận sự tích lũy về lượng, muốn có ngay sự thay đổi về chất,
cịn hữu khuynh là khi chất đã biến đổi vượt quá giới hạn độ
nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất.
Mơ ước của mỗi học sinh khi còn cắp sách đến trường là có thể
đậu vào trường đại học mình mong muốn hay chí ít là được
bước vào ngơi trường đại học để được nghiên cứu, học tập,
được đào tạo để có kỹ năng cho cơng việc sau này. Thế nhưng
đậu đại học là một chuyện, học đại học lại là chuyện khác. Đối
với nhiều bạn học sinh sau khi trở thành sinh viên thì cảm thấy
bỡ ngỡ, cảm thấy ngợp và khơng cịn giữ được phong độ như
xưa nữa do môi trường đại học quá khác so với môi trường phổ
thông. Nếu Cứ tiếp tục học bằng phương pháp Truyền thống thì
sinh viên khơng thể tồn tại trong mơi trường đại học khắc


nghiệt được.Do đó em chọn đề tài:” quy luật sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” này với mong
muốn có thể giúp đỡ một phần nào cho bản thân và các bạn
sinh viên từ đó có thể giúp cho chúng ta hình dung được
phương pháp học tập phù hợp với bản thân và rút ra nhiều kinh
nghiệm cho mình trong việc học tập.


2.Mục đích nghiên cứu:
Giúp mọi người tìm hiểu, tham khảo rõ hơn về nội dung quy
luật sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại trong triết học Mác-Lênin. Dựa trên cơ sở đó rút ra sự
vận dụng vào thực tiễn trong quá trình xây dựng đất
nước Việt Nam và vào quá trình học tập rèn luyện của
sinh viên.

B.PHẦN NỘI DUNG:
I.QUY LUẬT SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY
ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt
lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật hiện
tượng.
Trong lịch sử triết học đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm chất và lượng cũng như quan hệ giữa
chúng.Những quan điểm đó phụ thuộc, trước hết và chủ yếu
vào thế giới quan và phương pháp luận của các nhà triết học
hay của các trường phái triết học. Phép biện chứng duy vật
đem lại khái niệm đúng đắn về khái niệm chất, lượng và quan
hệ qua lại giữa chúng, từ đó khái quát thành quy luật chuyển
hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và

ngược lại.
Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
và ngược lại là một trong những quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật. quy luật này chỉ rõ tính chất và cách thức của
sự phát triển của sự vật hiện tượng.
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và
phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự
vật, hiện tượng đã tích luỹ những thay đổi về lượng đạt đến
ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận
động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự
vật, hiện tượng diễn ra tư tư kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về
chất làm cho sự vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa có


những bước đột phá vượt bậc. Ăngghen viết: "... trong giới tự
nhiên thì những sự biến đKi về chất - xảy ra một cách xác định
chặt chẽ đối với từng trường hợp cá biệt - chỉ có thể có được do
thêm vào hay bớt đi mộtsố lượng vật chất hay vận động”
1. KHÁI NIỆM LƯỢNG VÀ CHẤT
a.Khái niệm về chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách
quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ
các thuộc tính làm cho nó là nó mà khơng phải là cái khác. (trả
lời cho câu hỏi sự vật, hiện tượng đó là gì? vàgiúp phân biệt nó
với sự vật, hiện tượng khác). Đặc điểm cơ bản của chất là nó
thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng; nghĩa là
khinó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất
của nó vẫn chưa thay đổi.
Mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có
của nó, làm nên chính nó. Nhờ đó chúng mới khác các sự vật,

hiện tượng khác.
Thuộc tính của sự vật là những tính chất những trạng thái
những yếu tố cấu thành sự vật,... Đó là những cái vốn có của
sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự
vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn
có của sự vật hiện tượng chỉ được bộc lộ qua sự tác động qua
lại của các sự vật, hiện tượng khác. Chúng ta chỉ biết nhiệt độ
cao hay thấp của khơng khí qua sự tác động qua lại của nó với
cơ quan xúc giác của chúng ta. Chất của một người chỉ được
bộc lộ thông qua quan hệ của người đó với những người khác,
với mơi trường xung quanh, thơng qua lời nói và việc làm của
người ấy. Như vậy muốn nhận thức đúng đắn về những thuộc
tính của sự vật, hiện tượng chúng ta phải thông qua sự tác
động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta hoặc thơng
qua quan hệ, mối quan hệ qua lại của nó với các sự vật khác.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện
một chất của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất
và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, khơng tách rời nhau. Trong
hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật khơng có chất và
khơng thể có chất nằm ngồi sự vật.


Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó.
Nhưng khơng phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất
của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc
tính khơng cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại
tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự
vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay
đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ

thể với các sự vật khác. Bởi vậy, sự phân chia thuộc tính thành
thuộc tính cơ bản và thuộc tính khơng cơ bản cũng chỉ mang
tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này, thuộc tính này là
thuộc tính cơ bản thể hiện chất của sự vật, trong mối liên hệ cụ
thể khác sẽ có thêm thuộc tính khác hay thuộc tính khác là
thuộc tính cơ bản. VD: Trong mối quan hệ với động vật thì các
thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng cơng cụ, có tư duy là
thuộc tính cơ bản của con người cịn những thuộc tính khác
khơng là thuộc tính cơ bản. Song trong quan hệ giữa những con
người cụ thể với nhau thì những thuộc tính của con người về
nhân dạng, về dấu vân tay,… lại trở thành thuộc tính cơ bản.
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những
yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu
tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực
các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất
của chúng lại khác. Ví dụ, kim cương và than chì đều có cùng
thành phần hóa học do các ngun tố các bon tạo nên, nhưng
do phương thức liên kết giữa các nguyên tử các bon là khác
nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Kim cương
rất cứng, cịn than chì lại mềm. Trong một tập thể nhất định nếu
phương thức liên kết giữa các cá nhân biến đổi thì tập thể đó có
thể trở nên vững mạnh, hoặc sẽ trở thành yếu kém, nghĩa là
chất của tập thể biến đổi. Từ đó có thể thấy sự thay đổi về chất
của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành
sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy.
b.Khái niệm về lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có
của sự vật về mặt số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự



vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, hiện
tượng.
Lượng là cái vốn có của sự vật, song lượng chưa làm cho sự vật
là nó, chưa làm cho nó khác với những cái khác. Lượng tồn tại
cùng với chất của sự vật và cũng có tính khách quan như chất
của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng
nhiều hay ít, quy mơ lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp
điệu nhanh hay chậm,… Trong thực tế lượng của sự vật thường
được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể như vận tốc của
ánh sáng là 300.000 km trong một giây, một phân tử nước bao
gồm hai nguyên tử hyđrô liên kết với một nguyên tử ôxy, một
nước có 50 triệu dân…v.v.. Bên cạnh đó có những lượng chỉ có
thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ tri
thức khoa học của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp
của một công dân,… trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có
thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu
tượng và khái quát hóa. Có những lượng biểu thị yếu tố quy
định kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp
thành nguyên tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống
xã hội), có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của
sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật). Đặc điểm
cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu
hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong khơng gian
và tồn tại trong thời gian nhất định. Trong sự vật, hiện tượng có
nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu tố quy định bên
trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện
tượng; sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng
cũng phức tạp theo. Trong tự nhiên và phần nhiều trong xã hội,
lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong một số trường hợp của

xã hội và nhất là trong tư duy lượng khó đo được bằng số liệu
cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng năng lực trưu tượng
hóa.
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối.
Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự
vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật
và ngược lại. Chẳng hạn, số lượng sinh viên học giỏi nhất định
của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này


cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về
lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự
vật.
Trong sự vật, hiện tượng, chất không tách rời với lượng và quy
định lẫn nhau. Một chất nhất định của sự vật có lượng tương
ứng với nó.
Ví dụ: Một cậu bé 10 tuổi (chất là “cậu
bé”) có lượng kiến thức vừa phải. Khi cậu bé trở thành thanh
niên (chất là “thanh niên”), anh ta có lượng kiến thức lớn hơn.
Như thế, sự biến đổi tương quan giữa chất và lượng tạo nên tiến
trình phát triển của sự vật.
2. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA SỰ THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG VÀ SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT THEO QUY LUẬT
LƯỢNG-CHẤT:
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa
mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong
sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không có
tính quy định về chất và ngược lại. Vì vậy, sự thay đổi về lượng
của sự vật có ảnh hưởng đến sự thay đổi về chất của nó và
ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi

về lượng của nó.
VD: như trúng xổ số, thì đây là trường hợp hãn hữu, 99% là do
may mắn quyết định. Nhưng bạn vẫn cần mặt lượng (mua xổ số
vài lần, cực hiếm người mua một lần trúng ngay) thì mới có
chất (trúng số).
Để nắm được mối quan hệ này, ta cần nắm được khái niệm về
“độ”, “điểm nút” và “bước nhảy”.
a.Khái niệm về độ
Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự
thay đổi căn bản về chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật hiện
tượng đều tồn tại trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi
vượt quá giới hạn độ thì sự vật khơng cịn là nó. Sự biến đổi về
lượng có thể xảy ra theo hai hướng: sự tăng lên hoặc giảm đi
về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay hoặc thay đổi dần dần về
chất. Do chất là cái tương đối ổn định còn lượng là cái thường
xuyên biến đổi nên ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự
vật thay đổi chưa dẫn đến sự thay đổi về chất của nó


Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động
qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi về
lượng đều có ảnh hưởng đến trạng thái chất của sự vật, nhưng
không phải những thay đổi về lượng nào cũng dẫn đến sự thay
đổi về chất. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt
tới mức phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay đổi, sự vật
chuyển thành sự vật khác.
VD1: Dưới áp suất bình thường của khơng khí, sự tăng hoặc
giảm nhiệt độ trong khoảng giới hạn từ 0-100 độ C nước nguyên
chất vẫn ở trạng thái lỏng. Trong khoảng 0 < t < 100 độ C, sự
thống nhất giữa trạng thái nước lỏng và nhiệt độ C tương ứng là

“độ” tồn tại của nước lỏng. (Ở đây cần phân biệt “độ C” và “độ
tồn tại” là hai khái niệm khác nhau). Nếu quá 100 độ C, nước sẽ
chuyển thành hơi nước. Nếu ở dưới 0 độ C, nước sẽ ở thể rắn.
VD2: Người sống lâu nhất thế giới từng được biết đến có tuổi thọ
146 tuổi. Nên với dữ kiện này, ta có thể thấy giới hạn từ 0 – 146
năm là “độ” của con người xét về mặt tuổi. Diễn đạt một cách
chính xác hơn: Sự thống nhất giữa trạng thái còn sống và số
tuổi từ 0 – 146 là “độ tồn tại” của con người. (Thuật ngữ “độ
tuổi” mà chúng ta hay dùng cũng ít nhiều liên quan ở đây).
b.Khái niệm điểm nút
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại
đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới
của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với
nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó, quá trình
này diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật ln phát triển
chừng nào nó cịn tồn tại.
VD: Ở những ví dụ đã nêu trên, 0 độ C, 100 độ C, 146 tuổi là
những điểm nút.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ
sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất
định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất. Sự thay đổi về
lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự
thống nhất giữa lượng mới và chất mới tạo thành một độ mới
với điểm nút mới.


c.Khái niệm bước nhảy
Bước nhảy là một phậm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi
căn bản từ chất của sự vật này sang chất của sự vật khác.

Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải
thông qua bước nhảy.Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn
phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và
phát triển liên tục của sự vật.
VD: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là một bước
nhảy. Có bước nhảy này là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt
độ và đạt đến 100 độ C.
Trong lịch sử triết học, do tuyệt đối hóa tính dần dần, tính tiệm
tiến của sự thay đổi về lượng nên các nhà triết học siêu hình đã
phủ nhận sự tồn tại của “bước nhảy”. Triết học Mác – Lênin cho
rằng phải có “bước nhảy” thì mới giải thích được sự vận động,
phát triển của thực tế.
Với bản chất của mỗi sự vật hiện tượng và mối quan hệ của nó
với các sự vật, hiện tượng khác, để đủ lượng tác động làm thay
đổi chất thì ta cần thực hiện một lượng bước nhảy xác định, từ
đó tạo nền sự phong phú và đa dạng của bước nhảy.
Bước nhảy đột biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn
làm thay đổi bản chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng
một sự bùng nổ mãnh liệt.
VD: Cách mạng tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thức hiện bằng việc loại
bỏ dần những yếu tố, những bộ phận cũ xảy ra trong một thời
gian dài mới loại bỏ hoàn toàn chất cũ thành chất mới.
Tuy nhiên cần lưu ý bước nhảy dần dần khác với thay đổi dần
dần. Bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa dần dần từ chất này
sang chất khác cịn thây đổi dần dần là sự tích lũy dần về lượng
để vượt qua điểm nút tạo nên sự thay đổi về chất của sự vật,
hiện tượng đó.
Căn cứ vào quy mơ thực hiện bước nhảy của sự vật có bước
nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ.

Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi bản chất của toàn
bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật.


Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những
mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú
nên muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua bước
nhảy cục bộ.
Như vậy mọi sự vật hiện tượng đều có sự thống nhất về chất,
với sự tích lũy về lượng khi vượt qua giới hạn nào đó gọi là điểm
nút thì bước nhảy được hình thành và chất của sự vật, hiện
tượng bắt đầu được thay đổi. Khi chất được hình thành thì sẽ có
tác động trở lại tới lượng của sự vật, hiện tượng, quy định nên
điểm nút và độ mới. Q trình đó diễn ra liên tục làm cho sự vật
không ngừng vận động, phát triển diễn ra theo cách thức từ
những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Đó là
q trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với
tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
3.NỘI DUNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY
ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI:
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã
hội cũng như sự phát triển nhận thức tư duy của con người đều
đi từ sự thay đổi dần về lượng được tích lũy lại khi vượt quá giới
hạn độ tới điểm nút thì gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự
vật cụ mất đi, Sự vật mới ra đời thay thế.
Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của
sự vật hiện tượng. Lượng thì thường xun biến đổi, cịn chất
tương đối ổn định. Do đó sự phát triển của lượng tới một lúc nào

đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ kìm hãm thì qua đó lại
nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ mới
để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, diễn ra một cách
phổ biến trong tự nhiên xã hội và tư duy.
Quy luật này cịn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi
về lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời
do sự biến đổi về lượng gây nên thì chất đó lại quy định sự biến
đổi về lượng, ảnh hưởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy
mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới.


a.Nội dung duy luật này được phát biểu như sau
Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay
đổi dần về lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá
độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo sự
thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi
và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại
lượng mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó,
vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước
nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác động qua lại
giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát
triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.
Điều cần chú ý là:
Quy luật này chỉ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chất và
lượng hoàn tồn xác định, mối quan hệ này hình thành một
cách khách quan chứ không thể gán ghép một cách tuỳ tiện.
đồng thời sự chuyển hoá lượng và chất bao giờ cũng phụ thuộc
vào những điều kiện nhất định.
Quy luật lượng-chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối

quan hệ giữa tiến hoá và cách mạng. Trong sự phát triển của xã
hội, sự thay đổi dần về lượng gọi là tiến hố, cịn sự thay đổi về
chất theo hướng tiến hoá lên gọi là cách mạng, tiến hoá chuẩn
bị cho cách mạng. Trong giai đoạn tiến hoá, chế độ xã hội chưa
có sự thay đổi căn bản về chất, cịn cách mạng là kết quả của
q trình tiến hố, chấm dứt một quá trình này, mở ra một quá
trình tiến hoá mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ, chế độ
xã hội mới ra đời thay thế. Cách mạng xã hội là phương thức
thay thế xã hội này bằng xã hội khác, bạo lực là hình thức cơ
bản của cách mạng.
b.Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
phải biết tích luỹ về lượng để có biến đổi về chất; khơng được
nơn nóng cũng như khơng được bảo thủ. Bước nhảy làm cho
chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của sự
vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng; nhưng sự thay
đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảyra khi lượng
đã thay đổi đến giới hạn, tức là đến điểm nút, đến độ nên muốn
tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện q trình tích luỹ về lượng.
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy


là yêu cầu khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng;
tư tương nơn nóng thường biểu hiện ơ chỗ khơng chú ý thỏa
đáng đến sự tích luỹ về lượng mà cho rằng, sự phát triển của sự
vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục; ngược lại, tư
tưởng bảo thủ thường biểu hiện ơ chỗ không dám thực hiện
bước nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do
vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên. Thứ ba, sự tác động
của quy luật này địi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học

và quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan,
nhưng quy luật xã hội chỉ diễn ra thơng qua hoạt động có ý
thức của con người; do vậy, khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh
vực xã hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện khách quan, nhưng
cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan. Nói cách khác, trong
hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và nhịp
điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo
điều, rập khn, mà cịn phải có quyết tâm và nghị lực để thực
hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt
thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép,
chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính
cách mạng. Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự
thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải biết lựa
chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên
kết đó trên cơ sơ hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
Với bất kì sự vật, hiện tượng nào đều có 2 phần chất và lượng.
Chúng quy định, tác động chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong
nhận thức và thực tiễn phải coi trọng cả 2 loại lượng và chất.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại giúp chúng ta nhận thức
được phương thức vận động và phát triển của sự vật. Điều này
có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng
và mặt chất của nó. Những nhận thức ban đầu về chất của các
sự vật chỉ trở nên đúng đắn và sâu sắc hơn khi đạt tới tri thức
về sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó. Để nhận
thức được sự vật, ta phải nhận thức trong mối quan hệ tác động
qua lại giữa sự vật đó với những sự vật khác, cũng như giữa các
mặt, thuộc tính của sự vật đó. Vì chỉ khi đó, mặt lượng và mặt

chất của sự vật mới bộc lộ ra.
Ta phải tổ chức hoạt


động thực tiễn dựa trên sự hiểu biết đúng đắn vị trí, vai trị và ý
nghĩa của sự thay đổi về lượng cũng như sự thay đổi về chất
trong sự phát triển xã hội.
Ta phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến
hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Để
xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng, ta phải xem xét
tiến hóa và cách mạng trong mối quan hệ biện chứng của
chúng. Hiểu đúng đắn mối quan hệ này sẽ giúp chúng ta có cái
nhìn nghiêm khắc với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại và
chủ nghĩa tả khuynh.
Cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù
hợp với tình cảnh cụ thể. Đặc biệt trong xã hội quá trình phát
triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn
phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó cần phải
nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy q
trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả.
Ta phải kiên trì đổi mới trên từng lĩnh vực để tiến tới đổi mới
toàn diện đời sống xã hội.
Nắm được quy luật lượng – chất sẽ giúp chúng ta có cái nhìn
tổng quan, toàn diện và xác định đúng phương pháp, lộ trình
thực hiện cơng cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
tại Việt Nam hiện nay.
Theo tính
chất, ý nghĩa và phạm vi bao quát của nó, đổi mới là một q

trình mang tính cách mạng. Ta cần phải thực hiện đổi mới thành
công trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo ra bước nhảy
về chất ở đó. Với sự thành cơng trên nhiều lĩnh vực, ta có cơ sở
thực tế để đổi mới thành cơng tồn diện đất nước Việt Nam. Đó
là khi ta tạo được bước nhảy về chất của tồn bộ xã hội nói
chung.
Những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay chỉ có thể là
kết quả của qúa trình thay đổi về lượng thích hợp. Do đó, bất kỳ
sự nơn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra những
tổn thất lớn cho đất nước.
II. VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM, VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN:


1.VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM
Đảng ta vận dụng quy luật này một cách sáng tạo, tiêu biểu và
rõ ràng nhất trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
trên các lĩnh vực Kinh tế - Văn hóa – Chính trị - Xã hội.
a.Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Ở nước ta, lịch sử đã đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát
triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ những năm 20 của thế
kỷ XX, khi chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam bắt gặp
con đường Cách mạng tháng Mười Nga, hồ nhập vào xu hướng
tiến hố chung của nhân loại : quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Qua thực tiễn đấu tranh cách
mạng và nhất là từ khi tiếp cận với bản Sơ thảo luận cương của
VI Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đi đến
kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc khơng có con

đường nào khác con đường cách mạng vơ sản; rằng chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ. Để có một bước nhảy cách mạng đó đưa đất nước
Việt Nam sang một chế độ khác ( “chất” khác ) là đất nước xã
hội chủ nghĩa, cương lĩnh đầu tiên ( 1930 ) của Đảng ta cũng đã
khẳng định : Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân, nước ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa
chọn dứt khốt và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng
thiết tha ngàn đời của dân tộc, phản ánh đáng xu thế của thời
đại, phù hợp với quan điểm cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Cả một q trình tích lũy về đủ lượng để có một sự biến đổi về
chất, chất mới được tạo nên những đồng thời nó lại tạo nên
lượng mới. Chúng ta cứ tưởng rằng sau khi chiến thắng đế quốc
Mỹ thì chúng ta sẽ có một nước xã hội chủ nghĩa đích thực,
thắng đế quốc, thực dân được thì thắng nghèo nàn, lạc hậu
cũng chỉ là vấn đề thời gian; rằng chúng ta có thể dễ dàng tiến
thẳng lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa. Có thể nói, nhận thức đó của chúng ta về sự phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là ấu trĩ, sai lạc và duy ý chí.
Vấn đề đặt ra là chúng ta phải hiểu lượng mới ở đây là chúng ta


cần phải có một thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa chính trong
thời kỳ này chúng ta sẽ có những thay đổi phát triển về mọi
mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục... Chính vì nhận thức
được điều đó Đảng ta đã có chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,

phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất q độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra
sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.
Với tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới nhưng không làm thay đổi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà trái lại, làm cho mục tiêu đó thực
hiện một cách có kết quả hơn trên cơ sở nhận thức đúng về chủ
nghĩa xã hội, đề ra những hình thức và bước đi thích hợp, thấm
nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể và phát triển, chúng
ta cần chủ động khắc phục những cách hiểu sai, cách nghĩ,
cách làm giãn đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật.
Trên cơ sở quan niệm đúng về chủ nghĩa xã hội, với tinh thần
phê phán cách mạng, với sự kiên định mục tiêu lý tưởng và một
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tương
lai tươi sáng của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã và sẽ từng bước
được thực hiện hớ một cách sinh động trên đất nước ta.
b.Trên lĩnh vực kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
nhưng được diến đạt gọn hơn, nói rõ được mơ hình hinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ.
Nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền
kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế hiện vật, tự cấp, tự
túc, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp. Nhưng đó
cũng khơng phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói
của tư bản, tức là không phải nền kinh tế thị trường TBCN, và
cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN, cịn có sự đan
xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có lại vừa chưa có

đầy đủ các yếu tố CNXH.


Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một
tất yếu khách quan. Bởi vì:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là kết quả của sự nhận thức
và vận dụng quy luật vè sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cùng với CNH,
HĐH đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là con
đường kinh tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên CNXH. Nước ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là thời kỳ đang thực hiện hoá
dần dần CNXH, thời kỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế q
độ, vừa có CNXH vừa còn CNTB. Chủ trương xây dựng kinh tế
thị trường định hướng XHCN là phù hợp với bản chất của thời kỳ
lịch sử đặc biệt này.
Chúng
ta đã biết thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong
đó kết cấu kinh tế - xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã
hội cũ đang suy thoái dần, vừa bao hàm những yếu tố của xã
hội mới ra đời đang lớn lên từng bước nhưng chưa dành toàn
thắng.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội đang chuyển từ chế độ này
sang chế độ khác, ở đó chưa có phương thức sản xuất nào giữ
vị trí thống trị tuyệt đối, trong đó mỗi phương thức chỉ là một
“mảnh” một “bộ phận” của kết cấu kinh tế xã hội, vừa độc lập
tương đối, vừa hợp tác và đấu tranh với nhau. Mỗi “mảnh”, mỗi
“bộ phận” ấy là một thành phần kinh tế.
Thành phần kinh tế khác phương thức sản xuất ở chỗ khi nó
chưa vươn lên đóng vai trị thống trị, nhưng cũng khơng ở vào
vị trí chi phối, nó tồn tại như một bộ phận tương đối độc lập,

đan xen với các bộ phận khác của kết cấu kinh tế-xã hội. Do
vậy, nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng riêng có của
thời kỳ quá độ lên CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng
hố nhiều thành phần, qua đó tiềm năng của các thành phần
kinh tế được khai thác để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống
nhân dân, đảm bảo xây dựng thành công CNXH.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
tất yếu khách quan, là sự nhận thức đúng đắn quy luật từ


những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại. Điều đó có nghĩa là khi chúng cha chưa tích luỹ được
đầy đủ những điều kiện vật chất cho CNXH thì chúng ta chưa
thể nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất XHCN ngay như trước
năm 1986 chúng ta đã làm, mà chúng ta phải tiến hành dần
dần, hay nói cách khác, chúng ta phải có một thời kỳ quá độ.
Giữa thập niên bảy mươi, với nền kinh tế phổ biến là sản xuất
nhỏ, lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại sản xuất và mở rộng
quy mô hợp tác xã, áp dụng mơ hình chủ nghĩa xã hội của Liên
Xơ, với hy vọng nhanh chóng có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn,
chúng ta đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí cả về
trong lý luận lẫn trong chỉ đạo thực tiễn. Điều đó đã làm cho
các mục tiêu của Đại Hội IV của Đảng đề ra đề ra đều khơng
đạt. Và tiếp đó Đại Hội V đề ra những chủ trương lớn: tập trung
phát triển nông nghiệp, nông nghiệp được xem là mặt trận
hàng đầu; ra sức đẩy mạnh sản xuất tiêu dùng; tiếp tục xây

dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng... Tuy vậy,
Đại Hội V vẫn tiếp tục đường lối do Đại Hội IV đã vạch ra, không
phản ánh được đầy đủ tạo nên sự thay đổi. Điều đó làm cho
tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam vào những thập niên 80
dường như cũng lao nhanh vào khủng hoảng. Từ đầu năm 1985
đến cuối năm 1986 , tình hình trở nên nghiêm trọng hơn. Sản
xuất nơng nghiệp vẫn tiếp tục trì trệ, lương thực khơng đủ
dùng. Các xí nghiệp ln trong tình trạng “lãi giả lỗ thật “. Nhà
nước bao cấp tràn lan. Lưu thông, phân phối ách tắc. Đời sống
nhân dân khó khăn đến cùng cực. Tiêu cực xã hội có điều kiện
sinh sơi, nảy nở. Nhan dan bất bình; họ cảm thấy không thể
tiếp tục sống như cũ được nữa. Đảng và Nhà nước cũng thấy
khơng thể duy trì những chính sách và cơ chế cũ. Khủng hoảng
kinh tế xã hội đã đến độ nguy hiểm. Chính thời điểm này là
điểm nút của sự biến đổi về “chất” (kinh tế xã hội) sau một quá
trình dài thay đổi và tích lũy đủ về “lượng”. Và bước nhảy của
sự biến đổi này được tạo nên do sự sáng tạo và nhận thức
đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta khi thực hiện
cơng cuộc đổimới. Việc đó được nêu rõ trong Đại Hội VI tháng
12 năm 1986 đó là : chuyển đổi nền kinh tế của nước ta từ mơ
hình kế hoạch hố tập trung, quan liêu, bao cấp, dựa trên chế


độ công hữu về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới là đường lối sáng tạo độc đáo, độc lập, tự chủ của Việt
Nam, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc Việt
Nam. Và cũng vì nhận thức đúng đắn việc thực hiện thành cơng
q trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ
mang lại bước nhảy về chất trong các phạm vi tương ứng đó.

Việc thực hiện thành cơng q trình đổi mới tồn diện tất cả
các mặt của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất của
toàn bộ xã hội ta nói chung. Cũng như trong bất kỳ một sự thay
đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình đổi mới
cũng chỉ có thể là q trình thay đổi về lượng thích hợp nên
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nắm bắt được những thách
thức trong công cuộc đời mới này để từ đó đã có những bước đi
đúng đắn thể hiện qua việc thực hiện các chỉ tiêu của các kỳ
Đại Hội VII, VII, IX. Công cuộc 15 năm đổi mới của đất nước ta
qua đã tạo được những thành tựu to lớn:
Kinh tế tăng trưởng khá, GDP tăng bình qn hàng năm 7%.
Nơng nghiệp phát triển mạnh, giá trị sản lượng cơng nghiệp
bình qn hàng năm 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng, bưu
chính viễn thông, đường sá... được tăng cường. Các ngành dịch
vụ và xuất khẩu đều phát triển.
Hiện tại trong q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa thì Đảng
cũng đã vận dụng “quy luật sự thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại” trên mặt kinh tế như đẩy mạnh
xuất khaaru, thu hút vốn đầu tư của nước ngồi thơng qua các
dự án đâu tư,hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh
phong trào đào tạo nâng cao tay nghề cho nhân viên, tăng
cường hợp tác trao đổi học hổi những công nghệ mới của các
nước tiên tiến trên thế giới, tiến hành xây dựng các khu cơng
nghiệp.
c.Trên lĩnh vực chính trị - xã hội
Giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời trong quá trình khai thác
lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897-1914). Sau chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhấn Việt Nam
phát triển với tốc độ nhanh. Trong xã hội thuộc địa, nửa phong



kiến, ban lãnh đạo nhằm mục đích đánh đuổi ách thống trị của
thực dân Pháp phong kiến, thiết lập dân quyền.
Các phong trào yêu nước Việt Nam chống Pháp cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX : Phong trào Đông Du (1960- 1908 ), khởi nghĩa
Yên Bái ( 09/02/1930 ) và các phong trào yêu nước khác trong
các tầng lớp tiểu tư sản thành thị vào những năm 1940 – 1930
đều thất bại vì đường lối chính trị khơng khoa học, tổ chức lỏng
lẻo, khơng có cơ sở rộng rãi trong quần chúng. Mặc dù không
thành công nhưng các phong trào yêu nước đó đã thức tỉnh, cổ
vũ truyền thống yêu nước, chỉ căm thù giặc Pháp của nhân dân,
đã gây tiếng vang trên thế giới và thúc đẩy phong trào cách
mạng Việt Nam tiếp tục đi lên. Những thất bại đó chứng tỏ sự
khủng hoảng và bế tắc đường lối cứu nước ở nước ta Cách
mạng Việt Nam bức thiết phải đòi hỏi lực lượng lãnh đạo tiên
tiến, với con đường đúng đắn để đưa cách mạng đi tới thành
công
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, phát triển và trưởng thành
đã mang đầy đủ các đặc điểm của giai cấp cơng nhân hiện đại,
là một lực lượng chính trị độc lập nên có đủ khả năng lãnh đạo
tồn dân hồn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp
Trước sự cấp thiết phải có đội tiên phong lãnh đạo giai cấp công
nhân đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng đã lãnh
đạo những cuộc cảnh mạng năm 1930 – 1931 (là cuộc tổng
diễn tập đầu tiên cho Cách mạng tháng Tám ), năm 1932 –
1935, năm 1936 – 1939 – đây là cuộc tổng diễn tập lần thứ 2 về
các hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh chính trị của
quần chúng chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Chính những sự tích lũy về tư tưởng lý luận, về quy mô, về thời
cơ, về lực lượng phong trào từ những phong trào yêu nước cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và cao trào là 2 cuộc Cách mạng năm
1930 – 1931 và năm 1936 – 1939 đã dẫn đến sự thành công
của Cuộc cách mạng Tháng Tám, đưa đất nước bước sang một
trang sử mới.
d.Trên lĩnh vực văn hóa :


Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu một mốc son vĩ đại trong lịch sử
dân tộc, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên của độc lập, tự chủ,
xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Từ đây, những nội
dung của bản Đề cương văn hoá dần dần được bổ sung, phát
triển theo tình hình cách mạng của dân tộc.
Sau năm 1955, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền Miền bắc
xây dựng, phát triển kinh tế-chính trị, văn hố-xã hội xã hội chủ
nghĩa, Miền nam cịn chịu ách thống trị của thực dân-đế quốc
Mỹ, do đó văn hoá Miền nam bị ảnh hưởng nhiều bởi lối sống
của văn hố Phương tây.
Năm 1975, Miền nam hồn tồn giải phóng, đất nước độc lập,
giang sơn thu về một mối, văn hoá Việt Nam thống nhất phát
triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trải qua một thời kỳ văn hóa bao cấp, năm 1986 Đảng ta đổi
mới tư duy phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống mới. Từ đây, cùng với các lĩnh
vực khác, văn hoá được Đảng ta trú trọng quan tâm bằng
những quyết sách cụ thể.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa V)
tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI chỉ rõ: "Cơng tác văn

hố, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi
hoạt động văn hố, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội,
tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ
giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân
quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp
xã hội và các lứa tuổi".
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VI)
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI vạch ra nhiệm vụ của
cách mạng văn học Việt Nam là “Tiếp tục xây dựng và phát
triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền
thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại. Vận động toàn dân đã cuốn hút tất cả các nền
văn hoá dân tộc trên thế giới vào quỹ đạo chủng Chính q
trình này đã diễn ra sự "đụng độ" giữa các nền văn minh, và
văn hoá của các dân tộc cổ cơ hội được "cọ sát".


Tồn cầu hố là cơ hội để Việt Nam tham gia vào sân chơi trí
tuệ" của thế giới, từ đó học hỏi, thu nhận có chắt lọc những tinh
hoa văn hố nhân loại. Nhưng tồn cầu hóa cũng là một thách
thức khơng nhỏ, bởi vì nếu khơng vững lập trường sẽ rất dễ
đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy, phải xác định: "Hồ
nhập nhưng khơng hồ tan", Văn hoá là tấm thẻ căn cước để
tham gia vào quá trình hội nhập, nhưng bằng mọi giá phải giữ
cho được tấm thẻ đó, nếu mất nó là đánh mất quyền lợi trong
cuộc chơi" và cũng đồng nghĩa với việc đánh mất mình.
2.VẬN DỤNG VÀO TRONG Q TRÌNH HỌC TÂP RÈN
LUYỆN CỦA SINH VIÊN
Bước vào trường Đại học tức là trở thành một sinh viên, một bộ
phận đóng vai trị quan trọng chủ chốt trong tương lai của đất

nước.Đó là một vinh dự, một phần thưởng cao quý dành cho
những học sinh có tinh thần nhiệt tình, có ý chí quyết tâm trong
những năm học của phổ thông. Nhưng liệu sự nhiệt tình, ý chí
quyết tâm trong thời phổ thơng đó có cịn được phát huy và
những phương pháp học tập có cịn phù hợp với chúng ta khi ở
trong mơi trường đại học hay khơng? Đó là những vấn đề hệ
trọng có ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập của chúng ta. Bởi
lẽ đó sinh viên cần phải dành nhiều thời gian để xem xét một
cách thận trọng và nghiêm túc ngay từ những năm đầu của
khóa học.
a.Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thơng và
Đại học.
Q trình chúng ta học tập tại phổ thơng là nền móng để xây
dựng trình độ học vấn cho con người, là cơ sở để thiết lập một
nền giáo dục đại học. Bởi vậy nhà trường phổ thông và đại học
có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng vì mục tiêu, u cầu đào
tạo, mỗi cấp có mức độ khác nhau, do đó nhiệm vụ học tập của
người học sinh phổ thông khác với nhiệm vụ học tập và nghiên
cứu của sinh viên.
Ở trường đại học sinh viên phải quan tâm đến các hình thức
học tập: thí nghiệm, thực nghiệm, bảo vệ đồ án, làm đề tài
khoa học ... tất cả những việc làm đó đều có những yêu cầu
mới và cao hơn nhiều so với cách học ở trường phổ thơng. Ở
đây có sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi


về hình thức bởi vậy có thể nói sự chuyển đổi từ phổ thông lên
Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất.
Chính vì vậy mà người sinh viên cần thay đổi nếp sống mới sao
cho phù hợp hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với các yêu cầu của

ngành giáo dục đối với Đại học.Chỉ khi nào làm được như vậy
sinh viên mới hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong
q trình học tập và nghiên cứu của mình.
b.Phong cách học của sinh viên phải được hiểu thế nào.
Nhiệm vụ của một người sinh viên trường Đại học là phải học
tập rèn luyện tu dưỡng phấn đấu thành những người lao động
tốt, những cán bộ cơng nhân viên chức góp phần xây dựng và
bảo vệ đất nước. Muốn làm tròn nhiệm vụ nặng nề ấy, ngay từ
khi ngồi
trên ghế nhà trường mỗi sinh viên phải quán triệt sâu sắc quan
điểm giáo dục của Đảng và về công tác đào tạo cán bộ, phải
thấu suốt mục tiêu đào tạo của trường mình học, có như vậy
mới xây dựng được phong cách và phương pháp học tập rèn
luyện hợp lí.
Là những sinh viên, chúng ta phải biết cụ thể hóa những quan
điểm giáo dục, đào tạo của Đảng và nhà nước thành những
nhiệm vụ thiết thực, những việc làm bổ ích, phải biết vận dụng
sáng tạo nó vào trong q trình thực hiện nhiệm vụ chính trị
của người sinh viên. Trước những yêu cầu to lớn đang đặt ra
trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mỗi sinh viên cần có
những suy nghĩ đầy đủ về chính trị và trách nhiệm của
mình.Mỗi sinh viên cần phải có đóng góp vào sự nghiệp cách
mạng những gì có thể làm được ngay từ khi ngồi trên ghế nhà
trường. Ở đây cần phải hiểu rằng quá trình thực hiện các nhiệm
vụ phương hướng cụ thể . Đối với học tập nghiên cứu cũng vậy ,
mỗi sinh viên phải tự đặt ra cho mình những câu hỏi : “ học để
làm gì?”, “ học để phục vụ ai?”. Xác định được mục đích học
tập nghiên cứu là hiểu được mình phải phấn đấu để trở thành
con đối với bậc giáo dục Đại học cùng các vấn đề khác có liên
quan.

Hiện nay trong các nhà trường tình trạng sinh viên xác định
mục tiêu phấn đấu một cách chung chung, học cốt sao chỉ để
qua các kì thi. Chính vì thế nên nhiều sinh viên vẫn chưa tìm


được phương pháp học tập tốt. Quả thật : “Nếu khơng có mục
đích thì con người khơng làm được gì cả và không thể làm nên
cái vĩ đại nếu mục đích tầm thường”[Didiro].
Điều cần nhớ là việc xác định mục đích học tập nghiên cứu
khơng chỉ diễn ra trong giai đoạn mới vào trường , mà nó là một
q trình lâu dài.
“ Điều quan trọng khơng phải vị trí ta đang đứng mà là hướng
ta đang đi”. Trong quá trình học tập và nghiên cứu, nếu mỗi
sinh viên đều xác định được một hướng đi cụ thể, có mục đích
đúng đắn thì đó là nhân tố quan trọng nhất để có thể đạt được
thắng lợi.
c.Hình thành động cơ học tập và nghiên cứu.
Việc xác định mục đích học tập nghiên cứu có quan hệ chặt chẽ
với việc xác định động cơ học tập nghiên cứu. Bởi vì động cơ với
tư cách là nguyên nhân của hành động đã trở thành động lực
bên trong có tác dụng thúc đẩy mọi sức mạnh tinh thần và vật
chất của con người hành động theo những tri thức và niềm tin
sẵn có. Mặt khác động cơ với tư cách là mục đích của hành
động sẽ quy định chiều hướng của hành động, quy định thái độ
của con người đối với hành động của mình.
Xác định được động cơ học tập nghiên cứu là ý thức được
nhiệm vụ của mình. Ở các trường Cao đẳng, Đại học nếu sinh
viên muốn học tốt thì phải có động cơ mạnh mẽ . Khi xây dựng
động cơ học tập nghiên cứu chúng ta cần chú ý đến đặc điểm
tâm lý cá nhân của bản thân và đặc điểm nghề nghiệp đang

theo học.
Động cơ là cái thuộc về lĩnh vực tình cảm thầm kín.Nó được
hình thành và phát triển trong q trình hoạt động nghề
nghiệp. Bởi vậy, nếu lịng yêu nghề càng cao thì động cơ học
tập nghiên cứu càng trở nên sâu sắc.Có điều là sự biểu hiện của
động cơ thường rất tế nhị, nó khơng phơi bày một cách lộ liễu,
cho nên muốn nắm bắt được nó thì phải đi sâu vào lĩnh vực tâm
tư tình cảm con người.
Có thể khẳng định giá trị của việc xác định động cơ là ở chỗ nó
có tính chất quyết định nội dung, phương hướng và cả phương
pháp học tập đúng đắn. Hiểu mình , hiểu việc kết hợp với lòng


tự tin là hoàn thành được một phần cơ bản của cơng việc định
làm cịn chắc chắn rằng thiếu tự tin là nguyên nhân dẫn đến
thất bại.
d.Phương pháp học tập của sinh viên.
Q trình học tập ở đại học khơng phải chỉ bắt đầu ở giảng
đường khi sinh viên nghe thầy giáo giảng bài hoặc trao đổi
tranh luận, Quá trình này chỉ thật sự bắt đầu khi sinh viên
chuẩn bị một cách tích cực các điều kiện cần thiết để tiếp cận
mơn học như: đọc trước giáo trình, tìm tài liệu có liên quan. Sự
chuẩn bị này càng trở nên hiệu quả hơn khi đi liền với nó là một
sự chuẩn bị về mặt tâm thế để có thể tiếp cận kiến thức một
cách chủ động sáng tạo. Với sự chuẩn bị tâm thế này, sinh viên
có thể chủ động tự đặt trước cho mình một số câu hỏi có liên
quan đến nội dung được đặt trên lớp, thậm chí có thể tự tạo cho
mình một cái “ khung tri thức” để trên cơ sở đó có thể tiếp nhận
bài học một cách hệ thống. Với cách chuẩn bị tri thức mà sinh
viên có được khơng phải là một tri thức được truyền đạt một

chiều từ phía người dạy mà cịn do chính sinh viên tự tạo ra
bằng cách chuẩn bị các điều kiện thực tế và tâm thể thuận lợi
cho sự tiếp nhận tri thức. Bởi vậy có thể nói rằng học là q
trình “hợp tác” giữa người dạy và người học.
VD: Sau 04 tháng học tiếng Anh, mỗi tháng tự học 30 cấu trúc
ngữ pháp, thì từ chỗ chưa thể đọc được một bài báo tiếng
Anh(cả về lượng-tức vốn tiếng Anh ít và về chất-tức khơng đọc
được), bạn sẽ đọc được ngon lành một bài báo tiếng Anh trên
CNN hay Reuters ( cả lượng và chất bước nhảy nhiều lên và mới
hơn) VD: bạn đi làm chăm chỉ nhiều năm (lượng), chịu khó đúc
rút kinh nghiệm thì bạn có kiến thức chun mơn rất sâu (chất).
Khi đó, lượng đã giúp biến đổi chất. Đến lượt nó, chất mới
(chuyên môn sâu) lại đem đến cho bạn lượng mới (thu nhập cao
hơn).
Sự chuẩn bị nói trên sẽ được nâng cao hơn khi sinh viên biết tự
tổ chức, sắp xếp quá trình học tập của mình một cách có tổ
chức và có hệ thống.
Nếu bạn có ước mơ hi vọng rằng bạn phải có thì hãy nâng niu
nó, vì ước mơ của bạn là bánh lái sẽ quyết định hướng đi cho
cuộc đời. Tuổi trẻ khơng có trước mơ thì khơng phải là tuổi trẻ.


Tuổi trẻ chính là ước mơ và lịch sử thuộc về những người biết
mơ ước. Muốn đạt được ước mơ của mình, điều trước tiên bạn
phải học tập. Nhưng học như thế nào, học ra sao để có thể đạt
được mục đích, điều đó khơng phải là dễ. Vì vậy mỗi chúng ta
phải xác định rõ cho mình một phương pháp học tập tốt nhất.
Do đó quy luật lượng chất có ý nghĩa rất to lớn.
Muốn có sự thay đổi về chất phải trải qua mét quá trình rất lâu
dài để tích lũy lượng. Trong việc học tập cũng vậy, khơng thể

vội vàng, nơn nóng, phải tích lũy kiến thức dần dần. Bác Hồ đã
nói "vì sự nghiệp 10 năm trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm
trơng người", qua đó ta hiểu rằng q trình tích lũy là rất lâu dài
khơng thể một sớm một chiều mà hồn thành được. Trong quá
trình học tập, bạn phải phát triển khả năng ra quyết định đó
mới là mục đích của giáo dục.
Đời chỉ là một chuỗi những quyết định và quyết định sai trái có
thể làm tiêu tan cả cuộc đời: khơng ai khác có thể quyết định
cho bạn mà chính bạn phải tự quyết định cuộc đời mình. Ví dụ
nh quyết định thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng.
Học tập là q trình lâu dài, có người học tập cả đời vẫn cảm
thấy chưa đủ bởi thế giới tri thức là bao la vô tận. Mỗi ngày họ
học được một ít, dần dần là họ đã có một khối lượng kiến thức
rộng lớn. "thiên tài có tới 99% là cần cù và chăm chỉ, chỉ có 1%
là trí thơng minh", vì vậy sự chăm chỉ là rất cần thiết. Học sách
vở, học bạn, học thầy, phải biết biến kiến thức của họ thành
của mình, tích lũy dần từ nhỏ đến lớn rồi sẽ thành công. Thế hệ
chúng ta bây giờ đã bắt đầu phải bước nhanh hơn và vững hơn.
Học khơng bao giờ có thể coi là đủ cả. Hãy chọn những gì đúng
và dành cho nã mọi sự nỗ lực của mình, chỉ lúc đó, mồ hôi,
những nỗ lực ngày hôm qua cho ngày hôm nay mới tiếp tục đưa
lại kết quả cho ngày mai: "Vừa đủ không bao giờ là vừa đủ cho
bạn cả”. Thời gian trôi qua rất nhanh. Bạn không thể lấy lại thời
gian, cịng khơng thể được sống 2 lần do vậy đừng cho giây
phút nào trơi qua vơ ích cả vì mọi thứ đều được xây dựng trong
sự tích luỹ của những giây phút khơng ai có thể cho bạn lại thời
gian. Là sinh viên, chúng ta nên học tập chăm chỉ, tìm thấy
niềm hân hoan trong học tập. Đừng nghĩ rằng học hành là điều
gì đó bắt buộc đối với bạn mà bạn phải làm, hãy nghĩ rằng sự
học là cái gì đó thuộc về bạn, bạn muốn làm thì nó sẽ trở thành



thú vị và là nguồn vui. Trong cuộc đời, không có gì mà khơng
phải trả giá và khơng có gì tới ngẫu nhiên, khi bạn đầu tư vào
nó ắt sẽ đem lại kết quả như bạn mong muốn...
Đừng bao giờ cho phép ai khác đứng trên bạn, nhượng lại cho ai
đó khơng phải là ân sủng mà là hèn hạ, đó khơng phải là sự hy
sinh mà là sự thấp kém trong hành động. Đừng muốn trở thành
người thứ hai và đừng nghĩ vị trí cao nhất khơng hợp với bạn.
Có một vài sinh viên đặt cho mình mục tiêu là học giỏi nhất lớp,
vì vậy ngày đêm đèn sách và đạt được mục đích Nhưng như thế
chưa thể khoanh tay mãn nguyện được mà bạn phải đặt ra cho
mình một mục tiêu khác cao hơn, ta phải nghĩ rằng khơng bao
giờ mình đạt nổi cái đích cuối cùng của mình và khi đã thực
hiện bước nhảy, bạn phải nắm chắc thành công. Bạn phải
không ngừng phát triển bản thân. Triết gia người Pháp Henri
Bergson nói rằng tiến bộ chính là bản chất của cuộc sống, khi
còn trẻ chúng ta phải ra sức trau dồi kinh nghiệm và tài năng
để hiểu biết nhiều "Tri thức là sức mạnh”, "Học, học nữa, học
mãi” câu nói ấy của Lênin càng giúp ta hiểu rõ hơn học không
bao giờ là đủ, chất chỉ thay đổi khi lượng được tích lũy đủ.
Nhưng hiện nay thanh niên làm gì cũng muốn có kết quả
nhanh, khơng chịu tích lũy mà muốn biến đổi chất, điều đó
khơng thể vì nó trái với quy luật này. Ngay bây giờ khi còn đang
ngồi trên ghế nhà trường chúng ta hãy nỗ lực phấn đấu, học tập
thật chăm chỉ, trau dồi tri thức, tu dưỡng rèn luyện đạo đức,
trang bị cho mình một hành trang để sẵn sàng vững bước đi
lên, trở thành một cơng dân có ích cho xã hội, góp phần xây
dựng đất nước ngày càng văn minh hơn, tiến bộ hơn và giày
đẹp hơn.

Trong khi làm việc chính là một q trình học tập hiệu quả nhất
bởi vậy trong các buổi thực hành thí nghiệm sinh viên cũng
phải làm việc một cách chăm chú và có ý thức.
Ngoài ra sinh viên phải biết cách tự suy nghĩ lại và biết cách lật
ngược vấn đề theo một cách khác. Khả năng này giúp cho sinh
viên biết cách cải thiện điều kiện, phương pháp pháp và kết
quả | học tập của mình. Về bản chất, tư duy đại học không phải
là một thứ tư duy đơn tuyển, một chiều mà đó chính là hình
thức tư duy đa tuyển , phức hợp đòi hỏi người đọc, người dạy,
người nghiên cứu phải có tính sáng tạo cao, ln biết cách lật


×