Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Mua bán nợ của các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 179 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THANH THỦY

MUA BÁN NỢ CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THANH THỦY

MUA BÁN NỢ CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 93.80.107

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Nhƣ Phát
2. TS. Lê Anh Tuấn



Hà Nội, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận án tiến sĩ với đề tài “Mua bán nợ của các ngân hàng
thƣơng mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá
nhân tơi. Mọi tài liệu tham khảo được tơi sử dụng đều được tơi trích rõ nguồn tác
giả, bài viết, tơn trọng quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi cam kết chịu mọi trách nhiệm về luận án tiến sĩ của mình.
Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 2021
Nghiên cứu sinh

Trần Thị Thanh Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT NGHIÊN CỨU .......................................................................................10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................10
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................23
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu........................................................................30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................34
Chƣơng 2: LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG
MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN NỢ CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI........................................................................................................36
2.1. Những vấn đề lý luận về mua bán nợ của ngân hàng thương mại ............36
2.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng
thương mại ........................................................................................................56

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................72
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT MUA BÁN NỢ CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................74
3.1. Thực trạng pháp luật mua bán nợ của ngân hàng thương mại ở Việt
Nam hiện nay....................................................................................................74
3.2. Phân tích, đánh giá thực tiễn mua bán nợ của ngân hàng thương mại
theo pháp luật Việt Nam hiện nay ..................................................................102
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ......................................................................................118
Chƣơng 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN, NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN NỢ CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI ........................................................................................120
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng
thương mại tại Việt Nam ................................................................................120
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng
thương mại .....................................................................................................129


4.3. Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật mua bán nợ của ngân hàng
thương mại tại Việt Nam ................................................................................138
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ......................................................................................145
KẾT LUẬN ............................................................................................................147
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................150


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AMC

Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại


DATC

Công ty Trách nhiệm hữu hạn Mua bán nợ Việt Nam

KAMCO

Công ty quản lý tài sản của Hàn Quốc – Korea Asset Management
Corporation

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

TCTD

Tổ chức tín dụng

VAMC

Cơng ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Quản lý tài sản các Tổ
chức tín dụng Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngân hàng và những hoạt động ngân hàng có lịch sử ra đời từ rất lâu, từ nghề
đổi tiền của một số thương nhân [50], dần hình thành nên các tổ chức nhận tiền gửi,
cho vay, chuyển tiền, thanh toán,… hoạt động như các NHTM. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường theo xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay, các
NHTM khơng ngừng phát triển hình thành mạng lưới rộng khắp toàn cầu. Sự phát
triển bền vững của NHTM gắn liền với vấn đề quản trị các khoản nợ của mình,
trong đó đặc biệt là xử lý nợ nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng. Mặc dù có nhiều
biện pháp khác nhau để xử lý nợ như tiến hành cơ cấu lại khoản nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng rủi ro, xử lý tài sản bảo đảm, chuyển nợ thành vốn góp cổ phần tại
doanh nghiệp khách nợ, tái cơ cấu doanh nghiệp khách nợ, … Nhưng trong số các
biện pháp đó, mua bán nợ được xem là một trong những biện pháp phổ biến và
mang lại hiệu quả cao cho NHTM.
Hoạt động mua bán nợ xuất hiện và đặt những bước đi đầu tiên tại Việt Nam
vào những năm cuối thế kỷ XX, khi mà NHNN ban hành Quyết định số
140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19 tháng 04 năm 1999 quy định quy chế mua, bán nợ
của tổ chức tín dụng. Với Quyết định 140/1999/QĐ-NHNN14, hoạt động mua bán
nợ đã được pháp luật Việt Nam chính thức cơng nhận và bảo vệ.
Từ thời điểm đó cho đến nay, pháp luật về mua bán nợ của NHTM ngày càng
hoàn thiện, khơng chỉ hình thành được khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh mà các
nội dung quy định cũng dần trở nên đầy đủ, cụ thể hơn, từ đó góp phần không nhỏ
vào việc phát triển hoạt động kinh doanh của các NHTM, tạo điều kiện cho các
NHTM quản trị nguồn vốn tín dụng an tồn, hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế triển khai
các quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM vẫn còn bộc lộ nhiều điểm bất
cập. Hệ thống các quy định pháp luật còn chưa đồng bộ, đầy đủ và rõ ràng. Ví dụ
như về vấn đề chủ thể tham gia mua bán nợ của NHTM thì một số quy định về điều
kiện năng lực tài chính và phạm vi hoạt động kinh doanh ảnh hưởng không nhỏ đến
khả năng tham gia vào hoạt động mua bán nợ của các chủ thể như Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Mua bán nợ Việt Nam, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành

1



viên Quản lý tài sản các Tổ chức tín dụng Việt Nam, doanh nghiệp kinh doanh mua
bán nợ, doanh nghiệp môi giới nợ, sàn giao dịch nợ. Việc không thu hút được các
chủ thể trong xã hội tham gia vào thị trường mua bán nợ đồng thời khiến cho thị
trường mua bán nợ của NHTM chưa thực sự phát triển. Bên cạnh đó, có nhiều văn
bản quy phạm điều chỉnh hoạt động của các chủ thể khác nhau. Điều đó thể hiện
tình trạng tản mát, khơng tập trung và mang tính hệ thống cao của các quy định của
pháp luật về hoạt động mua bán nợ của NHTM, thậm chí cịn có những nội dung
chồng chéo, khơng thống nhất và sẽ gây ra những khó khăn, vướng mắc trong q
trình thực hiện và quản lý giám sát. Ngồi ra, cơng tác xây dựng pháp luật còn chưa
thực sự gắn kết với tổ chức thực thi pháp luật, làm cho hiệu quả thi hành pháp luật
bị giảm sút.
Như vậy, có thể thấy pháp luật về hoạt động mua bán nợ của NHTM cịn
những khiếm khuyết nhất định, chưa trở thành cơng cụ hữu hiệu để giúp cho việc
xử lý nợ của các NHTM đạt hiệu quả cao, góp phần làm lành mạnh và phát triển ổn
định hệ thống ngân hàng nói riêng cũng như hệ thống tài chính quốc gia nói chung.
Vì vậy, nghiên cứu các quy định của pháp luật về mua bán nợ của NHTM là việc
làm cần thiết để đánh giá được chính xác thực trạng, những điểm bất cập và phương
hướng hồn thiện chúng.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, nợ xấu của các tổ chức tín dụng nói
chung và NHTM nói riêng có xu hướng tăng cao trước những biến động tiêu cực
của nền kinh tế trong và ngoài nước. Theo kết quả giám sát của NHNN: nợ xấu năm
2010 khoảng 38 tỷ đồng (chiếm 2,1% tổng dư nợ), năm 2011 khoảng 78 nghìn tỷ
đồng (chiếm 3,2% tổng dư nợ). Đến cuối tháng 9/2017, theo báo cáo của Thống đốc
Lê Minh Hưng trả lời chất vấn của Quốc hội sáng 07/11/2017 thì tổng mức nợ xấu
là khoảng 566.000 tỷ đồng, tương đương với tỷ lệ 8,61%. Đến quý IV năm 2019 và
trong năm 2020, theo số liệu thống kê chính thức được cơng bố trên website
sbv.gov.vn của NHNN, có sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu nội bảng từ mức 1,6% tại thời
điểm quý IV/2019 lên mức 2,4% tại thời điểm cuối quý III/2020. Ở đây, vấn đề đặt

ra là cần hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán nợ của NHTM theo hướng nào
để có thể xử lý thực tế nợ xấu nêu trên một cách có hiệu quả và bền vững? Để giải

2


quyết vấn đề này, Chính phủ đã đề ra giải pháp là phải đẩy mạnh xử lý nợ xấu, phát
triển thị trường mua bán nợ. Đồng thời, tại Mục III.2 Nghị Quyết 77/2014/QH13
“về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015”, được Quốc Hội khóa XIII, thơng
qua tại Kỳ họp thứ tám, ngày 10 tháng 11 năm 2014, Quốc hội cũng yêu cầu phải “Tập
trung đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các tổ chức tín dụng theo
hướng sớm hồn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường mua bán nợ...”. Tuy nhiên,
những quy định, chính sách này cịn mang tính chung, chưa được hướng dẫn cụ thể. Để
triển khai thực hiện được những quy định, chính sách này về mặt pháp luật địi hỏi phải
có những nghiên cứu chun sâu về các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn trong hoạt
động mua bán nợ của TCTD nói chung và NHTM nói riêng, đồng thời đề ra những
kiến giải cần thiết để hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán nợ của NHTM ở Việt
Nam thực sự là hành lang pháp lý quan trọng giúp phát triển thị trường mua bán nợ,
góp phần thúc đẩy hoạt động xử lý nợ xấu tại Việt Nam.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế nêu trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài:
“Mua bán nợ của các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay” với
mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ những vấn đề lý luận, đặc điểm,
nội dung và thực trạng pháp luật về mua bán nợ của các NHTM, nhằm đề xuất hoàn
thiện pháp luật về mua bán nợ, tạo hành lang pháp lý ổn định cho các NHTM có thể đẩy
mạnh hoạt động mua bán nợ, đặc biệt là việc mua bán nợ xấu của NHTM.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án có mục đích là nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động mua
bán nợ của NHTM; luận giải và đánh giá thực trạng pháp luật về mua bán, nợ của
các NHTM ở Việt Nam; trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp nhằm hồn thiện

pháp luật về mua bán nợ và phát triển thị trường mua bán nợ của các NHTM tại
Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của luận án là:
-

Tổng quan các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài pháp luật về

mua bán nợ của các NHTM tại Việt Nam; Đánh giá những kết quả nghiên cứu của

3


các cơng trình nghiên cứu đó và xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
trong luận án;
-

Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về mua bán nợ của các NHTM;

-

Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật

về mua bán nợ của các NHTM tại Việt Nam;
-

Luận chứng, xây dựng hệ thống quan điểm hoàn thiện pháp luật và đề xuất

các giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của các NHTM tại Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về mua bán nợ; các
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về mua bán nợ và thực tiễn thực hiện
pháp luật về mua bán nợ của các NHTM tại Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu pháp luật về mua bán nợ của NHTM ở
Việt Nam, đồng thời có tham khảo pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
mua bán nợ của NHTM ở một số nước trên thế giới.
Phạm vi về thời gian: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu từ khi Luật Các tổ
chức tín dụng 2010 được ban hành cho đến nay, mặc dù trong nghiên cứu có thể
phân tích sự phát triển của pháp luật về các TCTD kể từ thời điểm Luật Các tổ chức
tín dụng lần đầu được ban hành năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2004.
Phạm vi về nội dung: Luận án nghiên cứu về hoạt động mua bán nợ của
NHTM mà không đi sâu vào hoạt động mua bán nợ của các chủ thể khác như các
TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và qu tín dụng nhân dân. Mặt khác,
các khoản nợ được đề cập đến trong luận án là những khoản nợ phát sinh từ hợp
đồng cho vay giữa NHTM với khách hàng vay, không bao gồm các khoản nợ trái
phiếu doanh nghiệp, nợ trái phiếu chính phủ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu, bao gồm một
số phương pháp nghiên cứu điển hình là:

4


(i) Phương pháp luận biện chứng: là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng
trong sự ràng buộc lẫn nhau, trong sự vận động và phát triển không ngừng, nhằm
phân tích pháp luật mua bán nợ trong mối quan hệ chịu sự ảnh hưởng, tác động của
nhiều đối tượng khác, đồng thời, nhờ nhận thức được việc này mà đề ra định hướng

hoàn thiện các quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
(ii) Phương pháp thống kê, thu thập số liệu: là phương pháp sử dụng những
thông tin sẵn có từ các nguồn khác nhau, phương pháp này được sử dụng để đánh
giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
(iii) Phương pháp chuyên gia: phương pháp này được vận dụng trong việc tiếp
cận các quan điểm, đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng nói chung
và mua bán nợ nói riêng, ví dụ như các quan điểm về khái niệm nợ, nợ xấu của
NHTM, để kế thừa, cải tiến các kết luận trong các cơng trình trước đây.
(iv) Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: là phương pháp nghiên cứu
các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm
hiểu sâu sắc về đối tượng, đồng thời liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã
được phân tích tạo thành một hệ thống lý thuyết mới từ đầu đến cuối và sâu sắc hơn
về đối tượng. Phương pháp này được sử dụng trong việc phân tích, tổng hợp các
khía cạnh lý luận và thực trạng pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
(v) Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: là phương pháp sắp xếp
các tài liệu khoa học theo từng mặt, từng đơn vị, từng vấn đề có cùng dấu hiệu bản
chất, cùng một hướng phát triển, tổ chức tri thức thành một hệ thống trên cơ sở mơ
hình lý thuyết làm sự hiểu biết về đối tượng toàn diện hơn. Phương pháp này được
áp dụng nhằm phân loại và hệ thống các vấn đề được nghiên cứu trong luận án
thành hệ thống lý thuyết được sắp xếp hiệu quả, giúp cho sự hiểu biết về mua bán
nợ của NHTM được hệ thống và toàn diện.
(vi) Phương pháp nghiên cứu lịch sử: là phương pháp nghiên cứu bằng cách đi
tìm nguồn gốc phát sinh, q trình phát triển của đối tượng từ đó rút ra bản chất và quy
luật của đối tượng. Phương pháp này được áp dụng trong quá trình nghiên cứu sự hình
thành và phát triển một số quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM tại Việt Nam,
sự hình thành và phát triển của một số thị trường mua bán nợ trên thế giới.

5



5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đã góp phần hồn thiện các khái niệm nợ, nợ xấu của
NHTM bằng việc định nghĩa một cách đầy đủ, rõ ràng và đúng với bản chất pháp lý
của vấn đề hơn. Theo đó, khái niệm nợ của NHTM được định nghĩa là một khoản
tiền bao gồm khoản gốc, lãi và các chi phí khác mà khách hàng vay phải thanh toán
cho NHTM tại một hoặc nhiều thời điểm nhất định được gọi là hạn thanh toán do
NHTM và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng; khái niệm nợ xấu được định
nghĩa là những khoản nợ có rủi ro tín dụng cao, khả năng thu hồi vốn thấp, có khả
năng gây thiệt hại cho NHTM cho vay, dựa trên sự đánh giá về lượng thời gian quá
hạn mà chưa thanh toán nợ và sự đánh giá thấp của NHTM về khả năng trả nợ của
khách hàng. Trên cơ sở định nghĩa chính xác về nợ của NHTM, từ đó luận án đã
phân tích, nêu ra đầy đủ những đặc điểm về nợ của NHTM là: (i) phát sinh trên cơ
sở hợp đồng cấp tín dụng của NHTM; (ii) là quan hệ về tài sản; (iii) bao gồm số nợ
gốc, lãi vay và chi phí khác nếu có; (iv) luôn mang rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng.
Bên cạnh đó, luận án có những nội dung phân tích về hoạt động phân loại nợ với tư
cách là một hoạt động quản trị rủi ro đặc biệt quan trọng của NHTM, qua đó thấy
được nợ được phân ra làm nhiều loại khác nhau, mỗi loại nợ sẽ có những biện pháp
pháp quản lý riêng biệt mà mua bán nợ là một trong những biện pháp đó, những ảnh
hưởng của việc phân loại nợ đến những bên tham gia vào hoạt động mua bán nợ.
Thứ hai, trên cơ sở kế thừa và hồn thiện các cơng trình nghiên cứu trước đây,
luận án đã đưa ra khái niệm mua bán nợ của NHTM đầy đủ và chính xác hơn, đó là
giao dịch dựa trên sự tự nguyện thoả thuận giữa bên bán nợ và bên mua nợ với đối
tượng giao dịch là quyền yêu cầu khách hàng vay nợ thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khi đến hạn thanh toán và những quyền yêu cầu khác của NHTM được chuyển giao
toàn bộ hoặc một phần cho bên mua nợ. Từ đó, luận án làm rõ hơn những đặc điểm
pháp lý của hoạt động mua bán nợ của NHTM, vai trò của hoạt động mua bán nợ
đối với các chủ thể tham gia mua bán nợ và đối với nền kinh tế, các nguyên tắc
trong hoạt động mua bán nợ của NHTM từ những nguyên tắc chung của quan hệ
hợp đồng dân sự đến các nguyên tắc đặc thù của hoạt động này như là: (i) không
trái với nội dung quy định tại hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm, (ii) các


6


chủ thể tham gia hoạt động mua nợ phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh, hoạt
động cụ thể của pháp luật, (iii) đối tượng giao dịch là khoản nợ trong một số trường
hợp phải đáp ứng một số yếu tố mới được phép đưa vào mua, bán.
Thứ ba, luận án đã nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận pháp luật
về mua bán nợ của NHTM, chỉ ra những đặc điểm cơ bản, đặc thù của pháp luật
mua bán nợ của NHTM thông qua các vấn đề: (i) nguồn luật điều chỉnh hoạt động
mua bán nợ của NHTM, (ii) chủ thể chính chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hoạt
động mua bán nợ của NHTM, (iii) đối tượng điều chỉnh của pháp luật về hoạt động
mua bán nợ của NHTM. Luận án cũng bổ sung thêm những nội dung lý luận pháp
luật về mua bán nợ của NHTM trong các vấn đề: (i) đối tượng mua bán nợ của
NHTM, (ii) chủ thể mua bán nợ, (iii) cơng cụ thanh tốn trong giao dịch mua bán
nợ của NHTM, (iv) hợp đồng mua bán nợ của NHTM, và (v) xử lý tài sản bảo đảm
của khoản vay được mua, bán. Ngồi ra, luận án đã phân tích, làm rõ các yếu tố ảnh
hưởng đến pháp luật về mua bán nợ của NHTM cụ thể là: (i) điều kiện kinh tế, xã
hội và đường lối, chính sách của nhà nước, (ii) việc kết nối thị trường vốn, tài chính
và nhu cầu thực tiễn, (iii) xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và tồn cầu hóa, (iv) sự
hài hoà với các quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Thứ tư, luận án đã phân tích, đánh giá có hệ thống các quy định pháp luật hiện
hành về mua bán nợ của NHTM và thực tiễn thực hiện những quy định đó, qua đó
làm rõ những thành tựu đạt được và những điểm bất cập, những khoảng trống mà
pháp luật còn bỏ ngỏ chưa điều chỉnh. Các quy định chủ yếu được luận án phân
tích, đánh giá gồm có: (i) khái niệm nợ của NHTM; (ii) điều kiện đối với khoản nợ
của NHTM được mua, bán; (iii) chủ thể mua bán nợ; (iv) cơng cụ thanh tốn trong
giao dịch mua bán nợ của NHTM; (v) giá mua bán nợ; (vi) hợp đồng mua bán nợ
của NHTM; (vii) xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ và giải quyết tranh chấp phát
sinh trong hoạt động mua bán nợ của NHTM.

Thứ năm, luận án đã đưa ra được các định hướng cụ thể, rõ ràng cho việc hoàn
thiện pháp luật về mua bán nợ của NHTM, khắc phục tình trạng định hướng chung
chung và không đầy đủ trong các cơng trình trước đây. Từ đó, luận án đưa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của NHTM nhằm hình thành một hệ
thống pháp luật đồng bộ, tạo thuận lợi cho hoạt động mua bán nợ và việc hình thành

7


đầy đủ các điều kiện cần thiết cho một thị trường mua bán nợ hoàn chỉnh bao gồm
các loại nợ khác nhau, khắc phục những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp
luật hiện hành. Các giải pháp được đề xuất cho các vấn đề chủ yếu của pháp luật
mua bán nợ của NHTM, bao gồm đối tượng mua bán nợ; chủ thể tham gia hoạt động
mua bán nợ; giá mua bán nợ; cơng cụ thanh tốn trong giao dịch mua bán nợ; hợp đồng
mua bán nợ; việc xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động mua bán nợ của NHTM ...
Đồng thời, để hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật mua bán nợ của NHTM tại Việt
Nam nhằm đảm bảo cho các quy định pháp luật được thực hiện, triển khai trên thực
tế một cách có hiệu quả, luận án đưa ra một loạt đề xuất như là: bổ sung hình thức
mua bán nợ theo lơ, khắc phục tình trạng cung thừa cầu thiếu trong mua bán nợ của
NHTM, hình thành và phát triển các tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp, thành
lập hiệp hội các công ty mua bán nợ, tổ chức thị trường mua bán nợ, nâng cao năng lực
quản lý nhà nước, tổ chức thực thi pháp luật …
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu chun sâu, tồn diện, tập trung về vấn đề
mua bán nợ của NHTM, nhằm góp phần xây dựng hệ thống lý luận và pháp luật về
mua bán nợ của NHTM, đồng thời đưa ra những đánh giá, đề xuất nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM hiện nay. Kết quả nghiên cứu của
luận án có ý nghĩa lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, luận án cung cấp bức tranh tổng quan và góp phần hồn thiện các cơ
sở lý luận về mua bán nợ của NHTM, tạo tiền đề và điều kiện cho các cơng trình

sau có cơ sở tham khảo, vận dụng.
Thứ hai, luận án cung cấp kiến thức pháp lý về mua bán nợ của NHTM, phục
vụ công tác đào tạo, áp dụng pháp luật tại Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, luận án đưa ra những đánh giá, kiến nghị mang tính tham khảo hữu
ích đối với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện, nâng cao khả năng thực thi
các quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài bốn phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung luận án chia thành bốn chương:

8


- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu;
- Chương 2: Lý luận về mua bán nợ của ngân hàng thương mại và pháp luật
về mua bán nợ của ngân hàng thương mại;
- Chương 3: Thực trạng pháp luật mua bán nợ của ngân hàng thương mại ở
Việt Nam hiện nay;
- Chương 4: Định hướng và đề xuất hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương mại.

9


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về mua bán nợ của
ngân hàng thương mại

Một là, các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và phân loại nợ của ngân
hàng thương mại
Khái niệm nợ nói chung và nợ của NHTM nói riêng được một số cơng trình tại
Việt Nam nghiên cứu cụ thể như sau:
Tại luận án tiến sĩ về “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín
dụng ở Việt Nam” của tác giả Khúc Thị Phương Nhung cho rằng khái niệm nợ
(khoản nợ) có thể được biểu hiện bằng một khoản tiền nhất định hoặc dưới dạng
khác (dịch vụ phải cung ứng, công việc phải thực hiện) mà theo đó nghĩa vụ này
được phát sinh trên cơ sở hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật và bên nợ có
nghĩa vụ phải thực hiện theo u cầu của bên có quyền. Ngồi ra, cơng trình cịn
đưa ra khái niệm nợ của TCTD, theo đó, nợ của TCTD là một khoản tiền bao gồm
khoản gốc, lãi, phí và/hoặc chi phí khác có liên quan mà khách hàng (tổ chức, cá
nhân) có nghĩa vụ phải trả cho TCTD tại một thời điểm nhất định theo thỏa thuận
được xác lập trong hợp đồng giữa TCTD và khách hàng [[31], tr. 57].
Theo luận án tiến sĩ kinh tế về “Phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hương, cho rằng nợ là nghĩa vụ phải trả bằng tiền hoặc
tài sản của cá nhân hoặc tổ chức này (gọi là khách nợ) đối với cá nhân hoặc tổ chức
khác (chủ nợ). Nợ có thể có tài sản bảo đảm hoặc khơng có tài sản bảo đảm [22].
Luận văn thạc sĩ luật học về “Hợp đồng mua bán nợ theo pháp luật Việt Nam”
của tác giả Lê Trọng Dũng cũng đề cập đến khái niệm nợ, theo đó, nợ là nghĩa vụ
của cá nhân, tổ chức phải trả tài sản cho cá nhân, tổ chức khác phát sinh từ hợp
đồng hoặc theo quy định của pháp luật [[18], tr. 8]. Theo định nghĩa này, nợ được

10


hiểu là một mối quan hệ pháp lý của một bên phải hoàn trả cho một bên khác, mà
đối tượng được giới hạn trong phạm vi tài sản, phát sinh do thoả thuận của các bên
hoặc do sự điều tiết của pháp luật trong những trường hợp cụ thể.
Theo bài viết “Nghĩa vụ dân sự và quan niệm nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam”

của Phó giáo sư Tiến s Ngô Huy Cương, các định nghĩa nợ thông thường chỉ đứng
dưới góc nhìn của bên có nghĩa vụ phải thực hiện vì lợi ích của người khác mà chưa
xem xét góc độ từ phía người có quyền, theo đó một bên có quyền u cầu, cịn bên
kia phải thực hiện hành vi nhất định theo yêu cầu đó, có nghĩa là chỉ mối quan hệ
giữa trái chủ và người thụ trái xác định. Khi nói hợp đồng là căn cứ phát sinh ra
nghĩa vụ, thì có nghĩa là hợp đồng làm phát sinh ra quan hệ giữa trái chủ và người
thụ trái xác định [17]. Do vậy, cần lưu ý trong quan hệ nghĩa vụ ln có hai chủ thể
trái ngược nhau: một bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ, bên còn lại phải
thực hiện yêu cầu của bên kia để quan tâm đầy đủ các khía cạnh.
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu về nợ nói chung của NHTM, cũng có nhiều
cơng trình nghiên cứu về nợ xấu nói chung và nợ xấu của NHTM, cụ thể như sau:
Theo Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương về “Quản lý
nợ xấu tại ngân hàng thương mại Việt Nam”, tác giả cho rằng nếu đứng dưới góc
nhìn của các NHTM thì nợ xấu có thể hiểu là những khoản nợ cho vay khơng có
khả năng sinh lời hay những khoản vay khơng cịn hoạt động, liên quan tới tính hiệu
quả của khu vực ngân hàng. Những khoản vay trở nên không sinh lời khi người vay
dừng việc thanh toán và khoản cho vay này bắt đầu bị vỡ nợ. Cụ thể, theo quan
điểm của tác giả, nợ xấu phải được tiếp cận dựa vào khả năng trả nợ của khách
hàng. Có nghĩa là một khoản vay trong hạn, hoặc thậm chí mới cho vay, nhưng có
dấu hiệu chứng tỏ rằng khả năng trả nợ của khoản vay là đáng nghi ngờ thì cũng có
thể coi là một khoản nợ xấu [34].
Việc nghiên cứu khái niệm nợ xấu cũng được đề ra trong nhiều cơng trình
nghiên cứu, bài viết khác. Như trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Tú về “Pháp
luật về mua bán nợ xấu của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, tác giả đã đưa ra
khái niệm về nợ xấu, hay cịn gọi là nợ khó địi hoặc các khoản vay có vấn đề, là

11


khái niệm được sử dụng phổ biến nhằm ám chỉ các khoản nợ bị suy giảm khả năng

thu hồi hoặc mất khả năng thu hồi [43]. Khái niệm này cho thấy về bản chất nợ xấu
là khoản nợ mà người vay không trả nợ đến hạn bao gồm cả trường hợp không trả
nợ và mất khả năng trả nợ. Hay quan điểm của Tiến sĩ Tôn Thanh Tâm trong bài
viết “Bàn về xử lý nợ xấu” chỉ ra rằng, dấu hiệu nhận biết nợ xấu là nếu bên vay trả
nợ khơng sịng phẳng, khơng đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thì nó
trở thành nợ xấu [36].
“Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của
tác giả Khúc Thị Phương Nhung đã đề cập một số vấn đề về đặc điểm nợ và phân
loại nợ của TCTD trong đó bao gồm NHTM thơng qua góc độ phân tích đặc điểm
nợ và phân loại nợ của TCTD nói chung. Qua đó, thể hiện nợ mang một số đặc
điểm như phát sinh trên cơ sở hợp đồng giữa TCTD và khách hàng, thường đi kèm
với sự bảo đảm khả năng thanh tốn thơng qua các biện pháp bảo đảm tiền vay,
thường được các bên xác định trước thời điểm trả nợ, bao gồm số tiền vay gốc, lãi,
phí và chi phí khác nếu có, và là kết quả của q trình mà TCTD thực hiện quyền
định đoạt đối với tài sản của chính mình thơng qua hợp đồng tín dụng. Đồng thời,
cơng trình này cũng chỉ ra được phương pháp phân loại nợ định lượng và định tính,
và khoản nợ xấu (nợ nhóm 3, 4, 5) có tỷ lệ trích lập dự phịng cao hơn các nhóm nợ
khác [31].
Ln án tiến s luật học “Pháp luật về mua bán nợ xấu từ hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của Hoàng văn Thành đã đưa ra khái niệm “nợ
xấu từ hoạt động cho vay của các TCTD là một loại quyền tài sản hình thành khi nghĩa
vụ trả nợ của khách hàng đối với TCTD không được thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ sau một khoảng thời gian luật định hoặc được TCTD nhận định khách hàng rất
có thể khơng cịn khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ” [[37], tr.446]
Tại một số công trình nghiên cứu khác như “Pháp luật về hoạt động mua, bán
nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41], “Hợp đồng
mua bán nợ theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Trọng Dũng [18], “Nợ xấu,
phân loại nợ và trích lập dự phịng rủi ro tín dụng theo quy định Việt Nam và thông

12



lệ quốc tế” của tác giả Đinh Thị Thanh Vân [46], “Hợp đồng mua bán nợ của các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24], cũng chỉ
ra được các phương pháp phân loại nợ phổ biến tại Việt Nam theo phương pháp
định lượng và định tính.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trong nước kể trên, ở nước ngồi cũng
có những cơng trình nghiên cứu về khái niệm nợ, nợ xấu, phân loại nợ của NHTM.
Cụ thể là:
Trong Fundamentals of contract law (Đại cương về pháp luật hợp đồng) của
Corinne Renault Brahinsky [[59], tr. 11], tác giả khẳng định bản chất pháp lý của nợ
là một nghĩa vụ tài sản của bên nợ đối với chủ nợ. Trong bài viết Régime juridique
du transfert de créances (dịch là: Chế độ pháp lý về chuyển giao quyền đòi nợ) của
Andoh Ludovie [99], tác giả cũng cho rằng, nợ với bản chất là nghĩa vụ của chủ thể
này với chủ thể khác. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định, thực chất chuyển giao
quyền đòi nợ là quá trình chuyển giao quyền tài sản của chủ thể có quyền cho một
bên thứ ba theo thỏa thuận.
Tiếp đến, có một số cơng trình khoa học khác cũng đã đề cập đến khái niệm
nợ xấu và cách phân loại nợ như The Treatment of Nonperforming Loans (dịch là: Xử lý
các khoản vay không hiệu quả) của Eighteenth Meeting of the IMF Committee on
Balance of Payments Statistics Washington (June 27–July 1 (2005) [60]; International
Convergence of Capital Measurement and Capital Standards (Tập hợp các tiêu
chuẩn quốc tế về vốn và đo lường vốn) (A Revised Framework) của Basel
Committee on Banking Supervision [62]. Trong các cơng trình nghiên cứu này, nợ
xấu được xác định dựa trên cả hai dấu hiệu định lượng (các khoản nợ đã quá hạn từ
90 ngày trở lên) và định tính (dấu hiệu khách hàng khơng trả được nợ).
Hai là, các cơng trình nghiên cứu về mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Về khái niệm, đặc điểm mua bán nợ của NHTM hiện nay có một số cơng trình
tiêu biểu tại Việt Nam nghiên cứu đến vấn đề này có thể kể đến như:
Cơng trình “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho

vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới” của tác giả Lê
Thị Thu Thủy [40] đã đưa ra khái niệm về mua bán nợ. Qua đó, có thể hiểu mua

13


bán nợ là hoạt động mà bên bán chuyển giao quyền đòi nợ cho bên mua nợ để sớm
thu hồi vốn của mình, bản chất của mua bán nợ là chuyển giao quyền sở hữu đối với
khoản nợ từ bên bán sáng bên mua nợ. Tuy nhiên, các phân tích trong cơng trình
nghiên cứu này chưa được cụ thể, chưa làm rõ được sự khác biệt giữa mua bán nợ
của NHTM với mua, bán tài sản thơng thường.
Bên cạnh đó, bài viết “Hồn thiện khn khổ pháp lý cho thị trường mua, bán
nợ” của tác giả Lê Trọng Dũng cũng cho rằng mua, bán nợ là quá trình chuyển giao
quyền chủ nợ đối với khoản nợ giữa bên bán nợ và bên mua nợ, tuy nhiên, chưa chỉ
ra được đặc điểm cụ thể của hoạt động mua, bán nợ [18].
Về vai trò, nguyên tắc mua bán nợ của ngân hàng thương mại: Cơng trình
“Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới” của tác giả Lê Thị Thu Thủy [40]
nêu được một số vai trò cơ bản của hoạt động mua bán nợ. Tuy nhiên, cơng trình
này chưa tách bạch được vai trò của hoạt động này đối với từng chủ thể cụ thể.
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] đưa ra nhận định mua bán nợ có vai trị
quan trọng khơng chỉ đối với các ngân hàng mà cịn có vai trị nhằm đảm bảo sự
phát triển lành mạnh cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, về nguyên tắc mua bán nợ, cơng
trình nêu ra được ngun tắc mua bán nợ của DATC và VAMC. Cụ thể, DATC
mua nợ theo nguyên tắc tự nguyện đàm phán, trên cơ sở đánh giá hoạt động của cả
người vay, cịn VAMC mua nợ mang tính bắt buộc với quy định TCTD có nợ xấu
trên 3% phải bán nợ cho VAMC. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này cũng chưa
nêu rõ được vai trò của mua bán nợ đối với từng chủ thể và cũng chưa nêu được các
vấn đề lý luận về các nguyên tắc mua bán nợ trong hoạt động mua bán nợ hiện nay.

Ở nước ngồi, cũng có một số cơng trình khoa học đề cập đến khái niệm, đặc
điểm, vai trò của hoạt động mua, bán nợ. Chẳng hạn như: bài viết “Définition La
cession Dailly” (dịch là: Định nghĩa chuyển nhượng nợ) [100] có đề cập tới khái
niệm về chuyển nhượng quyền địi nợ; ưu điểm và nhược điểm của q trình chuyển
nhượng quyền địi nợ. Theo đó, hoạt động hay q trình chuyển nhượng nợ (chuyển

14


nhượng quyền đòi nợ) chịu sự điều chỉnh của pháp luật tại Điều L 313- 23 Luật tiền
tệ và tài chính Pháp. Chuyển nhượng nợ là một dạng thức đặc biệt của chuyển
nhượng quyền tài sản đã được điều chỉnh bởi Điều 1689 Bộ luật dân sự Pháp. Bài
viết cũng chỉ ra, bán nợ (Le débiteur cédé), có nghĩa là con nợ sẽ phải thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của mình cho bên nhận chuyển nhượng, nếu bên nhận chuyển nhượng
đó đã thơng báo cho con nợ về việc chuyển nhượng.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về mua
bán nợ của ngân hàng thương mại
Một là, các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm pháp luật và các yếu tố ảnh
hưởng đến pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Hiện nay, chưa có nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu về khái niệm, đặc
điểm pháp luật về mua bán nợ của NHTM. Một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
liên quan đến vấn đề này có thể kể đến là:
Cơng trình nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thu Thủy về “Pháp luật về các biện
pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và
một số nước trên thế giới” [40]. Theo đó, tác giả nhận định pháp luật về mua bán nợ
xấu là tổng hợp những quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các bên thực hiện
hoạt động mua bán nợ. Đồng thời, pháp luật về mua bán nợ xấu vừa mang những
đặc điểm chung của pháp luật về mua, bán tài sản, vừa mang những đặc điểm đặc
thù của hoạt động mua bán nợ xấu. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này chỉ trình

bày tập trung vào đối tượng nợ xấu và chưa có những phân tích cụ thể, chi tiết về
pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] cũng đề cập về pháp luật và đặc điểm của
pháp luật về mua, bán nợ của TCTD. Theo đó, cơng trình này làm rõ nguồn điều
chỉnh pháp luật của hoạt động mua, bán nợ của TCTD là pháp luật chung về dân sự
và pháp luật chuyên ngành về các TCTD. Đồng thời, cơng trình nêu ra một số đặc
điểm của pháp luật mua bán nợ xấu của NHTM. Tuy nhiên, cơng trình chưa cho

15


thấy được tầm quan trọng của pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ và chưa nêu
được khái niệm về pháp luật mua bán nợ của NHTM.
Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán nợ của Ngân hàng
thương mại” của tác giả Hoàng Văn Thành [37] cũng đưa ra một số phân tích liên
quan đến nguồn luật điều chỉnh pháp luật về hợp đồng mua bán nợ. Theo đó, hợp
đồng này chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành
có nội dung liên quan đến hợp đồng. Cơng trình nghiên cứu về “Hợp đồng mua bán
nợ theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Trọng Dũng [18] cũng phân tích một số
vấn đề liên quan đến những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng mua bán nợ thơng
qua các khía cạnh như pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán nợ và vai trò của
pháp luật về hợp đồng mua bán nợ. Tuy nhiên, các cơng trình, bài viết được đề cập
chỉ tập trung nghiên cứu về hợp đồng mua bán nợ chứ không nghiên cứu tổng quan
về mua bán nợ. Do đó, phần nguồn luật điều chỉnh được phân tích cũng chỉ đề cập
đến nguồn luật điều chỉnh pháp luật về hợp đồng mua bán nợ mà khơng phân tích
cụ thể pháp luật về mua bán nợ nói chung.
Cuối cùng, hầu như các cơng trình chưa tập trung nghiên cứu về những yếu tố
có thể ảnh hưởng đến pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
Hai là, các nghiên cứu về những nội dung lý luận pháp luật về mua bán nợ

của ngân hàng thương mại
Qua cơng trình về “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín
dụng ở Việt Nam” [41], tác giả Trà Đình Thứ cũng đã nêu ra một số nội dung pháp
luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD, gồm các nhóm quy định về chủ thể
tham gia vào hoạt động mua, bán nợ của các TCTD, về hợp đồng mua, bán nợ, về
phương thức mua, bán nợ và các nhóm các quy định về bảo đảm an toàn, thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp trong hoạt động mua, bán nợ của
TCTD. Tuy nhiên, công trình này chưa phân tích các khía cạnh lý luận pháp luật
của các nhóm quy định trên một cách cụ thể mà chỉ mang tính liệt kê.
Cơng trình nghiên cứu về “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới”

16


của tác giả Lê Thị Thu Thủy [40] cũng xác định nội dung pháp luật về mua bán nợ
xấu của TCTD bao gồm các nội dung cơ bản về chủ thể tham gia; hợp đồng mua
bán nợ xấu; trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động mua bán nợ; xử lý tài sản bảo đảm
của khoản nợ và giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động mua bán nợ xấu
của TCTD.
1.1.3. Các cơng trình nghiên cứu về thực trạng pháp luật mua bán nợ của
ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Một là, các nghiên cứu thực trạng quy định về đối tượng và chủ thể mua bán nợ
của ngân hàng thương mại
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] đã đưa ra những nghiên cứu liên quan
đến đối tượng của hợp đồng mua bán nợ của các NHTM ở Việt Nam thơng qua các
khía cạnh về khái niệm quyền đòi nợ, đặc điểm quyền đòi nợ; đối tượng khoản nợ
được mua, bán tại các TCTD; điều kiện về các khoản nợ được mua, bán và phạm vi
chuyển nhượng khoản nợ.

Trong cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam” [24], tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê cho thấy có những chủ thể tham gia
mua bán nợ, điển hình là chủ thể bán nợ thông qua các quy định về điều kiện về chủ
thể của bên bán nợ khi tham gia giao dịch mua bán nợ, điều kiện về quyền sở hữu
và quyền chuyển nhượng các khoản nợ và chủ thể tham gia mua nợ chủ yếu gồm
các NHTM, các Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại
(AMC), DATC và VAMC thông qua các quy định về điều kiện đối với mỗi chủ thể,
quy định về hoạt động và thực trạng hoạt động của các chủ thể mua nợ cũng như đưa ra
một số so sánh về mơ hình và mục tiêu hoạt động giữa các chủ thể mua nợ này.
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] đã nghiên cứu và trình bày những chủ thể
phổ biến trong hoạt động mua bán nợ, như bên bán nợ được xác định là TCTD, bên
mua nợ có các AMC, VAMC, DATC, các nhà đầu tư nước ngoài và chỉ ra được
một số thực trạng và hạn chế trong hoạt động của các chủ thể này.

17


Bên cạnh đó, cịn có một số cơng trình, bài viết khác nghiên cứu về chủ thể
mua bán nợ, ví dụ như cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ theo pháp luật Việt
Nam” của tác giả Lê Trọng Dũng [18], “Nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại
Vietcombank” của tác giả Bạch Trần Quý Nhi [29] cũng đã có sự phân tích về chủ
thể của hợp đồng mua bán nợ.
Hai là, các nghiên cứu thực trạng quy định về cơng cụ thanh tốn trong giao dịch
mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] có một số phân tích về điều khoản
thanh tốn trong hợp đồng mua bán nợ và đồng tiền thanh tốn. Theo đó, phương
thức thanh toán do các bên tự thỏa thuận với nhau, có thể thanh tốn thành nhiều
đợt hoặc thanh tốn hết một lần. Đồng tiền thanh toán thường là đồng tiền của

khoản nợ được mua, bán; cũng là đồng tiền được bên mua nợ dùng để thanh tốn
cho TCTD. Cơng trình về “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín
dụng ở Việt Nam” [41], tác giả Trà Đình Thứ chỉ ra phương tiện thanh tốn là tiền –
loại phương tiện có tính thanh khoản cao nhất. Tuy nhiên, các cơng trình này mới
chỉ nêu cơng cụ thanh toán phổ biến nhất là tiền, chưa đề cập đến các cơng cụ thanh
tốn khác như các loại trái phiếu.
Ba là, các nghiên cứu thực trạng quy định về hợp đồng mua bán nợ của ngân
hàng thương mại
Về hình thức hợp đồng mua bán nợ:
Cơng trình “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] phân tích về hình thức của hợp đồng
mua bán nợ như một trong những điều kiện để hợp đồng này có hiệu lực và chỉ ra
được sự phân biệt so với hợp đồng mua, bán nói chung, bởi hợp đồng mua, bán nói
chung khơng có quy định cụ thể về việc phải được lập thành văn bản.
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] đề cập đến hình thức của hợp đồng mua,
bán nợ phải được lập thành văn bản, nhằm đảm bảo một số mục đích như làm bằng

18


chứng pháp lý cho việc chuyển giao quyền đòi nợ, làm cơ sở để cơ quan quản lý
nhà nước thanh tra, giám sát. Tuy các phân tích này dựa trên Bộ luật Dân sự 2005
đã hết hiệu lực, song vẫn có giá trị tham khảo do tinh thần luật quy định về vấn đề
này hầu như khơng có sự thay đổi so với Bộ luật Dân sự 2015.
Hình thức của hợp đồng mua bán nợ cũng được đề cập, phân tích trong một số
bài viết, cơng trình nghiên cứu khác như bài viết “Một số vấn đề pháp lý về hợp
đồng mua bán nợ của Ngân hàng thương mại” của tác giả Hồng Văn Thành [37],
cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê
Trọng Dũng [18]. Các bài viết, cơng trình nghiên cứu này đều chỉ ra hợp đồng mua

bán nợ cần được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản.
Về nội dung hợp đồng mua bán nợ:
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] đã đưa ra một số nhận định tình hình
pháp luật quy định về hợp đồng mua bán nợ, theo đó loại hợp đồng này còn chịu sự
điều chỉnh của luật chung là Bộ luật Dân sự về vấn đề mua, bán quyền tài sản. Theo
đó, tác giả nhận định việc lược bỏ khái niệm về hợp đồng mua bán nợ gây khó hiểu
và có quy định về nội dung của hợp đồng này nhưng khơng định nghĩa nó là gì có
thể xem là phù hợp. Các giao dịch mua bán nợ là giao dịch ba bên và do đó, tương
đối phức tạp. Vì vậy cần thiết phải có những quy định về hợp đồng mua bán nợ là gì
nhằm giúp các bên dễ dàng hơn trong quá trình tham gia giao dịch này. Đồng thời,
cơng trình cũng tổng hợp, phân tích các yếu tố về mặt thực tiễn thực hiện hợp đồng
mua bán nợ của NHTM ở Việt Nam.
Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán nợ của Ngân hàng
thương mại” của tác giả Hoàng Văn Thành [37] đã đưa ra khái niệm về hợp đồng
mua bán nợ. Theo đó, hợp đồng mua bán nợ là sự thỏa thuận giữa bên mua nợ và
bên bán nợ về việc bên mua nợ sẽ mua khoản nợ của bên bán với những điều kiện
và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Tác giả cũng nhận định đây là một dạng
của hợp đồng dân sự, bởi chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng này bao gồm các tổ
chức có tư cách pháp nhân và các cá nhân, tổ chức khơng có tư cách pháp nhân.

19


×