Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.59 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ THƢƠNG

XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành Luận văn này, tác giả đã nhận đƣợc sự giúp
đỡ, cung cấp tài liệu, sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hƣớng dẫn là TS.
Nguyễn Văn Tuyến, các anh chị và bạn bè đồng nghiệp, các cán bộ Trung tâm
Thƣ viện Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. em xin gửi lời cảm ơn chân thành
nhất vì sự giúp đỡ quý báu này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong việc thu thập tài liệu và tìm tòi, nghiên
cứu nhƣng do thời gian nghiên cứu và nguồn tài liệu có hạn, cùng với những


hạn chế của bản thân tác giả, Luận văn chắc chắn khó tránh khỏi những khiếm
khuyết cần đƣợc xem xét, chỉnh sửa. Em mong nhận đƣợc sự phê bình và góp
ý của các thầy, cô, các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp để công trình
khoa học này đƣợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 2013
Học viên cao học

Phạm Thị Thƣơng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Ngân hàng nhà nƣớc

: NHNN

Tổ chức tín dụng

:TCTD

Ngân hàng Thƣơng mại

: NHTM

Chính sách tiền tệ

: CSTT

Ngân hàng nƣớc ngoài


: NHNNg

Dự phòng rủi ro

: DPRR

Tài sản bảo dảm

: TSBĐ

Xử lý nợ xấu

: XLNX


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .......................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................2
3. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài ...................................3
4. Những đóng góp mới của đề tài luận văn ...............................................................4
5. Kết cấu của Luận văn ..............................................................................................4
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI .........6
1.1. Khái luận về nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM ............................6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thƣơng mại ..............................................................................................................6
1.1.2. Các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng

thƣơng mại ..............................................................................................................9
1.1.3. Tác hại của nợ xấu đối với ngân hàng và nền kinh tế - xã hội....................17
1.2. Khái luận về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng
mại ............................................................................................................................20
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thƣơng mại ....................................................................................................20
1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của việc xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thƣơng mại và các nguyên tắc xử lý nợ xấu .................................................23
1.2.3. Các biện pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng
mại .........................................................................................................................25
Kết luận chƣơng I ....................................................................................................28
CHƢƠNG 1 :THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ........................................................................29
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thƣơng mại ở Việt Nam .................................................................................29
2.1.1. Các quy định về nợ xấu và phân loại nợ xấu ..............................................29
2.1.2. Các quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ ..................................................31
2.1.3. Các quy định về xử lý tài sản bảo đảm .......................................................33
2.1.4. Các quy định về trích lập quỹ dự phòng rủi ro ...........................................36


2.1.5. Các quy định về thủ tục xử lý nợ xấu .........................................................39
2.1.6. Các quy định về an toàn vốn tối thiểu .........................................................41
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại ở Việt Nam ....................................................................................44
2.2.1. Tình hình nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại ở
Việt Nam ...............................................................................................................44
2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương
mại ở Việt Nam – so sánh với một số nước trên thế giới.......................................45

2.2.3. Một số nhận xét, bình luận và đánh giá ......................................................49
Kết luận chƣơng II ..................................................................................................51
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÁP LÝ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ
LÝ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢỢNG
MẠI Ở VIỆT NAM ...................................................................................................52
3.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật trong xử lý nợ xấu của ngân hàng
thƣơng mại ở Việt Nam.............................................................................................52
3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực thi pháp luật trong xử lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam .............................................................................................55
3.2.1. Cải cách bộ máy tổ chức, quản trị, điều hành của ngân hàng thƣơng mại .55
3.2.2. Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của
nguồn nhân lực trong các ngân hàng thƣơng mại .................................................57
3.2.3. Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ về quản trị rủi ro trong xử lý nợ xấu của
ngân hàng thƣơng mại ...........................................................................................58
Kết luận chƣơng III ................................................................................................60
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................62


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau một thời gian gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới – WTO, nền
kinh tế Việt Nam đã có đƣợc nhiều cơ hội cũng nhƣ gặp vô vàn thách thức từ
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế vĩ mô Việt Nam còn nhiều bất ổn
vì lạm phát còn ở mức cao, thâm hụt ngân sách chƣa giảm, tỷ lệ nợ công vẫn
chƣa đƣợc kiểm soát hiệu quả, hệ thống tài chính ngân hàng kém bền vững và
không thể hỗ trợ tốt cho nền kinh tế. Những bất ổn này không những xuất
phát từ các yếu tố bên ngoài nhƣ nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn mà

còn xuất phát từ chính những yếu tố nội tại của nền kinh tế việt Nam.
Tại Hội nghị toàn quốc đánh giá thực hiện Nghị quyết 08 – NQ/TW và
Nghị quyết 16/2007/NQ-CP, Thủ tƣớng Chính phủ đã khẳng định đất nƣớc
Việt Nam đang bƣớc vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh khu vực và
quốc tế có nhiều thay đổi. Vì vậy, việc tái cấu trúc nền kinh tế là một nhiệm
vụ hết sức cấp bách, là ƣu tiên chính sách phát triển hàng đầu ở Việt Nam
hiện nay và những năm tiếp theo.
Trong Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế trình Quốc Hội, Chính Phủ
đã xác định việc tái cơ cấu nền kinh tế có 3 trọng tâm là: Tái cấu trúc đầu tƣ
công, tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng Thƣơng mại và tái cấu trúc Doanh
nghiệp nhà nƣớc. Trong bối cảnh hiện nay, tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng
Thƣơng mại đƣợc coi nhƣ là một điều kiện quan trọng hàng đầu với nhiệm vụ
chính là giải quyết nợ xấu, làm tan cục máu đông để lƣu thông mạch máu tiền
tệ trong nền kinh tế.
Do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế Việt
Nam trong những năm gần đây nên khiến cho môi trƣờng kinh doanh trở nên
xấu đi. Hoạt động của hệ thống các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam đã gặp
rất nhiều khó khăn và bộc lộ sự yếu kém, giảm khả năng cạnh tranh. Trong đó


2

nổi bật là tình hình tài chính không lành mạnh, tỷ lệ nợ xấu tăng cao.
Để tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và hệ thống Ngân hàng nói riêng thì
việc giải quyết nợ xấu đƣợc xem nhƣ nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng hàng
đầu. Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
của WTO nên vấn đề tái cơ cấu hệ thống ngân hàng phải đƣợc đặt trong mối
quan tâm đến yêu cầu hội nhập quốc tế và việc thực thi các cam kết quốc tế
của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng.
Hiện nay, Chính phủ cũng nhƣ các cơ quan quản lý Tài chính – Ngân

hàng đang tìm mọi biện pháp hữu hiệu để có thể hạn chế và XLNX một cách
tối đa. Tuy đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về xử lý nợ xấu nhƣng
chừng đó là chƣa đủ để giải mã mọi khía cạnh của vấn đề xử lý nợ xấu trong
hoạt động cho vay của NHTM ở Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ nhận thức nhƣ vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Xử lý nợ
xấu trong hoạt động cho vay của NHTM theo pháp luật Việt Nam” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về XLNX theo pháp luật Việt
Nam nhƣ các đề tài cấp bộ, cấp cơ sở và các cơ quan chức năng đã tổ chức
những hội thảo đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của pháp luật về giải
quyết nợ xấu cũng nhƣ thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu trong
hoạt động kinh doanh của NHTM.
Ở mỗi đề tài, mỗi tác giả đều có cách tiếp cận khác nhau. Ví dụ nhƣ:
- Bài viết: “Trao đổi về giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM
Việt Nam” của TS. Lê Quốc Lý, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ.
- Bài viết: “Giải quyết nợ xấu và ngăn chặn nợ xấu phát sinh” của Trần
Đình Định, Phó TGĐ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam;


3

- Bài viết: “Cần gắn việc xử lý nợ xấu tồn đọng trong quá trình tái cơ cấu
NHTM Việt Nam với tổng thể xử lý công nợ dây dƣa của nền kinh tế quốc
dân” của TS. Nguyễn Viết Hồng, Giám đốc Công ty AMC – Ngân hàng Đầu
tƣ và Phát triển Việt Nam.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu nói trên chỉ khảo sát, bình luận,
nghiên cứu về mặt lý luận và đƣa ra các giải pháp mang tính chuyên ngành
kinh tế tài chính chứ chƣa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về các

khía cạnh luật pháp nhằm giúp ích cho việc nâng cao hiệu quả giải quyết nợ
xấu ở NHTM. Trong khi đó, để giải quyết nợ xấu một cách căn cơ và hiệu
quả trên thực tế thì các quy định của pháp luật có vai trò rất quan trọng, đặc
biệt là trong việc phân loại, đánh giá và quy định các giới hạn trong việc
XLNX. Do đó, đề tài này phần nào đáp ứng tính cấp thiết của việc nghiên cứu
trong tình hình hiện nay, khi mà vấn đề nợ xấu đang ngày càng tăng về quy
mô nhƣng các quy định về giải quyết nợ xấu đang bộc lộc nhiều bất cập, cần
thiết phải đƣợc bổ sung và sửa đổi nhằm tạo ra một hành lang pháp lý chặt
chẽ, hiệu quả trong quá trình áp dụng vào thực tiễn.
3. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, học thuyết về nợ xấu
và xử lý nợ xấu của NHTM; các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp
luật nƣớc ngoài về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với mục đích và đối tƣợng nghiên cứu nhƣ trên, tác giả xác định phạm
vi nghiên cứu của đề tài sẽ bao gồm các vấn đề cơ bản sau đây:
- Những vấn đề lý luận về nợ xấu và xử lý nợ xấu trong hoạt động cho
vay của NHTM;
- Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
NHTM ở Việt Nam;


4

- Một số đề xuất về phƣơng diện pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả xử lý
nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Tác giả dự kiến đề tài luận văn sẽ đƣợc triển khai thực hiện trên cơ sở sử
dụng phối hợp các phƣơng pháp nghiên cứu phổ dụng trong khoa học xã hội

và nhân văn nhƣ: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp khảo sát,
thống kê; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu pháp luật; phƣơng pháp khái quát
hóa; phƣơng pháp diễn dịch, quy nạp… Tùy theo từng nội dung cụ thể của đề
tài mà tác giả sử dụng những phƣơng pháp khác nhau theo nguyên tắc sử
dụng độc lập hoặc phối hợp giữa các phƣơng pháp nghiên cứu, nhằm đạt đƣợc
mục tiêu cuối cùng là giải quyết tốt các yêu cầu đặt ra của đề tài.
4. Những đóng góp mới của đề tài luận văn
Dự kiến kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ thể hiện những đóng
góp mới sau đây:
Về phương diện lý luận, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm rõ hơn
những vấn đề lý luận về nợ xấu và xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
NHTM nói chung và NHTM ở Việt Nam nói riêng trong bối cảnh hội nhập
quốc tế nhƣ hiện nay.
Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ chỉ ra những
hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về nợ xấu và xử lý nợ xấu trong hoạt
động cho vay của NHTM ở Việt Nam; đồng thời, luận văn cung chỉ rõ những
khó khăn, vƣớng mắc phát sinh trong quá trình xử lý nợ xấu của NHTM nhằm
tạo tiền đề, cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu
quả trong xử lý nợ xấu của NHTM.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
sẽ đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng nhƣ sau:


5

Chƣơng I: Những vấn đề lý luận về nợ xấu và XLNX trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thƣơng mại.
Chƣơng II: Thực trạng pháp luật về XLNX trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng.

Chƣơng III: Các giải pháp pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả XLNX
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam.


6

Chƣơng I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái luận về nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
Quan niệm về nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
Lịch sử phát triển ngân hàng trên thế giới cho thấy rằng khái niệm “nợ
xấu” thƣờng gắn liền với chủ thể kinh doanh đặc thù là ngân hàng thƣơng mại
(NHTM), do đó thuật ngữ “nợ xấu” thƣờng đƣợc biết đến và đƣợc hiểu là nợ
xấu của NHTM. Tuy nhiên, cách hiểu đó chƣa hoàn toàn đúng về phƣơng
diện lý thuyết cũng nhƣ thực tiễn, vì trên nguyên tắc nợ xấu có thể là vấn đề
của nhiều chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, đặc biệt là các chủ thể kinh
doanh, chứ không phải chỉ là vấn đề riêng của NHTM, dù rằng các NHTM là
loại chủ thể có nguy cơ phải đối mặt với nợ xấu nhiều hơn.
Trong khoa học kinh tế cũng nhƣ khoa học pháp lý, khái niệm “nợ xấu”
tuy đã đƣợc đề cập đến và đã đƣợc bàn luận, giải quyết ở những mức độ khác
nhau nhƣng chừng đó dƣờng nhƣ là chƣa đủ để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu
biết của con ngƣời, đặc biệt là chƣa đủ để làm cơ sở lý luận xác đáng cho việc
giải quyết một cách căn cơ, gốc rễ của vấn nạn “nợ xấu” trong hoạt động cho
vay của NHTM.
Theo từ điển Wikipedia, “nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới
chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi
vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản

hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc
gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để
hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp”.
Theo định nghĩa của Ngân hàng Trung ƣơng Châu Âu (ECB), nợ xấu


7

trong các NHTM bao gồm:
(i) Những khoản nợ không thể thu hồi được: Những khoản nợ đã hết hiệu
lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thƣờng từ nợ; ngƣời mắc
nợ trốn hoặc mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ; những khoản nợ
mà ngân hàng không thể liên lạc đƣợc với ngƣời mắc nợ hoặc không thể tìm
đƣợc ngƣời mắc nợ; những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh
doanh, thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ
để trả nợ;
(ii) Nợ có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng: Là những khoản
nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ; ngƣời mắc
nợ không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn thanh toán,
hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ.
Theo định nghĩa về nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc: “Về
cơ bản một khoản nợ đƣợc coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên
90 ngày; hoặc các khoản lãi chƣa trả từ 90 ngày trở lên đã đƣợc nhập gốc, tái
cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã
quá hạn dƣới 90 ngày nhƣng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng
khoản vay sẽ đƣợc thanh toán đầy đủ”. Nhƣ vậy, nợ xấu theo tiêu chuẩn quốc
tế về cơ bản đƣợc xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii)
khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây đƣợc coi là định nghĩa của IAS đang đƣợc áp
dụng phổ biến trên thế giới.
Còn theo định nghĩa về nợ xấu trong pháp luật thực định ở Việt Nam,

“nợ xấu là những khoản nợ đƣợc phân loại vào nhóm 3 (dƣới chuẩn), nhóm 4
(nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn)”1. Nhƣ vậy, ở Việt Nam nợ xấu
cũng đƣợc xác định theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày; và (ii) khả
năng trả nợ đáng lo ngại. Đây đƣợc coi là định nghĩa của VAS.
Tóm lại, từ các định nghĩa nói trên có thể nhận xét rằng quan niệm về nợ
1

Xem thêm: Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam.


8

xấu là rất khác nhau. Tuy nhiên, điểm thống nhất giữa các quan niệm về nợ
xấu là ở chỗ, hầu hết các ý kiến đều thừa nhận rằng nợ xấu là những khoản nợ
khó có khả năng thu hồi, do con nợ có nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản
hoặc thậm chí phá sản.
Đặc điểm của nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
Về khía cạnh học thuật, việc làm rõ các đặc điểm của nợ xấu là vấn đề
cần thiết và ý nghĩa của nó đã đƣợc khẳng định.
Ở mức độ khái quát, có thể hình dung nợ xấu trong hoạt động cho vay
của ngân hàng bao gồm những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng là những khoản
nợ dƣới chuẩn. Theo quan niệm chung ở nhiều quốc gia trên thế giới, nợ dƣới
chuẩn đƣợc hiểu là nợ đã quá hạn trên 90 ngày mà con nợ vẫn không có dấu
hiệu trả đƣợc nợ. Nhƣ vậy, những khoản nợ quá hạn đến 90 ngày và con nợ
không có những dấu hiệu để nghi ngờ về khả năng trả nợ thì vẫn chƣa đƣợc
xếp vào nhóm “nợ xấu” trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Thứ hai, nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng là những khoản
nợ có bằng chứng nghi ngờ về khả năng trả nợ của con nợ, chẳng hạn nhƣ:
con nợ bỏ trốn hoặc tẩu tán tài sản; con nợ thua lỗ dẫn đến nguy cơ phá sản;

con nợ chấm dứt tồn tại trong khi tài sản còn lại không đủ thanh toán nợ. Đôi
khi, sự chậm trễ bất thƣờng và không có lý do trong việc cung cấp các báo
cáo tài chính và trả nợ theo lịch đã thỏa thuận hoặc chậm trễ trong việc liên
lạc với cán bộ tín dụng cũng đƣợc xem là có dấu hiệu nghi ngờ về khả năng
trả nợ của con nợ.
Ngoài ra, theo một số tác giả thì khi có một trong các hiện tƣợng nhƣ liệt
kê dƣới đây thì cũng đƣợc xem là có dấu hiệu nghi ngờ về khả năng trả nợ
của con nợ, chẳng hạn nhƣ2:
- Sự thay đổi bất thƣờng trong khấu hao, kế hoạch trả lƣơng và phụ cấp,
2

Xem thêm: PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội
năm 2009, tr. 408-409.


9

giá trị hàng tồn kho, tài khoản thuế và thu nhập;
- Cơ cấu lại nợ hay hạn chế thanh toán cổ tức, hoặc có sự thay đổi vị trí
xếp hạng tín nhiệm; giá cổ phiếu của công ty thay đổi bất lợi;
- Thu nhập ròng giảm một hay nhiều năm, đặc biệt là các chỉ tiêu nhƣ tỷ
lệ sinh lời trên tổng tài sản, tỷ lệ sinh lời trên vốn cổ phần hay lợi tức trƣớc
thuế và lãi suất;
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu nguồn vốn (chỉ tiêu vốn cổ phần
trên nợ vay), thanh khoản (chỉ tiêu thanh khoản tạm thời), hay mức độ hoạt
động (chỉ tiêu doanh thu trên hàng tồn kho);
- Độ lệch của doanh thu hay lƣu chuyển tiền tệ so với kế hoạch khi mà
tín dụng đã đƣợc cấp;
- Những thay đổi bất ngờ, không dự kiến và không có lý do đối với số dƣ
tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng.

1.1.2. Các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Bản chất của nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng là việc
khách hàng vay khó có khả năng trả nợ hoặc mất hoàn toàn khả năng trả nợ
theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Xét trên bình diện lý thuyết, tình trạng nợ xấu trong hoạt động cho vay
của ngân hàng có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân mang tính chủ quan và
khác quan sau đây:
Nguyên nhân chủ quan
Các nguyên nhân chủ quan đƣợc hiểu là những nguyên nhân bắt nguồn
từ chính mỗi ngân hàng. Các nguyên nhân chủ quan bao gồm:


10

Thứ nhất, do chính mỗi ngân hàng đã buông lỏng kỷ cƣơng, kỷ luật
trong kiểm soát rủi ro khi cho vay, điển hình là các khoản cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản. Ngân hàng trực tiếp có trách nhiệm đối với các khoản
nợ xấu trong hoạt động cho vay do không tiến hành thẩm định chặt chẽ các
khoản vay có liên quan tới doanh nghiệp thuộc khu vực Nhà nƣớc, các tập
đoàn kinh tế nhà nƣớc, các chƣơng trình, dự án đầu tƣ theo chỉ định của
Chính Phủ (bao gồm các chỉ định chính thức hoặc chỉ định ngầm của Chính
phủ); cho vay đối với doanh nghiệp là sân sau của các thành viên Hội đồng
quản trị, Ban Giám đốc hoặc cho vay đối với ngƣời thân quen của lãnh đạo
các ngân hàng thƣơng mại; cho vay tràn lan đối với các khoản mục đầu tƣ vào
chứng khoán, bất động sản mà không có kiểm soát rủi ro đối với các dự án
đầu tƣ này3.
Thứ hai, việc thẩm định tài sản thế chấp có vấn đề do tại thời điểm cho
vay chƣa có sự thẩm định đúng hoặc chƣa có định vị đúng diễn biến kinh tế
của tài sản thế chấp đó nên nhiều khoản thế chấp có giá trị có thể sụt giảm

mạnh khi bong bóng tài sản xì hơi hoặc đƣợc định giá quá cao hoặc rủi ro
chính sách. Một số ngân hàng chƣa thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát vốn
cho vay. Một bộ phận cán bộ ngân hàng không tuân thủ đúng quy định của
pháp luật về cho vay dẫn đến vốn vay sử dụng không đúng mục đích (cho vay
tín dụng đen), sai về thủ tục pháp lý (sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất giả để vay vốn), nhiều doanh nghiệp khó khăn về hoạt động sản xuất, kinh
doanh và khả năng tài chính trong thời gian dài nhƣng chậm phát hiện, nên
chƣa có biện pháp kịp thời để thu hồi nợ.
Thứ ba, các ngân hàng chƣa áp dụng đầy đủ các chuẩn mực phân loại nợ
theo tiêu chuẩn quốc tế, có thể tạo tâm lý xem nhẹ nợ xấu và các rủi ro kèm
theo. Có rất nhiều dấu hiệu về tình trạng chƣa thực sự bền vững của các

3

Xem thêm: Võ Trí Thành và Lê Xuân Sang – Tái cấu trúc hệ thống tài chính Việt Nam: Vấn đề và định
hƣớng những giải pháp cơ bản, tr 6.


11

NHTM. Sự mất cân đối giữa huy động vốn chủ yếu là ngắn hạn (80% tổng
nguồn vốn) và cho vay chủ yếu là trung và dài hạn (70% tổng dƣ nợ) là đặc
điểm rủi ro của các NHTM Việt Nam hiện nay. Các ngân hàng cần xem lại
việc cơ cấu kỳ hạn và cơ cấu đồng tiền trong bảng cân đối tài chính. Tình
trạng sai lệch quá mức về cơ cấu thời hạn có thể thấy ở việc nguồn vốn huy
động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm một tỷ trọng rất lớn, khoảng 75%
song đƣợc các NHTM sử dụng một tỷ trọng quá mức để cho vay trung và dài
hạn. Tình trạng này gây rủi ro lớn, đặc biệt khi nguồn vốn cho vay các dự án
có hiệu quả thấp, thiếu sự thẩm định cần thiết. Mức sai lệch về cơ cấu đồng
tiền rất nhạy cảm với biến động tỷ giá, lãi suất, nhất là trong bối cảnh tình

trạng đô la hóa cao và tài khoản vốn đƣợc tự do hóa dần ở Việt Nam.
Thứ tư, tình trạng sở hữu chéo – ngân hàng này là chủ sở hữu (cổ đông)
của ngân hàng kia và ngƣợc lại, hoặc một cổ đông có các cổ phần tại nhiều
ngân hàng, tập đoàn kinh tế khác nhau đã tạo ra các nhóm lợi ích có thể chi
phối thị trƣờng, làm lu mờ tính minh bạch về quyền tài sản và quyền sở hữu
trong cầu trúc tài chính của ngân hàng. Điều này đã cản trở quá trình giám sát,
tái cơ cấu ngân hàng, đồng thời cũng gây ra những cơn biến động mạnh về giá
cả trên thị trƣờng chứng khoán.
Thứ năm, nhiều ngân hàng có năng lực tài chính hạn chế, năng lực quản
trị rủi ro yếu kém, có nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào tín dụng nên trong quá
trình hoạt động khó tránh khỏi những rủi ro thanh khoản. Công tác quản trị,
điều hành hoạt động tín dụng của một số NHTM còn bất cập, nhƣ: Công tác
thẩm định, quyết định cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay, giám sát tình hình
sản xuất kinh doanh của khách hàng chƣa tuân thủ đúng quy định; công tác
phân tích, đánh giá, phân loại khách hàng, lĩnh vực kinh doanh chƣa sát với
thị trƣờng để có biện pháp ứng xử kịp thời; việc đánh giá tài sản đảm bảo cao
hơn giá trị thực tế, nhận tài sản đảm bảo không đầy đủ tính pháp lý, có tranh
chấp dẫn tới tình trạng khó xử lý, phát mại hoặc phát mại đƣợc thì giá trị thu


12

hồi thấp. Một số NHTM áp dụng chiến lƣợc tăng trƣởng tín dụng nhanh trong
khi năng lực quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế và chậm đƣợc cải thiện.
Thứ sáu, do trình độ chuyên môn nghiệp vụ về năng lực quản lý, điều
hành, quản trị rủi ro và đạo đức nghề nghiệp của những ngƣời lãnh đạo ngân
hàng cũng nhƣ các nhân viên ngân hàng còn ở mức độ thấp. Theo nhận định
của nhiều chuyên gia thì một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu
của ngân hàng là do chính sự yếu kém về năng lực quản lý, điều hành cũng
nhƣ chuyên môn nghiệp vụ và sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp của những

ngƣời lãnh đạo và nhân viên ngân hàng gây ra.
Khi đánh giá về các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong hoạt động cho
vay của ngân hàng Việt Nam hiện nay, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh cho rằng:
“Theo tôi th ngân hàng lãnh ít nhất là 50

trách nhiệm trong vấn đề nợ xấu

này, trong nhiều trường hợp có l là trên 50 . T nh trạng ngân hàng phải
cấp tín dụng theo mệnh lệnh của một ai đó, đối với các ngân hàng thuộc
thành phần kinh t nhà nước là không ít.

h ng ta đều bi t, là Vinashin đã

nhận được rất nhiều các khoản vay mà hồ sơ c ng như dự án h t sức là sơ
sài. hông có sự giải thích r ràng về hiệu quả, không có quá tr nh thẩm định
khách quan”.
Nguyên nhân khách quan
Các nguyên nhân khách quan đƣợc hiểu là nguyên nhân tác động từ bên
ngoài mỗi ngân hàng và hệ thống ngân hàng. Các nguyên nhân này có thể bắt
nguồn từ chủ thể quản lý vĩ mô là Nhà nƣớc, hoặc từ phía khách hàng vay vốn
là tổ chức, cá nhân. Cụ thể nhƣ sau:
Nhóm nguyên nhân từ phía chủ thể quản lý vĩ mô là Nhà nước
Một là, do sự không hợp lý trong việc ban hành và tổ chức thực thi chính
sách vĩ mô, các quy định pháp luật của Nhà nƣớc liên quan đến lĩnh vực kinh
doanh ngân hàng. Chỉ tính riêng trong 3 năm từ năm 2008 đến 2010 cũng cho


13

thấy sự thiếu bền vững trong các chính sách vĩ mô của Nhà nƣớc liên quan

đến lĩnh vực ngân hàng. Chẳng hạn nhƣ:
- Năm 2008 chính sách của Chính phủ diễn biến trái chiều nhau khi đầu
năm tập trung chống lạm phát, cuối năm chuyển sang chống suy giảm kinh tế
do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nổ
ra từ cuối năm 2008;
- Năm 2009: Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng bằng việc
tung ra các gói kích cầu nhằm nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định
kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội;
- Năm 2010: Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15/1/2010 nêu rõ mục tiêu
kinh tế vĩ mô là: Phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trƣởng kinh tế đạt cao hơn
năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng;
ngăn chặn lạm phát cao trở lại. Do lạm phát quý I/2010 tăng cao, vì vậy Nghị
quyết số 18/NQ-CP ngày 6/4/2010 xác định Chính phủ tập trung nỗ lực huy
động các nguồn lực toàn xã hội để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để
lạm phát cao, đạt tốc độ tăng trƣởng khoảng 6,5% trong năm 2010. Từ tháng
4 - 8/2010, lạm phát đƣợc kiềm chế ở mức thấp, vì vậy trong điều hành vĩ mô
xuất hiện một số dấu hiệu xem nhẹ nguy cơ lạm phát cao. Diễn biến trên cho
thấy tính ổn định và bền vững của nền kinh tế Việt Nam rất thấp, dễ bị tổn
thƣơng bởi các cú sốc không chỉ bên ngoài mà ngay cả bên trong.
Hai là, do hệ thống quản lý kinh tế của Việt Nam chƣa tƣơng thích với
một nền kinh tế hội nhập toàn cầu. Hiện nay, ba bộ và cơ quan ngang bộ có
trách nhiệm hoạch định chính sách vĩ mô là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu
tƣ (Bộ KHĐT) và NHNN chƣa phối hợp với nhau một cách hiệu quả. Bộ
KHĐT thuần túy làm công việc tổng hợp các kế hoạch đầu tƣ mà không lƣu ý
một cách thích đáng tới tình hình vĩ mô chung của nền kinh tế. Đối với Bộ Tài
chính, chỉ theo dõi đƣợc vốn cho các dự án đã đƣợc phê duyệt và chỉ kiểm
soát đƣợc (một phần) các khoản chi thƣờng xuyên. Tuy nhiên, với rất nhiều


14


các khoản chi xuất hiện dƣới dạng đầu tƣ, đồng thời tỷ lệ chi ngoài ngân sách
hiện đang rất cao, có thể nói là Bộ Tài chính chƣa kiểm soát tốt chính sách
ngân sách. Về phía NHNN, cơ quan này không đƣợc phép quyết định lƣợng
cung tiền và cung tín dụng nhƣ “thiên chức” vốn có của các ngân hàng trung
ƣơng trên thế giới mà chỉ có thể sử dụng một số ít các công cụ (nhƣ tỷ lệ dự
trữ bắt buộc và các quyết định và chỉ thị có tính hành chính) không thực sự
hữu hiệu khi phải đối diện với nguy cơ lạm phát. Kết quả là lãi suất thấp hơn
mức lạm phát khiến cho lãi suất thực trở nên âm. Lãi suất thực âm làm cho
các tài sản tài chính trở nên kém hấp dẫn và do vậy khuyến khích các nhà đầu
tƣ chuyển từ tài sản tài chính sang bất động sản và vàng.
Mặt khác, các cơ quan hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô chƣa có sự
định hƣớng nguồn vốn tín dụng tới những khu vực kinh tế thực sự có hiệu quả
trung và dài hạn, thả lỏng tăng trƣởng tín dụng để các NHTM trở thành trung
gian tích cực của việc đầu cơ lợi ích ngắn hạn nhƣ chứng khoán, bất động sản,
ngoại tệ mạnh đã tạo ra cơn sốt thị trƣờng ảo và gia tăng nợ xấu đáng kể.
Ba là, CSTT đƣợc nới lỏng một thời gian dài nhằm thúc đẩy tăng trƣởng
nhanh, làm gia tăng áp lực lạm phát. Điều này phần nào xuất phát từ sự nhận
thức không đầy đủ về những đánh đổi giữa mục tiêu tăng trƣởng và ổn định
kinh tế vĩ mô. Đây cũng là lý do gia tăng đầu tƣ, nhập khẩu, lạm phát và nợ
xấu. Công tác điều hành CSTT quốc gia chƣa nhận đƣợc sự hỗ trợ của hệ
thống thông tin, đặc biệt là hệ thống số liệu thống kê cho phân tích và dự báo
diễn biến kinh tế thế giới và trong nƣớc. Mặt khác, khả năng xử lý thông tin
của ngành Ngân hàng vẫn còn thiếu và yếu, khiến những đánh giá, nhận định
dựa trên những thông tin đã có của hệ thống ngân hàng (về tăng trƣởng tín
dụng, lãi suất…) chƣa có nhiều ý nghĩa cho công tác điều hành CSTT.


15


Bốn là, sự giám sát của các cơ quan quản lý chức năng chƣa chặt chẽ.4
Bên cạnh những rủi ro bởi chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của nhà
nƣớc thì việc giám sát tài chính là một yếu tố mang tính sống còn đối với sự
phát triển kinh tế nhƣng khâu này vẫn còn nhiều bất cập. Các cơ quan giám
sát nhƣ NHNN, Ủy ban Chứng khoán nhà nƣớc, giám sát bảo hiểm vừa thực
hiện chức năng cấp phép, vừa ban hành cơ chế - chính sách, vừa thực hiện
chức năng hƣớng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế chính sách và kiêm luôn vai
trò kiểm tra, thạnh tra giám sát hoạt động của các định chế tài chính. Điều này
dễ dẫn tới xung đột về lợi ích, hiệu quả và hiệu lực giám sát không cao. Đặc
biệt, hiện vẫn chƣa có một cơ quan giám sát tài chính vĩ mô có đủ thẩm quyền
và năng lực bộ máy để có thể cảnh báo, ngăn ngừa và xử lý hữu hiệu các tài
rủi ro của hệ thống tài chính đất nƣớc.
Việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro, giám sát an toàn vĩ mô còn yếu
kém; chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ. Giám sát vẫn chƣa bao quát đƣợc
hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các tập đoàn kinh tế, tài chính xuyên quốc
gia. Giám sát các rủi ro sở hữu chéo (giữa các Ngân hàng, các định chế tài
chính, tập đoàn và tổng công ty) yếu do thiếu minh bạch, công khai, đặc biệt
thiếu sự phối kết hợp, liên thông trong giám sát tài chính.
Hiện cũng còn thiếu khuyết các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ
mô và giám sát an toàn vi mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro. Các mô
hình phân tích định lƣợng, dự báo, kiểm định nhƣ (mô hình cảnh báo khủng
hoảng, kiểm định khả năng chịu đựng các cú sốc tài chính – tiền tệ), giá trị có
thể tổn thất cho cả hệ thống tài chính và cho từng định chế tài chính. Điều
này khiến việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn nhƣ tiêu chuẩn nợ xấu không
mang lại kết quả nhƣ mong muốn, gây ra một số khó khăn khi thực hiện giám
sát các tổ chức tài chính quốc tế có hoạt động tại Việt Nam. Bản thân các cơ
4

Xem thêm: Võ Trí Thành và Lê Xuân Sang – Tái cấu trúc hệ thống tài chính Việt Nam: Vấn đề và định
hƣớng những giải pháp cơ bản, tr. 4, 5.



16

quan thanh tra giám sát còn hạn chế, trên cả phƣơng diện kỹ thuật lẫn nguồn
nhân lực. Đến nay, công nghệ thu thập, xử lý thông tin để phục vụ cho hoạt
động giám sát từ xa còn lạc hậu. Ngoài ra, hoạt động giám sát các định chế tài
chính ngày càng trở nên khó khăn do sự gia tăng các sáng tạo tài chính và
công nghệ thông tin - truyền thông, tự do hóa kinh tế - tài chính, các bộ phận
của hệ thống tài chính ngày càng đan xen chặt chẽ và các Ngân hàng cũng
ngày trở nên đa năng, đa quốc gia. Điều này đòi hỏi các cơ quan giám sát phải
có tầm nhìn toàn cầu, khu vực và sự phối hợp chặt chẽ từ việc lập chiến lƣợc
phát triển tổng thể hệ thống tài chính, vừa hợp tác thƣờng xuyên trong việc
quản lý, xử lý những vấn đề của thị trƣờng và giám sát một cách có hiệu quả
các đối tƣợng tham gia và hoạt động đan xen trên thị trƣờng.
Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn
Một là, do khách hàng vay không coi trọng uy tín của mình trong quan
hệ hợp đồng, sẵn sàng vi phạm cam kết với ngân hàng khi có dấu hiệu khó
khăn về tài chính. Điều này đặc biệt hay xảy ra đối với khách hàng vay là cá
nhân, hộ gia đình hoặc tổ hợp tác, thậm chí là doanh nghiệp tƣ nhân.
Hai là, do khả năng quản trị yếu kém của khách hàng vay là chủ thể kinh
doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nƣớc. Hầu hết các
doanh nghiệp Việt Nam đều không đƣợc đào tạo đầy đủ, cơ bản kiến thức về
kinh tế thị trƣờng và quản trị doanh nghiệp. Sự yếu kém về quản trị thể hiện
trong quản trị nguồn vốn, quản trị kinh doanh, quản trị rủi ro và quản trị sự
thay đổi trong thị trƣờng hội nhập quốc tế hiện nay. Việc thiếu kiến thức, ít
kinh nghiệm và không có khả năng chịu đựng các va đập trong kinh doanh đã
dẫn đến hậu quả là gánh chịu rủi ro về tài chính nặng nề. Từ đó dẫn đến việc
không có khả năng trả nợ vốn vay cho ngân hàng.
Ba là, do khách hàng vay để kinh doanh và đầu tƣ dàn trải, không có sự

nghiên cứu bài bản, tầm nhìn hạn hẹp và hám lợi trƣớc mắt. Rất ít các doanh
nghiệp Việt biết rõ tầm nhìn và giới hạn của công ty để có một kế hoạch phát


17

triển lâu dài và bền vững. Phần lớn các doanh nghiệp thƣờng kinh doanh theo
vụ việc một cách chộp giật, lấy ngắn nuôi dài, đi tắt đón đầu… Các hợp đồng
kinh tế có đƣợc thƣờng dựa vào quan hệ và quen biết. Cách làm nhƣ vậy có
thể tạo hiệu ứng nhất thời nhƣng không có tính bền vững và làm cho doanh
nghiệp đi quá xa ra khỏi mục tiêu và dễ vƣớng vào khó khăn chung của bối
cảnh thực tế. Sự đầu tƣ vào những lĩnh vực không có sự hiểu biết kỹ, không
nghiên cứu thị trƣờng cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản hàng đầu
khiến tài chính doanh nghiệp đi đến chỗ kiệt quệ. Đơn cử nhƣ việc đầu tƣ vào
sàn chứng khoán, sàn vàng, bất động sản là những ví dụ sinh động nhất cho
việc đầu tƣ theo “hiệu ứng bầy cừu” của các doanh nghiệp Việt.
Với những yếu kém nội tại của Doanh nghiệp trong cuộc khủng hoảng
của kinh tế toàn cầu đã khiến cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn, chi phí đầu vào cao, hiệu quả kinh doanh kém
giảm khả năng về tài chính, nên chậm trả nợ ngân hàng. Thêm vào đó, sức
mua của thị trƣờng suy giảm, hàng hoá tồn kho lớn khó tiêu thụ, nguồn tiền
để trả nợ không thực hiện đƣợc theo kế hoạch xây dựng trong dự án, phƣơng
án vay vốn nên doanh nghiệp cũng không có khả năng trả nợ đúng hạn. Chƣa
kể đến một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh bị thua lỗ nhƣ: Bất động sản,
chứng khoán… và các công trình có nguồn vốn ngân sách bị đình, hoãn, giãn
tiến độ theo chủ trƣơng cắt giảm đầu tƣ công của Chính phủ, dẫn đến doanh
nghiệp xây dựng, kinh doanh bất động sản gặp khó khăn do đã vay vốn ngân
hàng để thi công mà không thu hồi đƣợc vốn. Tất cả những nguyên do trên
tạo nên tỷ trọng lớn dƣ nợ cho vay dựa vào tài sản thế chấp là bất động sản,
nay thị trƣờng bất động sản đóng băng khiến ngân hàng gặp khó khăn trong

việc xử lý tài sản để thu hồi nợ.
1.1.3. Tác hại của nợ xấu đối với ngân hàng và nền kinh tế - xã hội
Tác hại của nợ xấu đối với ngân hàng
Thứ nhất, nợ xấu càng lớn thì khả năng thu hồi các khoản nợ của ngân


18

hàng càng thấp. Do đó ngân hàng phải dùng vốn để trang trải cho các khoản
nợ xấu thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc xóa sổ
những khoản thất thoát này, ngân hàng có thể rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán cho ngƣời gửi tiền.
Thứ hai, nợ xấu làm giảm uy tín của Ngân hàng: Khi Ngân hàng xuất
hiện nhiều và gia tăng nợ xấu, điều đó đồng nghĩa với Chất lƣợng tín dụng
thấp, quá trình thẩm định hồ sơ, thẩm định khách hàng yếu kém, khả năng
thanh khoản giảm sút và sự an toàn tài chính của Ngân hàng luôn đặt trong
tình trạng báo động. Những biểu hiện trên đã gây mất lòng tin của khách
hàng, đối tác kinh doanh.
Thứ ba, nợ xấu làm giảm lợi nhuận và có khả năng khiến ngân hàng phá
sản: Gia tăng nợ xấu sẽ kéo theo việc ngân hàng phải tăng cƣờng sử dụng dự
phòng rủi ro cho các khoản nợ này khiến lợi nhuận giảm và ảnh hƣởng tới khả
năng thanh toán của ngân hàng. Điều này sẽ kéo theo rủi ro vỡ thanh khoản,
vỡ cơ cấu kỳ hạn của ngân hàng trong trƣờng hợp không thu hồi đƣợc nợ.
Ngoài ra, những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao thì cũng sẽ bị ảnh hƣởng
không nhỏ đến uy tín và danh tiếng, đồng thời, khi những ngân hàng này gặp
khó khăn nhất định thì khả năng xảy ra đổ vỡ cũng cao hơn những ngân hàng
khác. Và khi không đảm bảo đƣợc tính thanh khoản thì việc đối mặt với nguy
cơ phá sản chỉ là sớm muộn. Do những mối liên hệ trên thị trƣờng tài chính
nói chung và thị trƣờng vay mƣợn tiền giữa các ngân hàng nói riêng, khi bất
kỳ một ngân hàng nào gặp những rủi ro trên cũng đều có thể ảnh hƣởng tới cả

hệ thống.
Thứ tư, nợ xấu làm giảm khả năng hội nhập: Mở cửa và hội nhập là xu
thế tất yếu của một nền kinh tế thị trƣờng hiện đại. Khi mức độ tiền tệ hóa nền
kinh tế của các nƣớc ngày càng cao thì hoạt động của ngành tài chính nói
chung và của ngân hàng nói riêng càng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Ngân hàng không thể đứng ngoài cuộc, mà thậm chí còn phải đóng vai trò là


19

một trong những ngành tiên phong tham gia vào các quá trình hội nhập. Vì
vậy, ngân hàng phải nâng cao năng lực cạnh tranh, lành mạnh hóa tài chính.
Bên cạnh các giải pháp nhƣ cơ cấu về tổ chức, về đội ngũ, về chất lƣợng dịch
vụ và về vốn. Tuy nhiên, để làm đƣợc điều này thì xử lý nợ xấu là một trong
những giải pháp có tính chất quyết định. Khi nợ xấu còn tồn tại cũng đồng
nghĩa với chất lƣợng tín dụng giảm sút, một bộ phận không có khả năng thanh
khoản, làm thất thoát một khối lƣợng vốn đáng kể và từ đó sẽ khiến suy giảm
lòng tin của khách hàng cũng nhƣ giảm khả năng cạnh tranh và hội nhập của
các ngân hàng với các đối tác nƣớc ngoài.
Tác hại của nợ xấu đối với nền kinh tế - xã hội
Một trong những vấn đề nan giải hiện nay của nền kinh tế là nợ xấu của
hệ thống ngân hàng đang ngày càng gia tăng. Nợ xấu đƣợc xem nhƣ “cục máu
đông” trong mạch máu của nền kinh tế. Giải quyết đƣợc nợ xấu thì mới có thể
khai thông bế tắc cho nền kinh tế, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy sự
phục hổi tăng trƣởng.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, nợ xấu có những tác động
chính ảnh hƣởng trực tiếp đến nền kinh tế và làm ảnh hƣởng đến hoạt động
của các Ngân hàng thƣơng mại nhƣ sau:
Một là, nợ xấu làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các
tổ chức tín dụng. Nợ xấu phát sinh cũng đồng nghĩa với một lƣợng vốn tƣơng

ứng không đƣợc quay vòng. Dòng tiền trong nền kinh tế không lƣu thông
đƣợc và hệ thống ngân hàng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản chi phí phát sinh
do nợ xấu là rất lớn;
Hai là, nợ xấu hạn chế khả năng mở rộng và tăng trƣởng tín dụng, khả
năng kinh doanh và khả năng đảm bảo quyền lợi ngƣời ngƣời tiền của các tổ
chức tín dụng. Nợ xấu ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và ảnh
hƣởng đến sự phát triển của nền kinh tế bởi khả năng khai thác và đáp ứng
vốn, dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.


20

Ba là, nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng tạo ra trào lƣu suy
thoái của nền kinh tế trong nƣớc, từ đó sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế quốc gia, xét trong mối tƣơng quan với các nền kinh tế khác trong
và ngoài khu vực.
1.2. Khái luận về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của xử lý nợ xấu trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn chứa đựng các rủi ro tiềm ẩn.
Thực tế cho thấy có nhiều trƣờng hợp khách hàng vay vốn nhƣng không có
tiền trả nợ hoặc không chủ động trả nợ khi đến hạn. Một số con nợ khác tuy
có tiền nhƣng vẫn muốn lợi dụng vốn ngân hàng mà tìm cách chây ỳ để chiếm
dụng vốn ngân hàng. Mặc dù đó là những hiện tƣợng không mong muốn
nhƣng là những tình huống mà Nhà nƣớc nói chung và các ngân hàng nói
riêng đều phải lƣờng trƣớc và đặt ra các phƣơng án xử lý những khoản nợ trên
để phần nào hạn chế tổn thất. Hoạt động này gọi là XLNX ngân hàng.
Trong khoa học pháp lý cũng nhƣ trong pháp luật thực định, không dễ để

tìm thấy một định nghĩa chính thức nào về “xử lý nợ xấu” trong hoạt động
cho vay của NHTM. Vì thế, việc xây dựng một khái niệm về xử lý nợ xấu
trong hoạt động cho vay của ngân hàng là điều rất khó khăn. Tuy vậy, qua
nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng, tác giả cho rằng
cần hiểu khái niệm “xử lý nợ xấu” trong hoạt động cho vay của NHTM theo
hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp để có cái nhìn đầy đủ hơn về bản chất của
vấn đề xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM.
Theo nghĩa rộng, xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM là
việc các chủ thể có liên quan (Nhà nƣớc và các NHTM) sử dụng kết hợp các
biện pháp vĩ mô và vi mô nhằm mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu của mỗi ngân


×