Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ ĐỔI MỚI KINH TẾ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN (19791981) VÀ (19851986)CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ ĐỔI MỚI KINH TẾ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN (19791981) VÀ (19851986)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.17 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====000=====

TIỂU LUẬN NHĨM
MƠN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ ĐỔI MỚI KINH TẾ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN (1979-1981) VÀ (1985-1986)

Hà Nội


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

2

PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

3
3

1. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam sau năm 1975
2. Chủ trương của Đảng về xây dựng, đổi mới kinh tế sau năm 1975
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN (1979-1981) VÀ
(1985-1986)
1. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 6 (8-1979)
2. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985)
3. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986)
III. Tổng kết những đột phá về đổi mới kinh tế trong 2 giai đoạn 1979-1981 và


1985-1986
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
4
4
7
9
11
13
14


PHẦN MỞ ĐẦU
Với hơn 90 năm tuổi, Đảng ta có một bề dày kinh nghiệm trong lãnh đạo giải phóng
dân tộc cũng như trong lãnh đạo xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa đã đạt nhiều thắng
lợi to lớn. Từ sự đánh bại hai đế quốc hùng mạnh là Mỹ và Pháp, đưa Việt Nam từ một
đất nước không có tên trên bản đồ thế giới (xứ thuộc địa ở Đông Dương) thành một quốc
gia được công nhận trên bản đồ thế giới với vị thế uy tín quốc tế ngày càng cao, một nước
được thế giới đánh giá là đáng sống nhất đối với người nước ngoài. Năm 2019, khi kinh
tế thế giới đang gặp nhiều khó khăn, thì nền kinh tế Việt Nam phát triển ngoạn mục: Vượt
các chỉ tiêu về kinh tế, tăng trưởng kinh tế cao (7,02%), quy mô GDP đạt con số ấn tượng
(266,5 tỷ USD). Chính vì vậy, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước ta đã nhận định: “Khơng biết
có phải vì thế mà Ngân hàng Thế giới đưa ra nhận định “mây đen phủ lên toàn cầu nhưng
mặt trời đang tỏa sáng ở Việt Nam”.
Nhưng để đạt được những thành tựu đó thì đất nước ta đã trải qua hằng hà sa số thử
thách. Sau năm 1975, đất nước cịn vơ vàn khó khăn, Do hậu quả của 30 năm chiến tranh
đối với cả nước và chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam phải giải quyết vô cùng nặng nề.
Miền Nam gánh chịu hậu quả của chiến tranh và chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ

trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Miền Bắc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội bị tàn phá nặng nề trong hai cuộc chiến tranh phá hoại năm 1964-1968 và năm 1972.
Nền kinh tế quốc dân mất cân đối một cách gay gắt, nhất là cung-cầu lương thực, sản
xuất khơng đủ tiêu dùng. Trong khi đó, Mỹ và các thế lực thù địch tăng cường chống phá
cách mạng nước ta. Nhân dân VN phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở
biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc. Các nước XHCN gặp nhiều khó khăn, đã bộc
lộ trì trệ, địi hỏi phải cải cách, cải tổ....
Lãnh đạo Việt Nam đứng trước dòng chảy lịch sử, đã quyết định đưa ra đường hướng
đúng đắn, tuy cịn muộn, nhưng đã có những kết quả nhận thấy được rõ rệt, là những gì
mà quốc tế nói về đất nước chúng ta hiện nay. Nhóm làm phần tiểu luận này là để phân
tích những cải cách đột phá đó của các vị Lãnh đạo đứng đầu quốc gia, để hiểu biết thêm
về cách mà Đảng đã dẫn dắt Việt Nam vượt qua thời kỳ khó khăn, cũng như để tham
khảo để ứng dụng vào thực tiễn về sau.


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam sau năm 1975
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất lãnh thổ ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất
nước hịa bình, độc lập, bắt đầu bắt tay vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã
hội, chính trị quốc gia, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đất nước có nhiều thuận lợi sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, song cũng đối mặt với rất nhiều khó khăn vì những
dư tàn và hậu quả nặng nề chiến tranh để lại. Nền kinh tế xuất phát điểm cịn ở trình độ
thấp và lạc hậu với chế độ bao cấp thấm nhuần vào tư tưởng và hành động duy trì trong
thời gian dài. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật chất
kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống
và tích luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là nền
kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn chế,…
Trên thế giới, các nước chế độ xã hội chủ nghĩa bộc lộ những khó khăn về kinh tế và sự
bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch; tất cả đã hình thành nên những thách thức đối

với quá trình phục hồi, xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam.
2. Chủ trương của Đảng về xây dựng, đổi mới kinh tế sau năm 1975
Sau đại thắng Mùa xuân năm 1975, nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ quốc
hoàn toàn độc lập, thống nhất, thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt về Kinh
tế. Để thực hiện được mục tiêu này, rất nhiều nhiệm vụ và chủ trương đã được Đảng đề ra
thực hiện: Ở miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hồn thiện chế độ cơng hữu về tư
liệu sản xuất dưới hai hình thức tồn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến
hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo công
nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu bằng hình thức cơng tư hợp doanh; chủ trương hợp tác
hố nơng nghiệp; cải tạo thủ cơng nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải tạo
thương nghiệp nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất …
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế,
nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả nước theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ tình trạng phân tán, cục bộ, hình thành những ngành kinh tế – kỹ thuật thống nhất và
phát triển trên phạm vi cả nước… Đồng thời với việc tổ chức lại nền sản xuất, Đảng chủ
trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế hoạch hố làm chính. Kế hoạch hoá
trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và
các cơ sở. Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phải coi trọng quy
luật giá trị; phải thực hiện chế độ hạch toán kinh tế; sử dụng tốt thị trường;… Nếu so


sánh với công tác quản lý kinh tế được đề ra tại Đại hội III, thì tới Đại hội IV lần này
cơng tác này đã có những bước chuyển biến nhất định, nhất là khâu kế hoạch hoá. Kế
hoạch hoá khơng cịn được nhấn mạnh là “pháp lệnh” như tại Đại hội III, mà đã chú ý
hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế được đề ra tại Đại hội IV, Đảng đã có sự chuyển
hướng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ chủ trương ưu tiên phát triển công

nghiệp nặng được đề ra tại Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra nhiệm vụ tập trung cao
độ lực lượng cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về
nơng nghiệp… Sự chuyển hướng này có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết tình trạng
thiếu lương thực, khai thác một cách triệt để hơn các nguồn lực trong nước, đồng thời sẽ
tạo ra được những điều kiện và tiền đề cần thiết cho những bước đi tiếp theo.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI KINH TẾ GIAI ĐOẠN (1979-1981) VÀ (19851986)
1. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 6 (8-1979)
a. Đêm trước đổi mới
Vào khoảng cuối năm 1977 đầu năm 1978, xu hướng khá phổ biến trong việc giải
thích nguyên nhân của những khó khăn và ách tắc là: Do sự lũng đoạn của thị trường tự
do, do sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Giải thích nào thì giải pháp ấy. Giải pháp được lựa
chọn là: Cải tạo khẩn trương và triệt để. Thực ra, trong dư luận của đa số quần chúng
nhân dân cũng như của khơng ít cán bộ lãnh đạo ở các địa phương vẫn cịn rất nhiều phân
vân, rất nhiều người chưa hồn tồn nhất trí với những biện pháp cải tạo vội vàng, thiếu
cân nhắc tình hình thực tế. Nhưng vì tinh thần tổ chức và vì lịng tin tưởng tuyệt đối ở
Trung ương, nên hầu hết các địa phương miền Nam đã nghiêm chỉnh chấp hành. Quả
nhiên, chẳng lâu sau, những sự phân vân đó đã tỏ ra là có căn cứ: Như trên đã nói, chỉ
mấy tháng sau khi tiến hành cải tạo, thực tế đã cho thấy những kết quả ngược lại. Cho
đến cuối năm 1978, những bất cập và lệch lạc của cả hai cuộc cải tạo này đã có những
triệu chứng khá rõ rệt.
b. Nguyên nhân và giải pháp cho nền kinh tế đất nước lúc bấy giờ
Từ tiền đề đó, đến đầu năm 1979, cả ở Trung ương lẫn ở cơ sở đã có ý kiến cho rằng
có lẽ đó khơng phải là con đường mà Việt Nam nên lựa chọn để đi lên chủ nghĩa xã hội,
để phát triển kinh tế/ để cải thiện đời sống nhân dân, để ổn định tình hình. Ngược lại,
trong thực tế, những áp đặt đó đã và đang làm cho kinh tế khựng lại, sản xuất và lưu
thông ách tắc, đời sống nhân dân càng ngày càng khó khăn.
Từ cuối năm 1978, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã tiếp nhận được những thư từ và báo
cáo của các địa phương trong nước, cho thấy tình hình rất xấu. Nếu cứ tiếp tục theo
hướng đi của 1978 thì tình hình có thể cịn nguy ngập hơn.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm làm

cho kinh tế “bung ra”. Đó là “bước đột phá đầu tiên”, rồi đến chủ trương dứt khốt xóa


bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, để đến Đại hội VI (tháng 121986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới
tổ chức - cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác, nhưng nhấn
mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế…
Cũng tại Hội nghị, nhiệm vụ cấp bách được đề ra là đẩy mạnh sản xuất, ổn định và
đảm bảo đời sống nhân dân, tăng cường quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc, khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội. Hội nghị
cũng đã quyết định thay đổi một số chính sách và biện pháp nhằm phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân, bảo đảm đúng đắn lợi ích chung của toàn dân, của tập thể và
từng người sản xuất, quan tâm lợi ích vật chất của người lao động, tạo ra chuyển biến
trong sản xuất và đời sống. Tạp chí đã ra xã luận “Những nhiệm vụ cấp bách trước mắt
của chúng ta” (số 11-1979) trình bày rõ những thắng lợi mà đất nước đạt được từ sau
chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975, đồng thời phân tích sâu sắc những khuyết điểm về kế
hoạch hóa, về xây dựng các chính sách cụ thể, về tổ chức quản lý kinh tế, quản lý xã hội,
và nêu rõ những nhiệm vụ cấp bách theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 6. Tạp chí
cũng đã đăng nhiều bài phân tích nội dung của Nghị quyết Trung ương 6, trong đó có bài
của các đồng chí Lê Duẩn, Tố Hữu, Nguyễn Duy Trinh, Đỗ Mười, Nguyễn Lam,... trình
bày rõ những vấn đề cơ bản trong tư tưởng chính sách kinh tế của Đảng như: kết hợp kế
hoạch hóa với sử dụng quan hệ thị trường; sử dụng các thành phần kinh tế; kết hợp ba
loại lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân người sản xuất,... Trên lĩnh
vực kinh tế, nét mới so với những năm trước là tạp chí đã có bài đi sâu vào những vấn đề
lý luận kinh tế như: hoạt động của quy luật giá trị; tư duy kinh tế khoa học; ba lợi ích: lợi
ích của xã hội, lợi ích của tập thể, lợi ích của cá nhân,...
Đầu năm 1979, Ban Bí thư đã tiến hành điều tra thực tế ở miền Nam. Các cơ sở đã
thẳng thắn báo cáo về những hậu quả của các cuộc cải tạo. Đến ngày 18/05/1979, Bộ
Chính trị Thơng báo số 10-TB/TW về việc khẩn cấp điều chỉnh một số chỉ tiêu và biện
pháp kinh tế của hai năm cuối kế hoạch 5 năm lần thứ II, tức là năm 1979-1980. Trong
thông báo này, Bộ Chính trị khẳng định một số thiếu sót trong mấy năm vừa qua và đưa

ra những ý kiến có tính chất chỉ đạo về phương hướng cho các năm tới. Đó chính là một
cách gián tiếp thừa nhận rằng: Một số biện pháp tưởng là đúng đắn trước đây đã tỏ ra
khơng có hiệu quả, ngược lại những ý kiến bị quy kết là sai lầm và chệch hướng, nay cần
được lắng nghe và xem xét một cách nghiêm túc.
Một số nội dung chính trong Thơng báo của Bộ Chính trị:
- Qua cải tạo, nền kinh tế vốn đã mất cân đối nghiêm trọng, nay lại có những khó khăn
mới.
- Sản xuất và phân phối lưu thơng đình đốn và ách tắc một cách phổ biến.
- Nguồn ngoại tệ, vật tư nhập khẩu bị thu hẹp.
- Tình trạng bội chi ngân sách, bội chi tiền mặt đến mức nghiêm trọng.
- Đời sống của nhân dân thêm khó khăn. Thêm vào đó, trong xã hội có nhiều biểu hiện
tiêu cực phát triển.
Thông báo nhận định: "Nếu chúng ta không nhận định đầy đủ và sâu sắc tình hình, từ
đó mà có những cố gắng đúng hướng và đúng mức, thì tình hình có thể cịn nghiêm trọng


và khó khăn hơn. Vì vậy, phải có những biện pháp thiết thực và cấp bách để ngăn chặn xu
hướng đi xuống của tình hình.
Cũng trong thơng báo này, Bộ Chính trị đưa ra một số giải pháp cấp bách trước mắt là:
- Tập trung cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp trước hết cho sản xuất lương thực, thực
phẩm.
- Tập trung sức tạo ra một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Có chính sách tận dụng mọi
khả năng để sản xuất hàng tiêu dùng, kiên quyết không để thiếu những hành tiêu dùng
thiết yếu.
- Các chỉ tiêu kế hoạch phải được tiến hành kiểm tra chu đáo và thiết thực. Chú trọng
xây dựng kế hoạch từ dưới lên, đi từ lao động và các tư liệu sản xuất hiện có, tránh tình
trạng áp đặt từ trên xuống một cách duy ý chí.
Bộ Chính trị giao cho Ban Bí thư và Chính phủ nghiên cứu để ban hành gấp một số
chính sách kinh tế cấp bách…
c. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 6 (8-1979)

Hội nghị đã thể hiện một loạt chuyển biến về quan điểm như sau:
Về chủ trương đối với các thành phần kinh tế: Hội nghị phê phán xu hướng tả khuynh
trước đây, chỉ muốn sớm đưa cá thể vào hợp tác xã, đưa hợp tác xã lên quốc doanh, tưởng
như cứ làm như thế là đã có chủ nghĩa xã hội. Hội nghị xác định một cách nhìn mới về
thành phần kinh tế.
Về kết hợp kế hoạch với thị trường: Hội nghị thể hiện thái độ phê phán cách nghĩ và
cách làm trước đây, muốn gò tất cả vào kế hoạch, coi thị trường là một cái gì bất hợp
pháp, càng dẹp bỏ sớm càng tốt. Hội nghị khẳng định: “Trong một thời gian khá dài, bên
cạnh thị trường có tổ chức, có kế hoạch, cịn tồn tại một cách khách quan thị trường ngoài
kế hoạch. Về sản xuất có phần chủ động của xí nghiệp quốc doanh được làm thêm sản
phẩm sau khi hoàn thành kế hoạch nhà nước, có kinh tế của gia đình nơng dân trên đất
5% và các nghề phụ trong nơng thơn, có sản xuất của thủ cơng nghiệp cá thể ở thành
phố... thì tất nhiên về lưu thơng, cần có thị trường ngồi kế hoạch. Thị trường đó bổ sung
cho thị trường có kế hoạch và do thị trường có kế hoạch chi phối về tính chất và quy mơ
phát triển.” Hội nghị đã đi đến một chủ trương rất mới: Chấp nhận cho các cơ sở sản xuất
được chia sẻ thị trường trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời
cũng được liên doanh, liên kết với nhau để giải quyết những nhu cầu của sản xuất và đời
sống.
Đối với những hàng hóa và ngun liệu khơng thuộc Trung ương thống nhất quản lý,
thì "giữa các địa phương được trao đổi mua bán với nhau và được quyền quyết định giá.
Những chủ trương này chính là tiền đề cho Quyết định 25-CP sau này (1981) và những
cuộc phá rào, liên doanh liên kết rất sôi động của các cơ sở kinh tế trong những năm sau.
Về chính sách phân phối lưu thông: Hội nghị chủ trương một cơ chế phân phối lưu
thông tự do hơn, phê phán cơ chế thu mua dựa trên những biện pháp hành chính, cưỡng
bức như trong các năm trước.
Ngoài thuế (10% sản lượng) và mua theo giá hợp đồng hai chiều, Nhà nước dùng giá
thỏa thuận đi đơi với động viên chính trị để mua phần lương thực hàng hóa cịn lại. Giá


thỏa thuận là giá nông dân đồng ý bán và Nhà nước đồng ý mua, kế hoạch khơng hồn

tồn theo giá thị trường tự do, nhưng không nên quy định cứng nhắc bằng gấp đôi giá chỉ
đạo như hiện nay."
Về giá cả, Hội nghị quyết định giao cho Ban Bí thư, Hội đồng Chính phủ và các cơ
quan hữu quan chuẩn bị tiến hành sửa đổi hệ thống giá.
"Sửa lại giá lương thực và giá các nông sản khác cho hợp lý để khuyến khích sản xuất
và mở rộng nguồn thu mua của Nhà nước.”
"Nghiên cứu điều chỉnh giá một số mặt hàng cần thiết nhằm phục vụ tốt cho sản xuất,
đời sống, xuất khẩu và tích luỹ, tiến tới chấm dứt sớm tình trạng bù lỗ khơng hợp lý."
Như vậy là những gì đã từng được coi là "đinh đóng cột" từ Nghị quyết 10 (1964) về
chính sách giá đến đây đã bắt đầu lung lay. Đó chính là tiền đề cho các cuộc cải cách giá
được tiến hành vào nửa đầu thập kỷ 80.
Về nông nghiệp: Hội nghị đã nghe phản ảnh rất nhiều về tình trạng gị ép nơng dân
trong hợp tác hóa, tình trạng thiếu hiệu quả của các tập đồn sản xuất. Từ đó đã có những
uốn nắn về cả quan điểm lẫn biện pháp.
Tổ chức nơng dân vào hợp tác xã hoặc tập đồn sản xuất, phải theo đúng ba nguyên
tắc: Tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Cuối cùng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 nhắc nhở tất cả các cấp các ban,
ngành phải nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến về tổ chức, quản lý. Vì nhận thức được
tính cấp bách của vấn đề, vào lúc tình hình kinh tế của cả nước đã lâm vào khủng hoảng
trầm trọng, Hội nghị nhắc nhở các cơ quan hữu quan phải khẩn trương báo cáo tình hình
của cơ sở và sửa đổi những chính sách, những biện pháp nào trái với tinh thần của Hội
nghị.
Cho đến nay, trong lịch sử công cuộc Đổi mới của Việt Nam, Hội nghị Trung ương 6
có thể coi là cái mốc đầu tiên đánh dấu sự khởi đầu về cả tư duy lẫn đường lối kinh tế.
2. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985)
a. Bối cảnh
Tình trạng lãng phí, tiêu cực, lợi dụng chênh lệch giá lấy cắp của cải nhà nước, cửa
quyền, sách nhiễu diễn ra phổ biến ở nhiều nơi. Nhân dân lo lắng, giảm sút lòng tin. Câu
hỏi lớn đặt ra cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta lúc này là nguyên nhân của tình trạng
trên do đâu và đâu là những giải pháp để nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi bế tắc?

Nguyên nhân khách quan có nhiều, khó khăn khách quan là rất lớn. Song, chúng ta cũng
cảm nhận thấy chính sách kinh tế của Đảng có gì đó sai lầm, khơng phù hợp, khơng được
lịng dân, vừa cản trở sản xuất, vừa gây khó khăn cho đời sống.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, khóa IV, và phát triển tinh thần của Nghị quyết,
trong những năm 1980 - 1985, Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị,
đã chỉ đạo thực hiện nhiều bước điều chỉnh các chính sách về giá, lương, tiền theo hướng
bỏ dần quan liêu, bao cấp, giảm bớt số mặt hàng nhà nước cung cấp hiện vật theo mức
giá rất thấp và ổn định, đưa hệ thống giá của Nhà nước ngày càng tiếp cận gần hơn với
giá thị trường, mở rộng việc vận dụng quan hệ tiền tệ và quy luật giá trị trong nền kinh tế.
b. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985)


Tháng 6-1985, Hội nghị Trung ương 8, khóa V, chỉ rõ nguồn gốc căn bản của tình
hình: chúng ta vẫn chưa nhận rõ căn bệnh sâu xa của cơ chế quản lý kinh tế quốc dân là
quan liêu, bao cấp; những bước cải tiến về giá và lương từ năm 1980 đến giữa năm 1985
vẫn còn tiến hành một cách thiếu đồng bộ và nửa vời, sau khi điều chỉnh một bước giá và
lương, vẫn tiếp tục để giá và lương ở cơ chế tĩnh; tiến hành điều chỉnh về giá và lương
một cách đơn độc không đi liền với cải cách cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp và tổ chức lại
sản xuất, phân phối, lưu thông..., kết quả là hệ thống giá nhà nước vẫn xa rời, giá trị, hạch
tốn chỉ là hình thức, bù lỗ sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, bội chi ngân sách và tiền
mặt ngày càng tiếp tục tăng, tiền lương thực tế ngày càng giảm.
Rõ ràng là, việc điều chỉnh chính sách kinh tế một cách nửa vời không thể đem lại kết
quả mong đợi; tình hình địi hỏi cải cách chính sách kinh tế một cách cơ bản hơn với
những biện pháp mạnh mẽ hơn, đồng bộ hơn.
Với nhận định đó, Hội nghị Trung ương 8 đi đến quyết định: "phải dứt khốt xóa bỏ
tập trung quan liêu - bao cấp,... chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã
hội chủ nghĩa" và xác định lúc này, xóa bỏ quan liêu, bao cấp trong giá, lương, tiền chính
là khâu đột phá có tính chất quyết định cần phải tiến hành để thực hiện sự chuyển biến
đó.
Về giá cả: Xác định giá phù hợp với giá trị và với sức mua thực tế của đồng tiền; Định

giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu; Trong điều kiện
nước ta đi từ một nền kinh tế mà tiểu sản xuất hàng hố cịn phổ biến tiến thẳng lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, theo chủ trương của Đảng coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để tính tốn các loại giá khác và tồn bộ mặt bằng giá;
Quản lý giá cả phải có phân cơng, phân cấp hợp lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
phù hợp với thực tế.
Giá mua lương thực và nông sản phải thể hiện và góp phần thực hiện đường lối phát
triển nơng nghiệp nhằm hình thành cơ cấu cơng-nơng nghiệp hợp lý, thể hiện quan hệ
công-nông cùng làm chủ, cả cơng nghiệp và nơng nghiệp đều phát triển và đóng góp
đúng mức cho Nhà nước, đời sống cơng nhân, nơng dân đều được cải thiện.
Tính đủ các yếu tố chi phí và xác định đúng giá thành sản phẩm cơng nghiệp
Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp (vật tư và hàng tiêu dùng) trên cơ sở giá
thành tính đủ chi phí, có lãi thỏa đáng cho người sản xuất và thể hiện chính sách kinh tế
của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích lũy cho Nhà nước.
Giá bán lẻ phải được xác định trên cơ sở giá trị hàng hố, có tính đến quan hệ cung cầu, tiền - hàng, và phải thể hiện chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Chính sách giá bán lẻ hàng tiêu dùng cần phân biệt theo tính chất mặt hàng.
Thực hiện cơ chế một giá thống nhất, do Nhà nước (trung ương và địa phương) quy
định và điều chỉnh kịp thời khi cần thiết; từng bước ổn định giá trên cơ sở làm chủ kế
hoạch sản xuất và phân phối, nắm hàng, nắm tiền, cải tạo, quản lý và làm chủ thị trường.
Bên cạnh về kinh tế, Hội nghị Trung ương 8 còn đưa ra những cải cách mang tính tiến
bộ và chiến thuật mang tầm nhìn xa về vấn đề xã hội (lương và tiền tệ).


Như vậy, Ðại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội từ
năm 1981 đến năm 1985 và những năm 80; khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa mà Ðại hội lần thứ IV của Ðảng đã vạch ra.
Ðại hội xác định: Những năm 1981-1985 là những năm phát triển thêm một bước, sắp
xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân.
Ba mặt đó kết hợp chặt chẽ với nhau, nhằm cơ bản ổn định được tình hình kinh tế và

xã hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm
nhẹ những chỗ mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước quan
trọng tình trạng khơng bình thường về phân phối, lưu thơng, tăng thêm tiền đề và điều
kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau.
Trên cơ sở đó, Đại hội vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tếxã hội từ năm 1981 đến 1985, đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng CNXH và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
3.Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986)
Hội nghị Bộ Chính trị khố V tháng 8/1986 được coi là bước đột phá thứ ba trước đổi
mới với "Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế":
3.1. Về cơ cấu kinh tế:
Hội nghị chỉ rõ: chỉ có một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thể phát triển ổn định.
Bố trí đúng cơ cấu các ngành kinh tế, cơ cấu sảm xuất và đầu tư là những vấn đề quan
trọng đầu tiên của đường lối kinh tế, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội trong mỗi chặng đường. Đảng đã xác định cơng nghiệp hố là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ sự phát
triển của nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, từng bước tiến lên xây
dựng cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, hiện đại, trong đó cơng nghiệp và nông nghiệp
gắn liền với nhau và cùng phát triển.
Hội nghị cũng đã thẳng thắn thừa nhận trong hơn mười năm (từ 1976 đến 1986), Đảng
ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, bố trí đầu tư. Vì
vậy, những mục tiêu do Đại hội V đặt ra đã không thể thực hiện được. Bên cạnh việc gây
thêm những khó khăn lớn và lãng phí thời gian, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một
số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất;
tập trung quá nhiều nguồn lực vào các ngành công nghiệp nặng, không tập trung phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và tổ
chức lại sản xuất công nghiệp, khơng khuyến khích và hướng dẫn tiểu thủ cơng nghiệp
phát triển đúng hướng, không tăng cường đúng mức kết cấu hạ tầng. Điều đó khiến cho
đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp, là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất
trong thời gian 5 năm trở lại hầu như khơng có sự tiến lên, năng suất lao động giảm sút,
tình hình kinh tế - xã hội ngày càng khơng ổn định.

Để khắc phục tình hình nói trên và ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa trong chặng đường sau, trong 5 năm


1986 - 1990 Hội nghị yêu cầu phải kiên quyết điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu
kinh tế, cơ cấu đầu tư theo hướng “thật sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức
phát triển công nghiệp nhẹ, bao gồm công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp
chế biến nông sản, thực phẩm, tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn, tạo thêm việc làm cho
người lao động.”
Để thực hiện mục tiêu và phương hướng chung nói trên, Hội nghị u cầu: trong việc
bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải thấu suốt những chủ trương quan trọng như:
Kiên quyết sắp xếp lại các cơ sở kinh tế, văn hoá, trước hết là các cơ sở sản xuất công
nghiệp và nông nghiệp, của cả trung ương và địa phương.
Tập trung vốn hoàn thành xây dựng các cơng trình dở dang đã được lựa chọn theo
đúng tiến độ và đồng bộ để có thể phát huy ngay hiệu quả, phục vụ cho việc thực hiện ba
chương trình và những mục tiêu nói trên.
Việc đầu tư và xây dựng thêm cơng trình mới phải nhằm đúng phương hướng và mục
tiêu đã định, chú trọng trước hết phục vụ yêu cầu của mặt trận nông nghiệp, phục vụ yêu
cầu phân phối lại lao động, yêu cầu đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu;
đầu tư cho việc tạo thêm nguồn năng lượng, nguyên liệu, tăng thêm năng lực giao thông
vận tải, thông tin liên lạc,...
Trong việc đầu tư và xây dựng cần sửa đổi cách làm trước đây là quyết định riêng lẻ
từng cơng trình mà khơng xem xét trong tổng thể phương án kế hoạch 5 năm, vừa nhất
thiết phải làm đúng quy trình xây dựng, xét duyệt các luận chứng kinh tế - kỹ thuật. các
phương án đầu tư và xây dựng đều phải đảm bảo mục đích cuối cùng là đạt hiệu quả kinh
tế, xã hội cao.
Bên cạnh đó, đi đơi với đầu tư của Nhà nước, cần có chính sách huy động rộng rãi
nguồn vốn của nhân dân, kể cả của Việt kiều, đầu tư vào phát triển sản xuất, nhất là sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
và các hoạt động dịch vụ, phù hợp với chính sách đối với các thành phần kinh tế.

3.2. Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới:
Hội nghị yêu cầu: “Phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và tăng
cường quan hệ sản xuất mới; phấn đấu đến hết chặng đường đầu tiên làm cho kinh tế xã
hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn và giữ vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân, quan
hệ sản xuất mới thể hiện rõ tính hơn hẳn so với quan hệ sản xuất cũ, thật sự thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển”.
Đối với kinh tế quốc doanh: Phải trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám
Ban Chấp hành Trung ương (khoá V), kiên quyết và từng bước xóa bỏ tập trung quan
liêu, bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa mà
tăng cường khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhất là kinh tế quốc doanh, làm cho kinh tế
quốc doanh thực sự phát huy vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể chiếm vị trí chi


phối trong nền kinh tế quốc dân. Đó là phương hướng quan trọng nhất của toàn bộ nhiệm
vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới.
Đối với kinh tế tập thể: Phương hướng chủ yếu là củng cố và tăng cường các tổ chức
sản xuất tập thể hiện có, nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. trong
nông nghiệp, hết sức coi trọng việc củng cố các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.
Tiếp tục vận động người sản xuất nhỏ trong các ngành tham gia các tổ chức sản xuất
tập thể với những hình thức thích hợp, từ thấp đến cao, từ nhỏ lên lớn, dựa trên nguyên
tắc tự nguyện cùng có lợi.
Đối với kinh tế cơng tư hợp doanh: Đối với những tư nhân cịn vốn lớn, có khả năng
sản xuất những mặt hàng có nhu cầu hoặc làm dịch vụ với quy mô lớn và tương đối lớn
thì dùng hình thức cơng tư hợp doanh. cần có chính sách thích hợp để thành phần kinh tế
này tồn tại trong một thời gian nhất định và phát huy tác dụng tích cực của nó trong sản
xuất, kinh doanh.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân: Chúng ta chủ trương sử dụng có chọn lọc một bộ phận
kinh tế tư bản tư nhân.
3.3. Về cơ chế quản lý kinh tế
Hội nghị nên ra những nội dung chỉ yếu của cơ chế hạch toán kinh tế, kinh doanh xã

hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng là:
Đổi mới kế hoạch hoá trên cơ sở vận dụng đúng đắn hệ thống các quy luật kinh tế,
phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội, đồng thời sử dụng
đúng đắn các quy luật vận động của quan hệ hàng hoá - tiền tệ; chuyển sang các phương
pháp kinh tế là chủ yếu, trong đó kế hoạch hố thật sự trở thành trung tâm của hệ thống
quản lý.
Bảo đảm cho các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, thực hiện đúng hạch toán kinh tế, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về
kết quả sản xuất, kinh doanh của mình. Mức thu nhập của tập thể và của người lao động
được xác định căn cứ vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý theo yêu cầu của cơ
chế mới, trên cơ sở phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế của cơ quan nhà
nước và chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh của các tổ chức, đơn vị kinh tế, phân
cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ. tồn bộ hệ thống quản lý hành chính Nhà
nước và quản lý sản xuất, kinh doanh đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng soạn thảo lại một
cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Ðại hội VI của Ðảng.


III. TỔNG KẾT NHỮNG ĐỘT PHÁ VỀ ĐỔI MỚI KINH TẾ TRONG 2 GIAI
ĐOẠN 1979-1981 VÀ 1985-1986
1. Giai đoạn 1979-1981
-15-23/8/1979: Hội nghị Trung ương 6 khóa IV “tìm kiếm lối thốt” cho nền kinh tế ra
khỏi khủng hoảng, trì trệ với những chủ trương, biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên
quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, làm cho
sản xuất “bung ra”; tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển…; đồng thời được tự
do lưu thơng hàng hóa, xóa bỏ “ngăn sông, cấm chợ”.
-13/01/1981: Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư về cải tiến cơng tác khốn, mở rộng
khốn sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp...
-21/01/1981: +Quyết định 25/CP là phát huy quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh và

quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh
+Nghị quyết 26/CP của Hội đồng Chính phủ về mở rộng hình thức trả
lương khốn, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản
xuất, kinh doanh của Nhà nước.
2. Giai đoạn 1985-1986
-1-7/6/1985: Hội nghị Trung ương 8 khóa V đã quyết định dứt khốt xóa bỏ cơ chế tập
trung, quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội
chủ nghĩa lấy “Giá-lương-tiền” làm khâu đột phá.
-8/1986: Hội nghị Bộ Chính trị khóa V là bước đột phá với "Kết luận đối với một số
vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế"
-20/9/1986: Bộ Chính trị về thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, cho phép
sở hữu các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý, xóa cơ chế tập trung, quan liêu,
hành chính, bao cấp thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa…; đổi
mới cơ cấu kinh tế, phải “thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”.

Xác định rõ cơ cấu kinh tế nhiều thành phần gồm “kinh tế quốc doanh”;
“kinh tế tập thể”; kinh tế gia đình”; “tư bản tư doanh”; cơng tư hợp danh”; “tiểu sản
xuất hàng hoá”; “tư bản tư nhân”;“kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc”.

Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu; ra sự phát triển công nghiệp nhẹ; phát triển có chọn lọc cơng nghiệp
nặng.

Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời phải sử
dụng đúng quan hệ hàng hóa tiền tệ, dứt khốt xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, chính
sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.




KẾT LUẬN
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong lễ kỉ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam có nói: “Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, khơng có một lực
lượng chính trị nào khác, ngồi Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh
nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự
nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và cũng chính
trong quá trình đó, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc
nên những truyền thống vẻ vang mà hơm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn
và phát huy. Đó là truyền thống trung thành vơ hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp,
kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhờ những quyết định đúng đắn, mà Việt Nam chúng ta ngày nay đã có được vị thế
trên trường quốc tế, ngày càng hội nhập sâu và rộng với quốc tế. Nếu vẫn giữ ngun mơ
hình kinh tế kế hoạch, Việt Nam có thể sẽ cịn phải bị cơ lập còn hơn cả Nam Triều Tiên.
Hậu quả của nền kinh tế kế hoạch đến tận bây giờ vẫn còn ảnh hưởng đến lối tư duy của
Doanh nghiệp Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam hiện nay đang không ngừng nỗ lực để đưa Việt Nam ngày càng
phát triển hơn, cạnh tranh hơn trên trường quốc tế, đặc biệt là mảng Kinh Doanh Quốc
Tế. Nắm bắt những nước đi lịch sử của cha ơng sẽ giúp sinh viên có được một sự định
hướng rõ ràng hơn trong sự nghiệp về sau.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 />
 /> Giáo trình “Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam”

 />

 />


×