Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Nguyễn Trung Trực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.73 KB, 11 trang )

Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.

Nguyễn Trung Trực (1839 (1) – 1868) là vị thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa
chống Pháp ở Tân An (nay thuộc Long An) và Rạch Giá (nay thuộc Kiên
Giang), gần cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ.
I. Cuộc đời:
Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ơng có tên là Chơn, từ năm Kỷ Mùi
1859 đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính
tình ngay thật, nên thầy dạy học của ông đặt tên hiệu cho ông là Trung
Trực ( theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam, sách dẫn bên dưới, tr.46)
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh
Bình Định. Ơng nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng tức
Thăng, mẹ là bà Lê Kim Hồng.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông
phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chun
nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân
An (nay thuộc ngoại ô thị xã Tân An, tỉnh Long An.) và sinh sống bằng nghề
chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa
xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm
Dơi, tỉnh Cà Mau.)
Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ơng là người có thể
lực khoẻ mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.


Tháng 2 năm 1859, Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là
dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri
Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số nơng dân vào
lính để gìn giữ đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định.
Năm 1861, nhờ lập được cơng lao, nên ơng được triều đình phong chức
Quyền sung Quản đạo” (Hỏi đáp lịch sử tập 4 , sách dẫn bên dưới, tr.46.
Phan Thành Tài trong Nam Bộ - đất và người ghi là “quyền sung quản binh


đạo”(Hội Khoa học lịch sử TP. HCM, NXB Trẻ tr. 159) nên còn được gọi là
'''Quản Chơn''' hay '''Quản Lịch'''.
Nghĩa quân dưới quyền lãnh đạo của ông gồm một số nhà yêu nước: Lâm
Quang Ky, Hoàng Khắc Nhượng, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Học, Hồ
Quang v.v…
II. Chiến công:
Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt đã tóm gọn hai chiến cơng nổi bật của Nguyễn
Trung Trực bằng hai câu thơ nổi tiếng sau:
Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.
Thái Bạch dịch:
Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần.
2.1 Hỏa hồng Nhật Tảo:
Sau khi đại đồn Chí Hịa thất thủ (25 tháng 2 năm 1861), Nguyễn Trung
Trực về Tân An. Lúc này, Pháp đã chiếm Mỹ Tho (tức thành Định Tường
thất thủ vào ngày 12 tháng 4 năm 1861) nên thường cho những tàu chiến
vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động.
Một trong số đó là chiếc tiểu hạm Espérance (Hy Vọng), án ngữ nơi vàm
Nhựt Tảo, thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
Tiểu hạm Espérance là một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng chạy bằng hơi
nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị đại bác cùng nhiều
vũ khí đa năng. Đây là một trong những tàu thuộc hàng bậc nhất của hải
quân Pháp lúc bấy giờ.
Vào trưa ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực cùng phó quản
binh Huỳnh Khắc Nhượng và Võ Văn Quang (theo Hỏi đáp lịch sử, còn
Phan Thành Tài ghi tên là Nguyễn Văn Quang) tổ chức cuộc phục kích đốt
cháy tàu này. Nguyễn Phan Quang cho biết: Theo tài liệu của Pháp thì trong



trận đốt cháy tàu Espérance, Nguyễn Trung Trực đã được sự hướng dẫn, hổ
trợ của Trương Định.(Việt Nam thế kỷ 19'', NXB TP. HCM, 2002, tr. 289).
Trận Nhật Tảo có 2 ý kiến khác nhau: thứ nhất ông Trực cho giả làm thuyền
đám cưới qua sông, thừa lúc áp sát tàu Espérance rồi đánh úp; thứ hai là ông
Trực cho giả làm thuyền bn lúa, để đánh chìm tàu. Ý kiến sau được nhiều
người chấp nhận, trong đó có sự đồng thuận của một số người tác giả người
Pháp như Paulin Vial, Alfred Schreiner…
Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự người
Việt, chỉ có 5 người trốn thốt (2 lính Pháp và 3 lính Tagal, tức lính đánh
th Philippines, cũng cịn gọi là lính Ma Ní.)
Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải qn Parfait khơng có mặt,
nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã ra lệnh đốt cháy nhiều nhà cửa trong thôn
Nhật Tảo.
Chiến thắng này được triều Nguyễn cho ban thưởng và ghi chép lại trong
sử.
Còn với Pháp, viên thanh tra bản xứ tại Nam Kỳ tên Paulin Vial gọi đây là:''
“một sự kiện đau đớn” làm người An Nam phấn chấn và gây xúc động, đau
lòng sâu sắc trong lòng người Pháp”.( theo Paul Vial: “ Les premières
années de la Cochinchine, Colonie Francaise”, 2 quyển, Challamet Ainé,
Libraire Editeru, Paris, 1874, tr.124)
Và Alfred Schreiner gọi chiến thắng Nhật Tảo:
“Đấy là khúc nhạc mở đầu cho một cuộc tổng cơng kích hầu như tồn bộ các
đồn lũy của người Pháp” (Alfred Schreiner: “ Abrégéde I’histoire D’ An
nam”,2è Éd. Sài Gòn, 1906, tr.224)
Ở một trang khác, tác giả nhận định:
“Cuộc đốt cháy tàu Espérance là một biến cố bi thảm đã gây nên một nỗi
xúc động sâu sắc nơi người Pháp và kích thích một cách lạ lùng trí tưởng
tượng của người Annam "(sách đã dẫn, tr.223)''
Thật vậy, từ sau chiến thắng trên, hàng loạt cuộc tấn công trên sông liên tiếp
diễn ra, như: nghĩa quân Nguyễn Trung Trực tấn công tàu tuần tiểu Pháp

trên vàm sông Bến Lức (tháng 12 năm 1862) và trên Sông Tra (Sông Tra,
nay thuộc xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.) vào ngày 16 tháng
12 năm 1862 (có sách ghi ngày 17) gây nhiều thiệt hại cho đối phương''.


Paul Vial kể:
“Ba chiếc tiểu hạm (Iorcha) đậu trên sông Vaico Đơng (tức Vàm Cỏ Đơng)
nhằm kiểm sốt sự lưu thông đường thủy, bị tấn công hết sức dữ dội bởi
những nhóm người đơng đảo, do họ được cổ vũ bởi trận đốt tàu Espérance…
Một trong ba chiếc đó, chiếc tiểu hạm số 3. Viên sĩ quan chỉ huy tàu này đã
bị thương.”(sách đã dẫn, tr. 195)
Và Georfes Taboulet đã thú nhận:
“Cuộc nổi dậy bất ngờ bùng nổ vào ngày 16 tháng 12 năm 1862 (trận Sông
Tra), và chẳng mấy chốc lan rộng ra. Ba chiếc tuần tra và nhiều đồn bót bị
đánh chiếm, như đồn Rạch Tra, gần Sài Gịn; trong trận đó, viên đại úy
Thouroude đã tử trận…''.(Georfes Taboulet:“ La geste Francais en
Indochine”, Paris, 1956, tr. 481.)
2.2 Kiếm bạt Kiên Giang:
Sau khi 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ mất (hòa ước Nhâm Tuất 1862), Nguyễn
Trung Trực rút về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông ra Huế
nhậm chức Lãnh binh, đến giữa năm 1867, lại về Hà Tiên giữ chức Hà Tiên
thành thủ úy để trấn giữ đất này.(Theo biên bản hỏi cung tại khám lón sài
Gịn. Có tài liệu nói Nguyễn Trung Trực nhận chức khi ở Tân An, có tài liệu
nói ơng ra Bình Định nhận chức.)
khi thành Hà Tiên thất thủ ngày 23 tháng 6 năm 1867, ơng theo lệnh triều
đình rút quân về Bình Thuận mà đưa quân về lập căn cứ ở Hịn Chơng (nay
thuộc xã Bình An, huyện Hịn Chơng, tỉnh Kiên Giang. Phan Thành Tài cho
biết lúc đó ơng mới đổi tên thành Nguyễn Trung Trực. sách đã dẫn, tr. 167)
Vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, nghĩa quân cùng nhiều người
dân yêu nước (có cả hương chức và người Hoa, người Khmer) do Nguyễn

Trung Trực chỉ huy đã bí mật, bất ngờ đánh úp đồn Kiên Giang, do quan tư
An Sart chỉ huy, tiêu diệt đối phương, trong số đó có 5 viên sĩ quan Pháp,
67 lính, thu trên 100 khẩu súng và nhiều đạn dược và làm chủ tình hình
được 5 ngày liền.
Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung
tâm đầu não của tỉnh. Nhận tin chủ tỉnh Rạch Giá cùng viên trung úy
Gamard bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là “một sự kiện bi
thảm” (un événement tragique).( theo Bulletin de la Société des Etudes
Indochine de Saigon”, Sài Gòn, tr.40)


Hai ngày sau (ngày 18 tháng năm 1868), trung tá hải quân A. Léonard
Ansart, Trần Bá Lộc, Tổng Đốc Phương mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp
cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hịn
Chơng rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm chống đối
phương lâu dài.(2)
Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland chở Lãnh Binh Tấn (tức Huỳnh Văn
Tấn, cịn được gọi Huỳnh Cơng Tấn, trước có quen biết ơng Trực vì cùng
theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn trở thành cộng sự cho Pháp),
cùng 150 lính ở Gị Cơng đến đảo Phú Quốc để bao vây và truy đuổi ông
Trực.
Phạm Văn Sơn thuật chuyện:
“Hương chức và dân trên đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực với hắn để
bao vây bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải trốn vào
trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe núi nhỏ hẹp.
Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng...''(Việt sử tân biên'', quyển 5, tập
thượng, Sài Gòn, 1962, tr.198)
Có người cho rằng để bảo tồn lực lượng nghĩa quân, nhân dân trên đảo và
lòng hiếu với mẹ (Pháp đã bắt mẹ của ông để uy hiếp), Nguyễn Trung Trực
tự ra nộp mình cho người Pháp và đã bị đưa về giam ở Sài Gòn.

Pau Vial lại cho rằng:
“Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì mạng
sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại Phú
Quốc”.(Paul Vial, sách đã dẫn)
Rất tiếc bản cáo của lãnh binh Tấn gửi cho thống đốc Nam kỳ về "việc bắt
Nguyễn Trung trực và Tống binh Cân" đã bị thất lạc từ ngày 23 tháng 5 năm
1950, vì thế sự việc chưa được tường tận. (theo Nguyễn Nghị, ''Nguyễn
Trung Trực qua một số tư liệu của Pháp'' cho biết: "Nhiều hồ sơ tương đối
quan trọng trong những năm 1860 đến đầu thập niên 1870, đã được ghi là
phát hiện mất. Theo một số nhà chun mơn thì người Pháp khi trở lại Việt
Nam đã lấy đi..."(Nam Bộ, xưa và nay, NXB TP. HCM và tạp chí Xưa và
Nay, năm 2005, tr.255)
III. Thọ tử:


Pháp phủ dụ Nguyễn Trung Trực qui thuận không được nên vào ngày 27
tháng 10 năm 1868, đơ đốc tồn quyền Nam Kỳ G.Ohier cho đưa ông về lại
Rạch Giá và đã sai một người khmer trên Tưa (người dân thường gọi ơng là
Bịn Tưa) đưa ơng ra hành hình tại chợ Rạch Giá, hưởng dương khoảng 30
tuổi.
Ðịa điểm hành quyết ngay tại miếng đất đối diện ”chợ nhà lồng” Rạch Giá,
lúc bấy giờ còn cây da cổ thụ.
Trên miếng đất thấm máu Nguyễn Trung Trực, người Pháp cho xây lên Nhà
Giây Thép, về sau là Ty Bưu Ðiện tỉnh lỵ. Riêng cây da cổ thụ đã bị đốn vào
năm 1947.
Người ta kể rằng:
''Vào buổi sáng ngày 27 tháng 10năm 1868, nhân dân Tà Niên nơi nổi tiếng
về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp đem
Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ơng Trực u cầu Pháp mở trói, khơng
bịt mắt để ơng nhìn đồng bào và quê hương trước phút "ra đi". Bô lão làng

Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ
“thọ”(chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ơng bước đứng giữa. Ơng hiên
ngang, dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và từ giã
đồng bào… (theo ''Lược sử Đình Vĩnh Hịa Hiệp'' do Ban Bảo vệ di tích tổ
chức biên soạn và ấn hành vào tháng 1 năm 2008: “Từ đầu tháng 6 năm
1867 đến ngày 16 tháng 6 năm 1868, dân làng Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa
Hiệp) đã đùm bọc, chở che nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, để họ chuẩn bị
tấn công đồn Kiên Giang.)
Tương truyền, trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã sang sảng
ngâm bài thơ tuyệt mệnh:
Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên,
Yêu gian đàm khí hữu long tuyền,
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa.
Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.
Thi sĩ Đông Hồ dịch:
Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai,
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
Anh hùng gặp phải hồi không đất,
Thù hận chang chang chẳng đội trời.


IV.Câu nói lưu danh:
Khi ơng bị người Pháp giải về Sài Gịn, viên thống sối Nam Kỳ lúc đó vừa
dụ hàng vừa hăm dọa, ơng trả lời:
“Thưa Pháp sối, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài trừ cho hết cỏ trên
mặt đất thì chứng tỏ ngài mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của
xứ sở này”
Và trước khi hy sinh, Nguyễn Trung Trực còn khẳng khái nhắc lại:
“Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”
V. Khen ngợi:

Nguyễn Thông viết:
“Nguyễn Văn Lịch tính thâm trầm, ngiêm nghị và can đảm…”. (truyện Hồ
Huân Nghiệp trong Kỳ Xuyên văn sao)
Paul Vial kể:
“ Trong khi đại úy hải quân Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ chất vấn ông
Trực, ông Trực tỏ ra rất cương quyết và rất đàng hồng chính đáng. Các
câu trả lời của ơng đã cho thấy một cách chính xác phẩm chất của con
người đó, người đã đóng một vai trị đáng kể”.
Và ơng Trực đã bình tĩnh nói với Piquet:
“ Số tôi hết rồi, tôi đã không cứu được quê hương tơi thì nay tơi chỉ xin một
điều là được chết sớm chừng nào hay chừng đấy".
Ở những đoạn văn khác, Paul Vial còn khen ngợi:
“Nguyễn Trung Trực là “người rất tự trọng, có tư cách đáng q và đầy
nghị lực”, là “ người có gương mặt thơng minh và dễ có thiện cảm” là “
một người chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm, chống nhau với ta ngót mười năm
trời”.(sách đã dẫn, quyển 2, tr. 241)
Alfred Schreiner cho biết:
“Trong suốt thời kỳ bị giam cầm, ơng Trực khơng có lúc nào tỏ ra yếu đuối
cả, một cách thẳng thắng và đàng hồng, ơng cơng nhận các chiến cơng của
ơng và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ngồi ra, ơng chỉ
u cầu ban cho ơng một ân huệ, ấy là được xử tử ông ngay tức khắc”.(sách
đã dẫn, tr. 300)


Trong một bài thơ điếu, Huỳnh Mẫn Đạt có câu:
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
Tu sát đê đầu vị tử nhân.
Dịch nghĩa:
Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.

Ðược tin ông thọ tử, vua Tự Ðức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy
điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự rằng:
Ký bi ngư nhân
Hùng tại quốc sĩ
Hỏa Nhựt Tảo thuyền
Ðồ Kiên Giang lũy
Ðịch khái đồng cừu
Thân tiên tự thỉ
Hiệu khí cổ kim
Thử nhân nam tư
Xích huyết hồng sa
Ơ hơ dĩ hi
Huyết thực thiên thu
Chương nhữ trung nghĩa.
Thái Bạch dịch:
Giỏi thay người chài
Mạnh thay quốc sĩ
Đốt thuyền Nhật Tảo,
Phá lũy Kiên Giang.
Thù nước chưa xong
Thân sao đã mất
Hiệu khí xưa nay
Người nam tử ấy
Máu đỏ, cát vàng
Hỡi ơi thơi vậy
Ngàn năm hương khói,
Trung nghĩa còn đây.


Và cũng chính nhà vua này đã sắc phong ơng làm “Thượng Ðẳng Linh

Thần'', thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá nơi ông đã hiên ngang thà
chịu chết chớ không chịu đầu hàng Pháp.
Đã rất nhiều năm qua, dân làng Vĩnh Thanh Vân, nhất là những ngư dân,
luôn tôn kính và tự hào về Nguyễn Trung Trực, một người xuất thân từ giới
dân chài áo vải, vậy mà đã trở thành một vị anh hùng, đúng với ý nghĩa:
"Sống làm Tướng và chết làm Thần!" và "anh khí như hồng", nghĩa là khí
tiết của người anh hùng rực rỡ như cầu vồng bảy sắc.
VI.Tưởng nhớ:

Sau khi ông bị hành hình, dân chúng cảm thương vơ cùng nên đã bí mật thờ
ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương (cá Ơng hay cá
Voi), chính là ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực tại TP. Rạch Giá hiện nay.
Và khi người Pháp khơng cịn cai trị Việt Nam, vào năm 1970, nhân dân địa
phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng, màu đen đặt trước
“chợ nhà lồng” Rạch Giá (cũ).
Hiện nay, phần mộ của ông và tượng thờ (được sơn lại màu nâu đỏ) vừa kể
đều đã được di dời vào trong khuôn viên khu đền thờ của ông tại TP Rạch
Giá (ảnh), và người ta đã cho làm một tượng mới bằng cũng bằng đồng lớn
hơn, màu xám, để thay thế (năm 2000). Khu “chợ nhà lồng” mà sau này nó


cịn có tên là “Khu thương mại”, cũng đã di dời nơi khác để nơi đó trở thành
thành cơng viên.
Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long...nhân dân đã lập đền thờ ơng
và hằng năm đều có tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể. Đình Nguyễn Trung
Trực tại Rạch Giá tổ chức lễ giỗ vào các ngày từ 27 đến 29 tháng 8 âm lịch.
Đình và mộ nơi này đã được cơng nhận là di tích Lịch – Văn hóa cấp quốc
gia vào ngày 06 tháng 12 năm 1989.
Bùi thụy Đào Nguyên, soạn.
Chú thích:

(1) Ghi theo sách ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam'' tập 4, NXB Trẻ, năm 2007.
Căn cứ biên bản hỏi cung ông Nguyễn Trung Trực tại khám đường Sài Gịn
vào tháng 10 năm 1868, ơng Trực “mới được 30 tuổi”(age’ de 30 ans), thì
rất có thể ơng sinh năm 1838. Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, ''Từ
điển nhân vật Việt Nam'' cho rằng ông sinh năm 1837.
(2) Theo bản hồ sơ cá nhân của Huỳnh Công Tấn và Trần Bá Lộc còn cất
giữ tại kho lưu trử Trung ương II tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có
bản quyết định khen thưởng Bắc đẩu bội tinh và phong chức lãnh binh cho
Tấn(S.L 2754. Dossier individuel le Huynh Van Tan, lanh binh à Go Công)
và quyết định số 803, ký ngày 15 tháng 8 năm 1868 của đơ đốc tồn quyền
Nam kỳ G. Ohier, thăng chức đốc phủ sứ cho Trần Bá Lộc, và bản thông báo
số 532 cũng do đô đốc này ký để báo cho Lộc biết quyết định của Bộ trưởng
hải quân Pháp tặng thưởng cho Lộc huy chương danh dự hạng I.(S.L 311.
Dossier individuel le M. Loc (Tran Ba)) Hai người này được Pháp khen
thưởng vì đã có cơng trong việc “tiểu trừ bọn phản loạn ở Rạch Giá”.(ám chỉ
cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực).
Theo Nguyễn Nghị: hồ sơ ông Đỗ Hữu Phương cũng tại kho lưu trử trên, kể
lể dài dịng cơng việc ơng có tham gia cuộc hành qn tái chiếm Rạch Giá.
(sách đã dẫn, tr.252)
(3)Theo ý kiến của Nguyễn Thị Thanh Xuân trong cuộc “hội thảo khoa học
về thân thế và sự nghiệp Nguyễn Trung Trực” trong hai ngày 7 và 8 tháng
10 năm 1988 tại Rạch Giá, thì bài thơ này của nhà thơ [[Trương Gia Mơ]].
Điều này rất có thể, vì Nguyễn Nghị căn cứ ''Cơ mật viện trích tư sự,'' đề
ngày 6 tháng 2 năm Tự Đức 24, tức 1872 cho biết: "Mãi bốn năm sau khi
Nguyễn Trung Trực mất, triều đình Huế mới có văn thư yêu cầu " cứu xét rõ
nguyên ủy, sự trạng của hai tên này (Nguyễn Trung Trực và [[Hồ Huân


Nghiệp]]) xuất thân như thế nào, đã từng làm quan hay chưa, theo ai làm
việc gì, chết ngày nào" để xem có nên hay khơng nên tặng thưởng...(Tài liệu

cơ mật mang ký hiệu R. 73/199 tại Lưu trữ Trung ương 2.Dẫn theo ''Nguyễn
Trung Trực qua một số tư liệu Pháp'', sách đã nêu, tr.254)
(Bài đã đưa vào Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt. Nơi trang này
có nhiều ảnh minh họa)
Địa chỉ: />%E1%BB%B1c

Ảnh trên và dưới: Tượng và mộ Nguyễn Trung Trực tại đền thờ chính TP.
Rạch Giá.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×