Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tài liệu Các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.02 KB, 18 trang )

CáC DịCH Vụ TIếT KIệM Tự NGUYệN

Trớc kia, các ngân hàng làng x yêu cầu tiết kiệm bắt buộc để các nhóm có thể xây dựng và
quản lý quỹ nhóm. Việc cho vay là dựa vào t cách của ngời đi vay chứ không phải là đợc
đảm bảo bằng tiền gửi. Tuy nhiên, thực tế là các ngân hàng làng x
1
phát hiện ra rằng các hệ
thống quản lý không thoả đáng và quyền sở hữu không rõ ràng đ dẫn đến việc quản lý không
tốt tiền gửi. Khi các tổ chức này quan tâm hơn đến khả năng tài chính, họ nhận thấy các quỹ
nhóm là một nguồn vốn vay quan trọng cha đợc khai thác, do đó họ đ tăng cờng kiểm
soát tiết kiệm bắt buộc. Một hớng mới đối với các NHLX là quay trở lại với đặc tính ban đầu
của mình, với việc cho vay dựa vào t cách của ngời vay và tiết kiệm để phục vụ khách hàng.
Huy động tiết kiệm tự nguyện và cho vay lại phức tạp hơn nhiều so với quản lý tiết kiệm bắt
buộc và tín dụng. Các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện có thể có rất nhiều giao dịch không lờng
trớc đợc. Những giao dịch nh vậy đòi hỏi việc kiểm soát nội bộ, hệ thống thông tin, quản
lý khả năng tiền mặt và tài sản nợ-có phức tạp hơn. Những hệ thống khắt khe hơn này lại đòi
hỏi một đội ngũ nhân viên có kỹ năng hơn. Tuy nhiên các giao dịch tiết kiệm với khoản tiền
nhỏ thờng không tạo ra đợc mấy thu nhập để trang trải cho các yêu cầu lớn hơn này. Đối với
các ngân hàng làng x, việc trang trải các chi phí của các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện dành cho
những ngời gửi ít tiền có thể khó khăn đến mức một số đ tuyên bố điều đó không thể thực
hiện đợc.
Hầu hết các ngân hàng làng x (NHLX) gần nh không có kinh nghiệm gì về các dịch vụ tiết
kiệm tự nguyện. Ngành tài chính vi mô mới chỉ bắt đầu phát triển các bí quyết kỹ thuật để
cung cấp những dịch vụ này. Chơng này cung cấp các tài liệu về những kinh nghiệm ban đầu
trong lĩnh vực tiết kiệm (TK) tự nguyện bằng cách:
1. Xem xét các dịch vụ TK bắt buộc theo quan điểm của cả khách hàng và NHLX;
2. Xem xét các loại hình dịch vụ TK tự nguyện khác nhau;
3. Xác định các tiêu chí mà NHLX cần phải đáp ứng trớc khi cung cấp các dịch vụ tiết
kiệm tự nguyện, và xác định các phơng án thay thế nếu các NH trên không đáp ứng
đợc các tiêu chí đó;
4. Thăm dò các thách thức mà những NHLX mong muốn cung cấp dịch vụ TK tự nguyện


cho thành viên phải đối mặt, và
5. Đánh giá các lựa chọn để cung cấp dịch vụ đến cho những ngời không phải là thành
viên của tổ chức.
Mục đích của chơng này là xây dựng một cơ sở kiến thức cho các NHLX tiên phong bắt tay
vào việc phát triển những dịch vụ mới quan trọng này.

7.1 Nói gì về tiết kiệm bắt buộc?
Việc cho vay theo nhóm gắn liền với các dịch vụ tiết kiệm bắt buộc. Ngời đi vay bắt buộc
phải gửi TK một phần tiền vay của mình mỗi lần thanh toán nợ. Số tiền đợc vay có thể sẽ
phụ thuộc vào số tiền tiết kiệm của khách hàng vào đầu chu kỳ vay. Việc tiếp cận tiền tiết
kiệm thay đổi tuỳ theo tổ chức. Một số tổ chức cho phép thành viên rút tiền vào cuối chu kỳ


1
Tài liệu này trích từ cuốn "New Directions in Poverty Finance: Village Banking Revisited" (tạm dịch là "Những
hớng mới trong tài chính cho ngời nghèo: Xem xét lại các ngân hàng làng x"), vì vậy luôn đề cập đến các
ngân hàng làng x. Tuy nhiên, những nội dung trong tài liệu này cũng có thể áp dụng cho hầu hết các tổ chức tài
chính vi mô khác -ND
vay. Một số khác chỉ cho phép rút tiền khi thành viên rời nhóm. Trong nhiều trờng hợp các
cá nhân có thể rút tiền tiết kiệm bắt buộc dới hình thức vay lại vốn TK. Nói chung, cơ hội tiết
kiệm chỉ dành cho các thành viên và đó phải là những ngời vay vốn.
NHLX có thể gắn TK bắt buộc vào tín dụng vì họ tin rằng các dịch vụ tiết kiệm bắt buộc :
- Làm cho các khách hàng phải tuân thủ các kỷ luật tiết kiệm (tạo thói quen tiết kiệm)
- Bảo vệ các khoản tiết kiệm của khách hàng không để chi tiêu vào những việc kém
quan trọng,
- Có chức năng làm tài sản thế chấp cho các khách hàng, những ngời thông thờng chỉ
có tín chấp (nhóm có thể sử dụng những khoản tiết kiệm này để thanh toán khoản vay
của mình nếu một thành viên không thể thực hiện đợc nghĩa vụ trả nợ)
- Là một nguồn vốn quan trọng để cho vay; ví dụ nh, trớc khi đa ra dịch vụ tiết
kiệm tự nguyện, Hiệp hội vì Phát triển X hội (ASA) đ cung cấp tài chính cho 40%

danh mục đầu t của mình bằng các khoản tiết kiệm bắt buộc.
Tuy nhiên, đối với khách hàng các dịch vụ này cũng có những mặt hạn chế sau đây:
Việc rút tiền hạn chế hầu nh không thể đáp ứng đợc nhu cầu của họ. Khách hàng muốn
rút tiền khi có tai hoạ xảy đến hay do cơ hội đầu t phát sinh. Thậm chí ngay cả cho các nhu
cầu lờng trớc đợc nh đóng học phí, thì cuối chu kỳ cho vay (thời điểm khách hàng có thể
đợc rút TK bắt buộc) khó có thể trùng vói thời điểm họ cần tiền.
Việc gắn tiết kiệm với tín dụng thờng loại trừ ngời nghèo. Những ngời thực sự nghèo
không thể có đợc một nguồn thu nhập đáng tin cậy để đóng tiết kiệm cũng nh thanh toán nợ
đều đặn. Không muốn liều lĩnh vay tiền, họ thích tiết kiệm từng đợt và có thể rút đợc các
khoản tiền này ra hơn.
Tiết kiệm bắt buộc đợc coi là chi phí cho việc vay mợn chứ không phải là một dịch vụ.
Trong nhiều chơng trình, tỷ lệ phần trăm của khoản tiết kiệm bắt buộc tăng lên theo số tiền
vay. Khách hàng không thích thấy một khoản tiền ngày càng tăng của họ nằm chết trong các
tài khoản tiền gửi mà họ không đợc rút ra, điều này cũng làm tăng tỷ lệ li xuất thực lên. Họ
cũng có thể mất phần nào khoản tiền tiết kiệm của mình nếu có một thành viên khác trong
nhóm không trả nợ.
Các khách hàng có thể mất khả năng tiếp cận tín dụng khi hoàn cảnh đòi hỏi họ phải rút
tiền tiết kiệm ra. Rút tiền tiết kiệm chỉ có thể thực hiện đợc vói cách chấm dứt t cách thành
viên và đồng thời vói điều đó là mất quyền vay.
Đối với các tổ chức, những bất lợi này có thể biến thành những ảnh hởng tiêu cực không dự
kiến trớc: hạn chế tiếp cận khách hàng, đặc biệt là không đến đợc với những ngời rất
nghèo; bình ổn các khoản vay mà không gắn đến khả năng trả nợ của khách hàng và mất
khách hàng. Sự không hài lòng của khách hàng với các khoản tiết kiệm không đợc rút ra có
thể bộc lộ bằng nhiều cách. Ví dụ, vào năm 1995, các thành viên của Grameen Bank ở Vùng
Tangail đ biểu tình đòi rút các khoản tiết kiệm bị giữ lại của họ ra. Cũng trong năm đó, một
nghiên cứu phát hiện ra rằng gần 57% thành viên của BRAC (trớc kia là Uỷ ban Phát triển
Nông thôn của Bangladesh) đ ra nhóm do họ muốn rút tiền trong lúc khẩn cấp. (Wright
2000b)
Hơn nữa, còn có nhiều cách khác để các NHLX có đợc những lợi ích tơng đơng với những
lợi ích của TK bắt buộc. Có rất nhiều ví dụ về cho vay vốn nhỏ không cần đến tiết kiệm bắt

buộc mà vẫn đạt đợc chất lợng cho vay tuyệt vời, điều đó đ cho thấy việc đánh giá t cách
ngời vay, áp lực từ những ngời vay khác, và khả năng đợc vay tiếp các khoản vay sau có
thể thay thế cho nhu cầu về thế chấp đối với các khoản vay nhỏ.
Lập luận cho rằng NHLX cần thu TK bắt buộc để lấy vốn cho vay có thể không rõ ràng nh
ngời ta tởng. BURO Tangail (BT) một tổ chức phi chính phủ ở Bangladesh (NGO), đ phát
hiện ra rằng, chỉ trong vòng một năm chuyển từ tiết kiệm bắt buộc sang tiết kiệm tự
nguyện, khách hàng đ tiết kiệm bằng hoặc thậm chí nhiều hơn, và tổ chức thì không mắc
phải một vấn đề nào về chất lợng các khoản cho vay. Nếu điều đó là điển hình thì chính tiết
kiệm tự nguyện chứ không phải là tiết kiệm bắt buộc có thể cung cấp tài chính cho các khoản
cho vay. Tuy vậy, vì việc quản lý TK bắt buộc có thể tốn kém ít hơn nhiều so với quản lý TK
tự nguyện, tiết kiệm bắt buộc có thể có lợi hơn về mặt tài chính (xem phần 7.3 và hộp 7.4). Bất
luận thế nào đi chăng nữa, các khoản tiết kiệm bắt buộc cũng chỉ tài trợ đợc một phần danh
mục cho vay, nên vẫn cần huy động thêm tiền từ các nguồn khác.
Bảng 7.1 dới đây trình bày tóm tắt đánh giá về những u điểm và nhợc điểm của tiết kiệm
bắt buộc, cho thấy hầu hết u điểm thì các tổ chức hởng còn khách hàng thì gánh chịu hầu
hết các nhwợc điểm. Thực tế, rất nhiều u điểm đối với cả khách hàng cũng nh NHLX, đều
có thể đạt đuợc thông qua các loại hình tiết kiệm tự nguyện nào đó, nh sẽ đợc giải thích ở
phần sau. Tuy nhiên đối với các NHLX nhằm vào ngời nghèo thì chi phí cao của một số sản
phẩm tiết kiệm có thể là một thách thức lớn.

Bảng 7-1
Đánh giá TK bắt buộc

Ưu điểm Nhợc điểm
Khách hàng
Kỷ luật TK
Bảo vệ các khoản tiền tiết
kiệm, không dùng vào các
mục đích không quan trọng
2


Không đợc rút tiết kiệm khi cần
thiết
Không đợc tiết kiệm nếu không
muốn vay; có thể không đến đợc
với những ngời rất nghèo không
dám vay.
Rút tiền tiết kiệm có thể sẽ mất
quyền vay.
Tổ chức
Nguồn vốn ổn định, không có
tính thanh khoản.
Đảm bảo cho khách hàng vay
mà không cần tài sản thế chấp
truyền thống
ít tốn kém hơn các dịch vụ
tiết kiệm có tính thanh khoản.

Khách hàng có thể sẽ bỏ không
tham gia vào tổ chức nữa để lấy
tiền tiết kiệm
Khách hàng không vay các khoản
vay lớn hơn vì họ muốn tránh
tăng tỷ lệ li suất thực tiễn.





2

Ưu điểm này cũng có thể đạt đợc với tiết kiệm tự nguyện theo hợp đồng
7.2 Thế nào là các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện?
Tự nguyện có nghĩa là ngời tiết kiệm tự quyết định cả số lợng tiền cũng nh kỳ hạn gửi
và rút tiền. Các dich vụ tiết kiệm tự nguyện đợc chia thành 3 nhóm:
1. TK không kỳ hạn. Trong một tài khoản tiền gửi vng lai -còn đợc gọi là tài khoản tiết
kiệm thông thờng hay tiết kiệm tự do- số tiền gửi và kế hoạch gửi hay rút tiền không
đợc xác định trớc. Hai dạng khác nhau của tiết kiệm không kỳ hạn là (1) một tài khoản
hoàn toàn vng lai, cho phép các khách hàng gửi tiền và rút tiền lúc nào họ muốn cũng
đợc và (2) một tài khoản bán vãng lai, hạn chế số lần giao dịch, nh chỉ đợc rút tiền
hai lần mỗi tháng.
Trong khi, xét về tổng thể, các tài khoản này có xu hớng rất ổn định, thì chúng lại khá
tốn kém cho các tổ chức, bởi các chi phí hành chính cao đ làm lu mờ đi lợi thế chi phí tài
chính thấp. Tuy nhiên, nếu chỉ cung cấp đợc một sản phẩm tiết kiệm duy nhất, thì TK
không kỳ hạn cũng vẫn cứ luôn là sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của hầu hết các
khách hàng (xem Hộp 7-1).
2. Tiết kiệm theo hợp đồng: Với tiết kiệm theo hợp đồng, còn đợc gọi là TK tích luỹ
(hay TK gửi góp -ND) có kỳ hạn, khách hàng đồng ý đều đặn gửi một số tiền nhất định
trong một khoảng thời gian nhất định. Khi đến hạn, khách hàng có thể rút toàn bộ số tiền
cộng với li. Rút tiền sớm có thể sẽ bị cấm hoặc sẽ bị phạt.
Loại hình sản phẩm này rất thờng thấy trong lĩnh vực tài chính không chính thức ở một
số khu vực. Ví dụ nh ở Ghana, những ngời đi thu tiền (susu collector) rất đắt khách. Họ
đi thu tiền tiết kiệm hàng ngày của những ngời buôn bán nhỏ, dân chài, nông dân, và thợ
thủ công. Khách hàng, đa số là phụ nữ, gửi một khoản tiền nhỏ giống hệt nhau đều đặn
trong 31 ngày. Vào cuối tháng, họ đợc nhận lại khoản tiền gửi của 30 ngày, phần còn lại
trả cho ngời đi thu tiền coi nh phí dịch vụ. Nh vậy họ phải trả phí ở mức 39 %/năm để
đợc tiết kiệm.
Thông thờng, các tổ chức tài chính vi mô (TCTCVMs ) đa ra một loạt các điều khoản có
giới hạn để khách hàng lựa chọn; ví dụ nh, gửi tiết kiệm hàng tuần với mức gửi là một bội
số của $2 (ở Việt Nam có thể quy định các mức gửi chẵn đến 500 đồng, 1000 đồng, 5000
đồng v.v -ND), kỳ hạn 3, 6, 12 tháng. Một tài khoản TK tích luỹ có kỳ hạn có thể đợc

thiết kế phù hợp với các sự kiện nhất định, nh TK để trả tiền học phí có thể rút vào đầu
học kỳ. Nhìn bề ngoài thì tiết kiệm theo hợp đồng có vẻ nh rất giống với tiết kiệm bắt
buộc.
Tuy nhiên đối với khách hàng thì các điểm khác nhau của tiết kiệm theo hợp đồng và tiết
kiệm bắt buộc là rất rõ ràng. Tiết kiệm theo hợp đồng cho phép khách hàng xác định
khoản tiền tiết kiệm và kỳ hạn lĩnh tiết kiệm dựa trên khả năng và mong muốn tiết kiệm
của họ. Nói tóm lại tiết kiệm theo hợp đồng là vì khách hàng.
3. Các sản phẩm tiết kiệm có kỳ hạn. Khi gửi TK có kỳ hạn, ví dụ một giấy chứng nhận
gửi tiền (CD), khách hàng có thể gửi một khoản tiền và hứa không đụng đến nó trong một
khoảng thời gian xác định. Cũng nh với các sản phẩm theo hợp đồng, tổ chức đa ra một
loạt các điều kiện để khách hàng có thể lựa chọn. Các khoản tiết kiệm có kỳ hạn thờng
trả li suất cao nhất bởi vì chúng cần có lợng giao dịch ít nhất.
Thờng thì các khách hàng có thu nhập thấp không có nhu cầu về sản phẩm này vì nó đòi
hỏi phải gửi một khoản tiền khá lớn, mặc dù TK có kỳ hạn có thể thích hợp với luồng tiền
mặt của nông dân. Nói chung, sản phẩm này phù hợp hơn với nhũng tổ chức gửi tiền và
I. Các tài
khoản tự do
sản phẩm tiết
kiệm khó nhất
và tốn kém
nhât có lẽ
lại phù hợp
nhất với nhu
cầu của một
lợng khách
hàng lớn nhất

Các tài khoản
tiền gửi có kỳ
hạn có vẻ nh

khó đến với
ngời nghèo
hơn là các tài
khoản tiết
kiệm tự do và
theo hợp đồng



















những cá nhân không thật nghèo nếu NHLX đợc chuẩn bị kỹ lỡng để cung cấp các dịch
vụ khác nhau cho các phân đoạn thị trờng khác nhau. Nếu NHLX thu hút đợc nhiều
ngời gửi tiền hơn thì các khoản tiền gửi có kỳ hạn có thể là một cách làm có li, mặc dù
không ổn định, để cung cấp tài chính cho các khoản cho vay.
Các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện có xu hớng đợc ngời nghèo đánh giá cao (xem Bảng 7-2).

Các dịch vụ này đặc biệt quan trọng đối với các nhóm dễ bị tổn thơng nhất, những ngời
không có nguồn thu nhập đáng tin cậy để tận dụng nguồn tín dụng theo nhóm. Đây là các lý
do chính để các NHLX phát triển các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện cho cả thành viên lẫn những
đối tợng không phải là thành viên. Liệu họ làm nh vậy có phải là thông minh không? Mục
tiếp theo sẽ giải đáp câu hỏi quan trọng này.

7.3 NHLX có nên làm trung gian cung cấp các cơ hội tiết kiệm
không?
Vai trò trung gian tài chính- huy động tiết kiệm để cho vay không thích hợp với nhiều
NHLX. Trong nhiều bối cảnh, việc NHLX huy động tiền gửi là trái pháp luật. Thậm chí nếu
không trái pháp luật, nhiều tổ chức cũng không có năng lực để huy động vốn. Giống với việc
ngời nghèo đi vay, làm trung gian là một công việc chứa nhiều rủi ro và đầy khắt khe. Nếu
một NHLX quản lý vốn cho vay không tốt, thì các nguồn lực của nhiều nhà tài trợ hoặc các tổ
chức tài chính sẽ gặp rủi ro. Tuy nhiên, nếu cũng chính tổ chức này vừa huy động và sau đó
cho vay các khoản tiền gửi thì nó sẽ huỷ hoại khoản tiết kiệm của ngời nghèo. Nếu tổ chức
chỉ huy động tiết kiệm của thành viên, mà thờng thì họ cũng là những ngời vay, thì rủi ro ít
nghiêm trọng hơn. Dù sao đi nữa, các NHLX lựa chọn việc huy động tiết kiệm để cho vay cần
có năng lực bên trong và môi trờng bên ngoài đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi này.
(xem Hộp 7-2)

Hộp 7.1
Ng-ời nghèo muốn gì nhất ở một dịch vụ tiết kiệm?

Đối với mọi nhu cầu tiết kiệm, ng-ời nghèo cần các dịch vụ tiết kiệm
Tiện lợi -gần nhà, nhanh chóng, và đ-ợc cung cấp vào những giờ
thuận tiện
An toàn hơn so với các lựa chọn tiện lợi khác có cùng điều kiện.
Đối với các nhu cầu tiết kiệm không biết tr-ớc, ng-ời nghèo có xu
h-ớng thích
Tiết kiệm tự nguyện, với cơ hội th-ờng xuyên gửi đ-ợc các món

tiền nhỏ và không cố định.
Tiếp cận không hạn chế đối với khoản tiền TK, nghĩa là không
giới hạn số lần rút tiền và không cần phải báo tr-ớc.
Tuy nhiên, đối với các nhu cầu có thể dự đoán tr-ớc, ng-ời nghèo có
thể thích việc tiếp cận hạn chế và thậm chí thích gửi góp đều đặn một
khoản tiền cố định hơn.
Đối với tất cả các nhu cầu tiết kiệm, họ quan tâm đến


Lãi suất cạnh tranh cao so với các dịch vụ thay thế t-ơng đ-ơng

Huy động tiền
gửi của quần
chúng để cho
vay tiếp đòi hỏi
một tổ chức
phải chuyển đổi
vai trò từ ngời
cho vay thành
một trung gian
tài chính. Đợc
giao phó tiết
kiệm của ngời
nghèo là một
trách nhiệm to
lớn đối với các
NHLX

Bảng 7.2
Lựa chọn sản phẩm nhìn từ phía khách hàng và từ phía tổ chức



Quan điểm của
khách hàng
Quan điểm về khả
năng tài chính
Quan điểm về năng
lực quản lý
TK không
kỳ hạn
Dùng vào các
trờng hợp khẩn
cấp hay các cơ
hội không dự tính
trớc, dùng để
bình ổn chi tiêu
bằng cách giảm
tính thất thờng
của dòng thu
nhập, hay để tích
trũ tiền mặt.
Có tổng số d lớn
mặc dù số d trung
bình tơng đối
nhỏ.
Lợi nhuận thấp
hơn do chí phí tài
chính thấp nhng
chi phí hoạt động
cao

Tơng đối ổn định

Yêu cầu lớn về đội
ngũ nhân viên, hệ
thống thông tin
quản lý, và kiểm
soát nội bộ do có
rất nhiều tài khoản
với tần suất giao
dịch lớn và không
đều
Cần quan tâm đến
việc quản lý khả
năng thanh khoản.
TK theo hợp
đồng
Dùng cho các
nhu cầu đ đợc
xác định trớc
nh đóng tiền
học phí.
Tăng tính kỷ luật
trong tiết kiệm
Có li cao hơn
Vốn dài hạn hơn
Số tiền trên một tài
khoản lớn hơn
Lợi nhuận cao
hơn: chi phí hoạt
động thấp hơn, dù

chi phí tài chính
cao hơn
Có thể không ổn
định
Có thể đoán trớc
đuợc dễ hơn
Yêu cầu về hành
chính ít hơn
Cần quan tâm đến
việc quản lý khả
năng thanh khoản.
TK có kỳ
hạn
Dành cho nhu
cầu đ biết trớc
và để dự trữ một
khoản thặng d
dài hạn
Mức gửi lớn hơn
Vốn dài hạn hơn
Số tiền trên một tài
khoản lớn hơn
Lợi nhuận cao
hơn: chi phí hoạt
động thấp hơn
Có thể không ổn
định
Yêu cầu về quản lý
rất thấp: chỉ có 2
giao dịch trên 1 tài

khoản
Cần quan tâm
nhiều đến việc
quản lý khả năng
thanh khoản.
Theo nguồn:Winsniwski (1999); Hirschland (2000)
























































Hộp 7-2
Điều kiện tiên quyết đối với trung gian tài chính
Đảm trách công việc trung gian tài chính đòi hỏi thay đổi về tổ chức chứ
không phải chỉ là một số hệ thống hay biện pháp khen th-ởng mới. Trong
điều kiện lý t-ởng, một tổ chức trung gian tài chính phải có đ-ợc một hội
đồng quản trị mạnh bao gồm những ng-ời có trình độ và đ-ợc kính trọng. Vì
cá nhân những ng-ời gửi tiền không thể tin chắc là đội ngũ quản lý có làm
bảo vệ tiền tiết kiệm của họ khỏi những rủi ro không cần thiết hay không,
họ phải dựa vào hội đồng quản trị đánh giá công việc quản lý.
Tr-ớc khi làm trung gian huy động tiết kiệm để cho vay, một tổ chức cần
phải có sẵn một năng lực tốt và đã sẵn sàng nâng cao năng lực đó. Cụ thể
là tổng giám đốc và ban quản trị cần phải xem xét bảng yêu cầu sau:
1. Quản lý tín dụng đã đ-ợc chứng minh là chặt chẽ và chất l-ợng vốn cho
vay cao, ví dụ tỷ lệ rủi ro vốn vay trong vòng 30 ngày d-ới 5% và tỷ
lệ nợ không thu hồi đ-ợc d-ới 2% cho ít nhất là một năm tài chính vừa
qua.
2. Quản lý khả năng thanh khoản và tài khoản nợ-có thật tốt. Tổ chức cần
dự đoán đ-ợc tr-ớc và quản lý đ-ợc các hậu quả có thể xảy ra do các
cú sốc từ bên ngoài. Tìm nguồn hỗ trợ cho khả năng thanh khoản ngân
hàng nguồn thanh khoản khác là rất cần thiết để cung cấp dịch vụ có
chất l-ợng cao và có thể trụ đ-ợc về mặt tài chính. Tổ chức phải quản
lý đ-ợc các rủi ro lãi suất- những rủi ro liên quan đến thay đổi trong
nền kinh tế có thể thu hẹp biên độ lợi nhuận của tổ chức.
3. Hệ thống thông tin cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, và đầy đủ
và hệ thống báo cáo đơn giản minh bạch.
4. Kiểm soát nội bộ đầy đủ tránh việc gian lận và quản lý sai lệch tiền
gửi và đảm bảo độ an toàn. Tr-ớc khi cung cấp tiết kiệm tự nguyện, một
NHLX cần phải có bộ phận kiểm toán nội bộ giàu kinh nghiệm thuộc quyền
quản lý trực tiếp của hội đồng quản trị.
5. Niềm tin của khách hàng có đ-ợc là nhờ vào các dịch vụ đ-ợc thiết kế

tốt, rõ ràng và h-ớng tới khách hàng.
6. Hoạt động có tính bền vững tài chính và vốn đủ để trang trải các thất
thu trong quá trình hoạt động ban đầu và các tổn thất có thể xảy ra
do các sự kiện mang tính thảm hoạ.
7. Năng suất cao. Đội ngũ nhân viên phải tiếp cận đ-ợc với nhiều ng-ời
tiết kiệm hơn là ng-ời vay và phải huy động đ-ợc cả những khoản tiền
gửi lớn cùng với những khoản nhỏ.
8. Một hạng mục có khả năng sinh lời để đầu t- các khoản tiền tiết kiệm
d Nếu vốn cho vay đ-ợc tài trợ dồi dào thì việc đầu t- các khoản
tiết kiệm tạo ra lợi nhuận đủ để trang trải cho các chi phí có thể
gặp khó khăn.
9. Một môi tr-ờng bên ngoài thuận lợi với những đặc tính sau:
Lạm phát phải nằm trong tầm kiểm soát; không cao mà cũng không thất
th-ờng;
Lãi suất không bị kiểm soát;
Không có những nguồn tín dụng đ-ợc trợ cấp; và


Chính phủ điều tiết mức dự trữ tối thiểu, những quy định quản lý và
Một số chuyên gia về tài chính vi mô cũng lập luận rằng nếu TCTCVMs không đợc điều tiết
thì họ không nên huy động tiền gửi. Cách duy nhất để đảm bảo rằng các tổ chức có sức mạnh
và có thể tin cậy đợc để duy trì tính an toàn cho các khoản tiền gửi là thông qua điều tiết.
Các chuyên gia khác thì không đồng ý. Hạn chế quyền huy động vốn cho các tổ chức đ đợc
điều tiết và hoạt động trong các môi trờng ổn định thì sẽ không cung cấp đợc dịch vụ đến
đợc những ngời đang cần nhất. Họ lập luận rằng các khách hàng tiềm năng có lẽ cũng ý
thức đợc những rủi ro gắn liền với việc gửi tiền tại các tổ chức không đợc điều tiết. Các
khách hàng tiềm năng có thể nhận thấy những tổ chức này còn an toàn hơn các lựa chọn tiết
kiệm không chính thức khác của họ. Từ quan điểm này, có thể cho phép các tổ chức cộng
đồng có quy mô nhỏ hoặc ở các vùng xa xôi huy động tiết kiệm thậm chí nếu họ không đợc
giám sát, miễn là họ phải luôn công khai cho các thành viên biết điều này.

Tuy nhiên những ngời khác thì lập luận rằng các tổ chức nhỏ hoạt động theo nguyên tắc
thành viên, việc thành viên giám sát trực tiếp đảm bảo quản lý rủi ro hiệu quả. Hơn nữa, việc
giám sát có thể sẽ ít cần thiết hơn nếu đa số khách hàng là cũng những ngời vay tiền có số
tiền vay bình quân luôn cao hơn số tiền tiết kiệm (net borrowers). Những ngời theo quan
điểm này cũng đa ra đợc một giải pháp trung gian: Các tổ chức tài chính cộng đồng nhỏ
hoặc hoạt động theo nguyên tắc thành viên cần đợc tự do huy động tiết kiệm, nhng không
nên cho vay các khoản tiết kiệm này. Tuy nhiên huy động tiết kiệm mà không cho vay sẽ
khiến việc trang trải các chi phí rất khó khăn.
Các hình thức thay thế cho vai trò trung gian tài chính:
Nhiều tổ chức không có khả năng hay năng lực pháp lý để làm trung gian tài chính. Tuy nhiên
những tổ chức này vẫn có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện bằng
nhiều cách khác. Sau đây là một số cách có thể xem xét:
1. Có thể huy động tiết của các thành viên nhómvà tiền tiết kiệm do nhóm quản lý: chiến
lợc này đ đợc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quốc gia (NABARD)
của ấn Độ theo đuổi, thông qua một chơng trình phục vụ gần 8 triệu ngời tiết kiệm.
2. Chỉ huy động tiết kiệm của các thành viên nhóm và tiền TK có thể đợc NHLX gửi ở một
tài khoản ngân hàng của nhóm. Phục vụ các thành viên bằng một sản phẩm TK tự nguyện
đơn giản sẽ đòi hỏi ít thay đổi về thể chế hơn là mở rộng dịch vụ cho những đối tợng
không phải là thành viên.
NHLX có thể dàn xếp để huy động tiết kiệm từ những đối tợng không phải là thành viên
cũng nh từ các thành viên bằng cách sử dụng những nhân viên thu tiết kiệm do một tổ chức
có điều tiết tuyển dụng.
3. NHLX có thể huy động tiết kiệm từ những đối tợng không phải là thành viên và có thể
gửi tiền tại một tổ chức có điều tiết chứ không cho vay tiếp các khoản tiền này. Cách này
có thể chỉ thực hiện đợc nếu nh NHLX có thể trang trải đợc chi phí bằng li suất mà nó
nhận đợc nhờ việc gửi các khoản tiền này tại một tổ chức có điều tiết. Một mấu chốt quan
trọng để có thể thực hiện đợc điều này là khách hàng phải sẵn lòng bỏ qua khoản li tiết
kiệm hoặc thậm chí còn sẵn sàng trả tiền thêm để đợctiết kiệm một cách an toàn.
4. Thiết lập hoặc chuyển sang một hình thức tổ chức thay thế nh một quỹ uỷ thác đê giữ tiền
tiết kiệm hay trở thành một hợp tác x hay một tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Bất kỳ tổ chức nào muốn huy động tiền gửi cũng cần phải có những thay đổi đáng kể về mặt
thể chế. Mức độ của những thay đổi này phụ thuộc vào việc lựa chọn đối tợng mà tổ chức
muốn phục vụ hay các loại hình dịch vụ mà tổ chức muốn cung cấp. Các dịch vụ tiết kiệm
phục vụ những đối tợng không phải là thành viên đòi hỏi những thay đôỉ lớn về cơ cấu, văn
hoá và hệ thống làm việc của tổ chức. Ngợc lại, kết hợp tiết kiệm tự nguyện hệ thống tín
Nếu môi
trờng không
thuận lợi hay
NHLX vẫn
cha có đủ
năng lực để
cung cấp tiết
kiệm tự nguyện
thì phải cân
nhắc đến các
biện pháp tạm
thời hay các
biện pháp quá
độ, ví dụ làm
đối tác với một
ngân hàng

dụng hiện có đòi hỏi nâng cấp đáng kể về hệ thống, đội ngũ nhân viên, nhng sẽ không thay
đổi bản chất hoạt động của tổ chức.
Đối với nhiều NHLX, việc huy động tiết kiệm từ những đối tợng không phải là thành viên có
thể vừa không đúng pháp luật vừa không khôn ngoan. Đối với những tổ chức này, việc cung
cấp các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện cho các thành viên có thể là một biện pháp chi phí thấp và
đúng pháp luật nhằm cung cấp một giá trị lớn hơn cho các thành viên hiện tại. Đối với các
NHLX có đủ năng lực làm trung gian tài chính ở quy mô đầy đủ, bắt đầu bằng việc cung cấp
các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện cho thành viên là một cách tốt nhất để kiểm tra hệ thống của

mình trớc khi mở rộng tới các đối tợng không phải là thành viên (xem Bảng 7-3)

Bảng 7-3
So sánh giữa việc chỉ phục vụ các thành viên với phục vụ cả
thành viên và các đối t-ợng không phải thành viên

Chỉ phục vụ thành viên Phục vụ cả thành viên và những đối tợng
không phải là thành viên
Chi phí liên quan đến các món tiền TK
nhỏ không kỳ hạn có thể quản lý đợc.
Không yêu cầu thay đổi lớn về định
hớng.
Các tổ chức phi chính phủ và các hợp tác
x có thể cung cấp dịch vụ một cách hợp
pháp.
Sẽ không tiếp cận đợc những khách hàng
nghèo hơn những khách hàng hiện tại.
Để trang trải đợc chi phí phải thu hút đợc
nhiều ngời gửi tiền mới, bao gồm cả những
ngời gửi các khoản tiền lớn hơn.
Cần có những thay đổi lớn về cơ sở hạ tầng, đội
ngũ nhân viên, văn hoá và các biện pháp khen
thởng.
Có thể cần chuyển đổi hay nâng cấp kỹ năng để
đáp ứng đợc những yêu cầu báo cáo của các
cơ quan giám sát.
Có thể tiếp cận các khách hàng nghèo hơn nếu
đó là một mục tiêu rõ ràng ăn sâu vào việc thiết
kế sản phẩm, hệ thống cung cấp dịch vụ, văn
hoá tổ chức và các biện pháp khuyến khích

nhân viên.
Có quỹ vốn lớn hơn để cho vay, dễ dàng đáp
ứng các nhu cầu tín dụng hơn.

7.4. Phát triển dịch vụ tiết kiệm dễ thanh tiêu cho các thành
viên
Các tổ chức mong muốn phát triển dịch vụ tiết kiệm tự nguyện phải đối mặt với 4 thách thức
chính sau đây: (1) ngăn ngừa gian lận, (2) trang trải đợc các chi phí, (3) quản lý đợc thanh
khoản và (4) định hớng lại cho đội ngũ nhân viên. Các thách thức này thay đổi theo loại hình
sản phẩm. Dịch vụ tiết kiệm không kỳ hạn đặt ra những thách thức lớn nhất. Tuy nhiên đây
cũng là dịch vụ có nhiều khả năng đợc các tổ chức đang cung cấp dịch vụ tiết kiệm theo
nhóm lựa chọn cung cấp thêm; các thành viên có thể dễ dàng gửi và rút tiết kiệm tự nguyệnvào
những thời điểm mà lẽ ra họ phải nộp tiết kiệm bắt buộc (xem Hộp 7-3).Vì vậy, nếu hiểu đợc
cần phải làm gì để cung cấp dịch vụ tiết kiệm không kỳ hạn thì sẽ hiểu đớc các yêu cầu đặt ra
đối với những sản phẩm tiết kiệm khác.
1. Ngăn ngừa gian lận
Các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện có mức độ rủi ro gian lận rất lớn, đặc biệt khi dịch vụ này là
do các cán bộ hiện trờng thực hiện. Việc theo dõi gian lận đối với các khoản tiền gửi tự
nguyện không đều đặn sẽ khó hơn rất nhiều so với theo dõi tiết kiệm bắt buộc đợc gửi rất đều
đặn với một khoản tiền cố định. Hơn nữa, các dịch vụ tiết kiệm do các cán bộ hiện trờng đảm
nhận sẽ không đợc giám sát nội bộ, hay còn gọi là giám sát kép. Giám sát kép ngăn ngừa




































gian lận bằng cách yêu cầu những ngời trực tiếp làm việc với tiền phải khác với những ngời
ghi chép sổ sách giao dịch.
Khi không có giám sát kép, các nhà quản lý phải thận trọng kiểm tra các khoản giao dịch ghi
trong các cuốn sổ tiết kiệm xem chúng có giống hệt các khoản ghi trong hồ sơ của cán bộ hiện

trờng không, đó là quá trình đợc gọi là kiểm tra sổ tiết kiệm. Để ngăn ngừa và phát hiện
gian lận, cứ hai ba tháng một lần, ngời quản lý chi nhánh phải kiểm tra các giao dịch trong
từng cuốn sổ tiết kiệm. Những điểm không nhất quán cần phải đợc chú ý một cách có hệ
Hộp 7-3
Liệu sản phẩm bắt buộc và sản phẩm tự nguyện có t-ơng thích
hay không?

Nhiều Tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM) yêu cầu khách hàng tiết kiệm, mặc
dù sản phẩm tiết kiệm bắt buộc thể hiện một số bất cập. Liệu có thể cung
cấp cả tiết kiệm bắt buộc và tự nguyện? Nhiều TCTCVM và liên minh tín dụng
đã chứng minh rằng khách hàng sẽ tự nguyện tiết kiệm những khoản lớn đồng
thời với việc gửi TK bắt buộc. Tuy nhiên, khi cung cấp đồng thời cả hai
loại dịch vụ này, cả nhân viên và khách hàng đều gặp phải những thách thức
thực sự.
Ng-ời ta lập luận rằng về bản chất tiết kiệm bắt buộc và tiết kiệm tự
nguyện khác nhau tới mức TCTCVM không thể đồng thời cung cấp chúng một
cách thành công đ-ợc; khách hàng không tin t-ởng họ có thể tiếp cận tiết
kiệm tự nguyện nếu phải gửi TK bắt buộc ở cùng một nơi. Nếu TCTCVM áp dụng
quy chế bảo lãnh theo nhóm, khách hàng sẽ không muốn gửi TK tự nguyện
ngoài khoản bắt buộc tối thiểu vì sợ rằng tiền tiết kiệm của họ có thể
đ-ợc dùng để trả nợ của những khách hàng khác. Hơn nữa, những nhân viên đã
quen yêu cầu khách hàng nộp tiết kiệm bắt buộc với mức cố định sẽ không
khuyến khích khách gửi TK tự nguyện.
Kinh nghiệm của ASA trong việc cung cấp sản phẩm lai đã cho thấy sự xung
đột văn hoá tiềm tàng giữa tiết kiệm tự nguyện và tiết kiệm bắt buộc, đồng
thời cũng chứng minh sự xung đột này có thể khắc phục đ-ợc. Trong tài
khoản tiết kiệm chung của một thành viên ASA, khách hàng phải giữ số d-
tiết kiệm t-ơng đ-ơng với 10% giá trị khoản vay của họ, nh-ng lại có khả
năng tiếp cận hoàn toàn với những khoản tiết kiệm khác. Họ cũng phải tiết
kiệm 10 taka ($0,21) một tuần. Khách hàng có thể tiết kiệm nhiều hơn mức

này bao nhiêu cũng đ-ợc tuỳ theo ý họ.
Các cán bộ hiện tr-ờng tiếp nhận thông tin vê chính sách mới này thông qua
thông báo nội bộ (memo). Nhiều ng-ời không nhận ra lợi ích của việc chấp
nhận những khoản TK nhỏ, không th-ờng xuyên này. Thay bằng việc giải thích
rõ các điều kiện, một số ng-ời truyền đạt cho các thành viên rằng họ phải
trả 20 taka một tuần, 10 cho tiết kiệm bắt buộc và 10 cho tiết kiệm tự
nguyện. Đại đa số các thành viên tiết kiệm đúng nh- thế. Trong thực tế,
nhiều thành viên đã gửi những khoản tiết kiệm v-ợt trội của họ vào một tài
khoản ngoài nhóm (xem Hộp 7-4).
Bình luận của khách hàng về sản phẩm mới rất đáng chú ý: Tại sao tôi lại
tiết kiệm nhiều hơn trong một tài khoản không cho phép tôi tiết kiệm ít
hơn khi tôi gặp rắc rối? Vâng, tất nhiên có những lúc tôi có thể tiết
kiệm nhiều hơn (mức 20 taka) - nh-ng tôi sẽ luôn luôn tiết kiệm 20 taka
tr-ớc đây là 10 taka và bây giờ là12 taka

rất đơn giản và dễ nhớ

thế
thống và phải đợc điều tra ngay lập tức. Cần gắn mức lơng với tỷ lệ mắc lỗi và số điểm thiếu
nhất quán bị phát hiện. Gian lận cần bị phạt nặng và ngay lập tức. Mặc dù tất cả các biện pháp
này nhằm phát hiện gian lận nhng không ngăn ngừa đợc nó. Đây là rủi ro cố hữu trong việc
sử dụng các cán bộ hiện trờng đi thu tiền tiết kiệm.
Hơn nữa, kiểm tra sổ tiết kiệm sẽ không tìm ra gian lận nếu cán bộ hiện trờng có thể ghi số
tiền sai trong cả sổ tiết kiệm và bản giao dịch (transaction sheet). Để tránh những gian lận
kiểu này, NHLX cần luyện cho ngời gửi tiền kiểm tra sổ tiết kiệm của họ khi có mặt nhân
viên thu tiền và yêu cầu nhân viên thông báo số tiền giao dịch và số d mới. Cuối cùng, giám
đốc chi nhánh nên đi thăm ngẫu nhiên khách hàng để có thể nghe phản ánh, phát hiện gian
lận.
2. Bù đắp chi phí
Khi các tổ chức cung cấp tiết kiệm bắt buộc cung cấp dịch vụ tự nguyện lần đầu tiên, họ

thờng thấy tiền rút cũng nh tiền gửi tăng một cách đáng chú ý. Kết quả là tiết kiệm ròng chỉ
gia tăng rất ít hoặc thậm chí không tăng trong khi giao dịch tăng rất mạnh. Giao dịch gia tăng
mà không tăng lợng tiền gửi có thể dẫn đến chi phí cao hơn rất nhiều mà doanh thu không
mấy gia tăng. Thực tế, một số tổ chức chuyển từ dịch vụ bắt buộc sang dịch vụ tự nguyện
nhận thấy dịch vụ mới này rất tốn kém. Tuy nhiên, một số tổ chức khác lại thấy ngợc lại; các
dịch vụ tiết kiệm gần nh không làm tăng thêm chi phí. Tại sao có sự khác nhau nh vậy?
Những tổ chức này sau đ thực hiện một số chiến lợc giúp họ quản lý và bù đắp chi phí. Họ
thấy chi phí cho việc cung cấp tiết kiệm tự nguyện có thể tối thiểu hoá bằng những cách sau:
a. Khi tổ chức vẫn huy động cả tiết kiệm bắt buộc, cung cấp dịch vụ tiết kiệm tự nguyện và
tiết kiệm bắt buộc cùng lúc dới dạng sản phẩm lai với một tài khoản duy nhất cho mỗi
thành viên. Các thành viên phải gửi vào một khoản tiền tối thiểu nhng có thể gửi hơn thế.
Những giao dịch lai này tối thiểu hoá chi phí cho việc vào sổ giao dịch hàng ngày và giao
dịch sổ cái, ngợc lại nếu không làm theo cách này sẽ dẫn đến gia tăng chi phí do tăng
thời gian làm việc của nhân viên.
b. Đảm bảo hệ thống thông tin quản lý hoạt động có hiệu quả cao. Ví dụ, ở ASA, các giao
dịch đợc ghi hai lần, trong sổ tiết kiệm và trong sổ phụ cũng là biên bản thu tiền.
c. Cân bằng những gánh nặng mới phát sinh, nh thời gian dùng cho kiểm tra sổ tiết kiệm,
bằng những biện pháp cải tiến mới, tiết kiệm đợc thời gian của các nhà quản lý. Khi
BURO Tangail yêu cầu các nhà quản lý phải kiểm tra thêm các sổ tiết kiệm thì nó cũng
sắp xếp hợp lý hoá tiến trình đa ra quyết định cho vay.
d. Khi có thể đợc, trả li thấp hoặc không trả li đối với tiết kiệm không kỳ hạn, loại hình
dịch vụ có chi phí việc phân phối cao.
3. Quản lý thanh khoản
So với tín dụng hay TK bắt buộc, dịch vụ tiết kiệm không kỳ hạn đặt ra những thách thức lớn
hơn đối với việc quản lý thanh khoản. Dù sao, tiết kiệm bắt buộc luôn đợc gửi với số lợng
và thời gian dự tính trớc, và hiếm khi bị rút ra. Tuy nhiên, với tiết kiệm không kỳ hạn, tính
toán việc cho vay sao cho khớp với dòng tiền gửi và rút TK tự nguyện đặt ra những yêu cầu
cao hơn cho công tác lập kế hoạch và quản lý. Những tổ chức muốn mở rộng các dịch vụ tiết
kiệm có thể gặp những thách thức nào về thanh khoản, và họ nên chuẩn bị thế nào? Kinh
nghiệm cho thấy một số biện pháp sau:

a. Lên kế hoạch duy trì mức dự trữ thanh khoản cao hơn. Mức dự trữ này sẽ làm giảm tổng
lợi nhuận tài chính, và chỉ điều đó thôi cũng đủ giải thích việc trả li suất cho TK không
kỳ hạn thấp hơn so với TK bắt buộc.
b. Trù tính sự sụt giảm tiết kiệm đáng kể vào thời gian đầu và xem xét các biện pháp khuyên
khích thành viên không để họ rút tiết kiệm ra ngay. Lúc đầu, thành viên sẽ muốn thử xem
liệu họ có thể thực sự rút tiền tiết kiệm ra không. Sự sụt giảm tiết kiệm này không kéo dài,
chỉ dới một năm và có thể chỉ vài tháng.
c. Nếu thành viên là ngời nghèo, đừng dự tính là tổng số d tiết kiệm sẽ cao hơn nhiều so
với tổng số d TK bắt buộc. Tất nhiên, lợng tiền tiết kiệm sẽ phụ thuộc vào mức tiết kiệm
tối thiểu bắt buộc.
d. Dự tính mức hoạt động tài khoản sôi động đối với cả tiền gửi và tiền rút. Đặc biệt phải tính
trớc đợc nhu cầu rút tiền lớn theo thời vụ nh trớc mùa lễ hội và trớc vụ gieo trồng.
e. Xây dựng một quy trình lập kế hoạch kinh doanh từ dới lên để xác định nhu cầu quỹ vốn.
Để quản lý thanh khoản, cân nhắc việc áp dụng chính sách yêu cầu khách hàng báo trớc
khi muốn rút những khoản lớn hoặc xem xét cơ cấu li suất hay phí không khuyến khích
việc rút tiền.
4. Tái định hớng cho nhân viên
Các dịch vụ tiết kiệm mới chỉ thành công khi nhân viên tích cực quảng bá chúng. Tuy nhiên,
tranh thủ đợc sự hỗ trợ của đội ngũ cán bộ hiện trờng có thể là một việc rất khó. Cán bộ
hiện trờng phải có khả năng giải thích rõ ràng về sản phẩm và họ phải làm điều này một cách
tích cực. Những cán bộ hiện trờng đ quen với việc thu những khoản tiền tiết kiệm bắt buộc
và tiền trả nợ định kỳ giống hệt nhau có thể không chấp nhận một sản phẩm có tính linh hoạt
hơn. Họ cũng có thể chỉ bận tâm thu hồi nợ, vì họ cho rằng điều này quan trọng hơn nhiều đối
với sự sống còn của tổ chức của họ. Sau hết, họ có thể không muốn hoặc không có khả năng
quản lý những khoản tiền không chuẩn hoá (không xác định trớc mức đóng và kỳ hạn đóng
tiền -ND) đòi hỏi phải bút toán cẩn thận hơn. Đào tạo và chế độ khen thởng là thiết yếu để
đảm bảo sự hỗ trợ của nhân viên.

7.5 Cung cấp dịch vụ tiết kiệm cho những đối t-ợng không phải
là thành viên

Giả sử một tổ chức cung cấp dịch vụ tiết kiệm cho thành viên của mình theo nhóm vay bây giờ
muốn cung cấp dịch vụ tiết kiệm cho những đối tợng không phải là thành viên. Mục tiêu
chính của tổ chức là đáp ứng tối đa nhu cầu tiết kiệm của một đông đảo ngời gửi. Tổ chức
này đặc biệt quan tâm đến phục vụ ngời nghèo và vì vậy cần cung cấp dịch vụ gần gũi, thuận
tiện cho khách hàng. Tổ chức có thể chọn trong ba phơng thức cung cấp ban đầu sau đây:
1. Phục vụ ngời gửi TK thông qua các nhóm ngời vay hiện tại.
2. Thu tiền gửi từ các nhóm tiết kiệm hiện tại hoặc mới.
3. Sử dụng ngời thu tiền tiết kiệm để thu thập tiền gửi từ cá nhân.
Liệu mỗi lựa chọn trên đây đáp ứng những mục tiêu đề ra ở trên hiệu quả đến mức nào? Điều
này sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố môi trờng các quy định luật pháp, an ninh thân thể của
cán bộ hiện trờng, mật độ dân số và hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất của vùng đó. Mỗi lựa
chọn sẽ đợc đánh giá dới đây.
1. Nhóm ngời vay hiện tại
Nhận thêm những thành viên chỉ gửi tiết kiệm vào NHLX và phục vụ họ trong các kỳ họp
thành viên có thể là một phơng pháp khả thi để phục vụ một số ít ngời gửi. Tuy nhiên, để số
lợng lớn những thành viên không vay tiền tham gia họp có thể làm tổn hại đến tình đoàn kết
giữa các thành viên, một công cụ kiểm soát việc trả nợ. Thu tiền tiết kiệm của họ sẽ kéo dài
các buổi họp dành cho những ngời vay tiền. Đối với chính những ngời gửi tiền tiết kiệm,
ngồi họp cả buổi sẽ là cái giá cao phải trả chỉ đơn giản để gửi tiền. Cuối cùng, nếu ngời gửi
tiền thế chỗ cho thành viên vay tiền, họ can thiệp vào sự sống còn về mặt tài chính của NHLX;
họ làm tăng chi phí quản lý nhóm nhng chỉ tạo ra doanh thu tối thiểu. Một giải pháp tơng tự
nhng có tính khả thi hơn là phục vụ ngời gửi tiền ở cùng một nơi và thời điểm khi tổ chức
họp nhóm. (xem Ngời thu tiết kiệm dới đây)
2. Nhóm tiết kiệm hiện tại hoặc mới
Có hai hình thức nhóm tiết kiệm: nhóm tự hỗ trợ ("nhóm tự cứu") và nhóm tiết kiệm NHLX. ở
nhóm thứ nhất, các nhóm tiết kiệm đợc tổ chức, đào tạo và giám sát để tự thu và quản lý các
khoản tiết kiệm của họ. Họ có thể gửi tiền tiết kiệm vào một ngân hàng và sau một thời gian
cho vay bản thân các thành viên hoặc cho các nhóm tiết kiệm khác vay.
ở hình thức nhóm TK thứ hai, NHLX tổ chức các nhóm tiết kiệm thu tiền gửi cho tổ chức. Sản
phẩm này đơn giản đến nỗi chỉ cần đào tạo cho nhóm rất ít. Các quy định gửi tiết kiệm cũng

giống nh quy định của các nhóm TK tín dụng luân phiên (ROSCA); tất cả các thành viên tiết
kiệm cùng một khoản tiền giống nhau theo định kỳ đều đặn.
Điểm mạnh của hình thức thứ hai là nó có thể tăng phạm vi tiếp cận khách hàng và giảm chi
phí ở những vùng dân c tha thớt, những nơi có thể không đợc phục vụ bằng những phơng
thức khác. ở những vùng xa xôi, việc tổ chức chỉ thu tiền tiết kiệm từ nhóm còn nhóm trực
tiếp thu từ cá nhân có thể là điểm mấu chốt cho việc quản lý chi phí. Trên thực tế, mô hình này
chỉ đơn giản là chuyển một số chi phí của việc thu tiền từ NHLX sang cho nhóm.
Điểm yếu của cả hai hình thức này là lợi ích của khách hàng. Mặc dù sản phẩm này tạo ra kỷ
luật tiết kiệm và bảo vệ các khoản tiết kiệm khỏi nhu cầu hàng ngày, các điều kiện và mức
tiền gửi không thích ứng với nhu cầu cá nhân; ngợc lại các điều kiện và mức tiền giống hệt
cho toàn bộ nhóm. Hơn nữa, khách hàng phải chịu một phần chi phí thu tiền. Trong nhiều
trờng hợp, các khoản tiền gửi TK mang tính bắt buộc và đồng nhất cho toàn bộ nhóm và chỉ
có thể tiếp cận số tiền gửi dới hình thức khoản vay, hoặc bằng cách rút lui khỏi nhóm.
3. Ngời thu tiết kiệm
Sử dụng ngời thu tiết kiệm có thể tiếp cận khách hàng ở quy mô lớn, và trên lý thuyết có thể
phục vụ lợi ích khách hàng tốt hơn. So với các phơng thức TK theo nhóm đợc bàn ở trên,
ngời thu tiết kiệm phải có năng lực tốt hơn để vào sổ và quản lý TK không kỳ hạn. Trong
thực tế, ngời thu tiết kiệm có thể thực sự phân phối đợc các dịch vụ có giá trị hay không
còn phụ thuộc vào trình độ giáo dục, công nghệ thông tin quản lý của họ, và việc liệu họ có
nên chỉ trung thành với những sản phẩm có các khoản thanh toán chuẩn hoá (mức tiền và kỳ
gửi cố định -ND) để dễ phát hiện gian lận hơn không. Tuy nhiên, ngay cả khi thanh toán đợc
chuẩn hoá, nh với sản phẩm theo hợp đồng, ngời thu vẫn có thể thay đổi mức tiền tiêu
chuẩn theo khách hàng, không giống nh tiết kiệm theo nhóm.
Mặt khác, sự lựa chọn này có thể không khả thi trong nhiều môi trờng. ở nhiều nơi
Việc sử dụng ngời thu tiền có thể không hợp pháp. Ngời thu thờng bị ràng buộc bởi
những quy định pháp lý mà các dịch vụ do thành viên quản lý không gặp phải. NHLX phải
đáp ứng những yêu cầu pháp lý này hoặc tìm ra một tổ chức đợc điều tiết đồng ý cho họ
mợn nhân viên thu tiền.
Chi phí tiền lơng và rủi ro an toàn vốn có thể làm cho việc sử dụng ngời thu không có
tính khả thi về mặt tài chính. ở những vùng xa xôi, phơng thức này có thể không sử dụng

đợc vì quá đắt đỏ, ngay cả khi chỉ thu tiền 1 lần mỗi tuần. Thay vào đó, có thể tối thiểu
hoá chi phí bằng cách để cho cán bộ hiện trờng chuyên quản lý NHLX đóng cả vai trò
ngời thu tiết kiệm ở cùng thời gian và địa điểm của cuộc họp tuần (mặc dù phơng thức
này cũng có những bất cập sẽ bàn tới dới đây).
Vì ngời thu
tiết kiệm có thể
cá nhân hoá
dịch vụ của họ,
họ có thể phục
vụ lợi ích của
khách hàng tốt
hơn. Nhng
phơng pháp
tiếp cận theo cá
nhân này có thể
có hiệu quả về
mặt chi phí hay
không còn phụ
thuộc vào điều
kiện của từng
địa phơng.


Sau đây là một số phơng pháp có thể áp dụng khi sử dụng ngời thu tiết kiệm:
a. NHLX có thể sử dụng ngời thu tiền là nhân viên của một tổ chức khác, đợc điều
tiết, chứ không tự thu. Cách này đảm bảo tổ chức nhận tiền gửi đợc giám sát và có năng
lực quản lý tiết kiệm. Đối với NHLX, phơng pháp này tối thiểu hoá những yêu cầu quản
lý mới, vì tổ chức đối tác đợc điều tiết đó chịu trách nhiệm quản lý.
b. Nhân viên tín dụng có thể đóng cả vai trò ngời thu tiền gửi đối với những đối tợng
không phải thành viên. Bằng cách sử dụng những nhân viên hiện có, mô hình này hạ thấp

chi phí hành chính. Tuy nhiên, chiến lợc này có thể thất bại trừ phi NHLX nhận thức
đợc rằng huy động tiền gửi đòi hỏi những thay đổi lớn, đặc biệt trong quản lý nguồn nhân
lực. Khuyến khích nhân viên tín dụng để họ tập trung vào nhiệm vụ mới có nhiều đòi hỏi
khắt khe là huy động TK của đông đảo khách hàng có thể là điều khó khăn. Sự quá tập
trung của nhân viên vào việc khách hàng trả đúng kỳ hạn có thể xung đột với định hớng
dịch vụ của tổ chức, một yếu tố cần thiết để xây dựng đợc những mối quan hệ tin cậy và
kiến thức về luồng tiền mặt của địa phơng. Nếu không có những biện pháp khen thởng,
hệ thống đào tạo và tiếp thị mới, phạm vi tiếp cận khách hàng của phơng pháp này sẽ hạn
chế bởi vì khó có khả năng cán bộ hiện trờng sẽ mở rộng dịch vụ của họ ra ngoài nhóm
khách hàng hiện tại (xem Hộp 7-4).
c. ở một số vùng, NHLX có thể sắp xếp để thu tiền gửi tiết kiệm thông qua ngời thu tiết
kiệm đang hoạt động trong khu vực không chính thức. Lấy ví dụ ở Ga na, chơng trình
Hỗ trợ Hành động đ sắp xếp một sự cộng tác giữa ngời thu tiết kiệm không chính thức
với một số NHLX. Sự cộng tác này chỉ có ý nghĩa khi tổ chức này có thể đóng vai trò
trung gian tài chính hợp pháp, trong khi ngời thu t nhân thì không thể. Chẳng hạn, một
NHLX đợc phép cho vay tiếp tiền tiết kiệm (on-lend savings) có thể trả mức li suất tiền
gửi cao hơn ngời thu TK không chính thức.
Phơng pháp này có một số u điểm. Ngời thu TK không chính thức -
Có thể đ có đợc lòng tin từ khách hàng tiềm năng và có kinh nghiệm thực tế với việc
quản lý các giao dịch tài chính;
Có thể có tinh thần làm việc rất tích cực, có kinh nghiệm làm tiếp thị và hiểu rõ cộng
đồng nơi họ làm việc; và
Sẽ tốn ít chi phí hơn so với việc tuyển nhân viên mới khác (mặc dù sẽ tốn kém hơn so
với sử dụng những cán bộ hiện trờng hiện tại). Hơn nữa, các NHLX có khả năng giảm
chi phí tài chính của họ. Vì những ngời thu tiết kiệm không chính thức thờng yêu
cầu trả phí dịch vụ, khách hàng có thể không trông đợi nhận đợc lợi nhuận tài chính
dơng (từ tiền tiết kiệm).
d. NHLX có thể tuyển dụng và đào tạo ngời thu tiết kiệm của riêng họ. Phơng pháp này có
nhiều thuận lợi và bất lợi giống hệt nh sử dụng ngời thu không chính thức. Nếu cộng
đồng tự lựa chọn ngời thu, ngời ấy hẳn đ có đợc lòng tin của họ.





Hộp 7-4
Kinh nghiệm của ASA: Đại lý khu vực thực hiện hai nhiệm vụ

Năm 1997, ASA đã tạo ra một sản phẩm tiết kiệm mới dành cho thành viên
liên kết. Các cán bộ tín dụng hiện tr-ờng của ASA nhận gửi và rút tiết
kiệm tự nguyện ở nơi họp hàng tuần của nhóm tín dụng. Sản phẩm này dành
cho ng-ời thân và bạn bè của các thành viên của ASA. Sản phẩm này không
đ-ợc tiếp thị tích cực ra ngoài số thành viên hiện tại. Nhiều ng-ời gửi
tiền là thành viên của ASA, họ coi trọng sự bảo mật và bản chất tự
nguyện của các tài khoản này. Trong khi một số thành viên liên kết sử
dụng tài khoản chỉ đơn giản là để dự trữ tiền mặt thì số khác lại gửi
tiền vào và rút tiền ra khỏi tài khoản của họ rất tích cực. Cho đến
cuối năm 1997, số d- tài khoản trung bình là 2,87 đô la; một năm sau số
d- tài khoản trung bình chỉ là 4,18 đô la. Mặc dù đ-ợc khách hàng đánh
giá cao, ASA thấy chi phí để thực hiện dịch vụ này và để duy trì dự trữ
thanh khoản lớn hơn đã v-ợt trội rất nhiều so với doanh thu mà dịch vụ
này tạo ra. Cho đến năm 2000, ASA đã loại bỏ sản phẩm mới này.

Các NHLX khác có thể rút ra bài học gì từ kinh nghiệm của ASA? Thứ
nhất, nếu không đào tạo lại và có những biện pháp khuyến khích mới, cán
bộ hiện tr-ờnichsex không muốn tiếp thị rộng rãi sản phẩm tiết kiệm
mới. Các nhân viên của ASA đã làm việc vất vả ngay cả tr-ớc khi sản
phẩm dành cho thành viên liên kết ra đời. Họ cho rằng hoạt động kinh
doanh đầu tiên của họ là quản lý tín dụng, và đều hiểu rằng việc trả nợ
là rất quan trọng đối với sự sống còn của ASA. Ng-ợc lại, họ không nhận
thấy việc huy động tiền gửi tiết kiệm là quan trọng đối với công việc

của họ hay với ASA. Vì vậy, họ không tìm kiếm khách hàng mới cho sản
phẩm dành cho thành viên liên kết.

Thứ hai, mặc dù nhân viên của ASA chỉ tiếp thị ở mức tối thiểu, sản
phẩm mới đã đạt đ-ợc phạm vi tiếp cận khách hàng rất lớn chỉ trong vòng
18 tháng. Kết quả này cho thấy khách hàng có thể đánh giá rất cao TK
khong kỳ hạn, ngay cả đối với những khách hàng đã từng tiếp cận với sản
phẩm tiết kiệm bán tự nguyện, trên cơ sở nhóm.

Thứ ba, mặc dù nhiều khách hàng sử dụng sản phẩm mới nh-ng họ không
tiết kiệm đ-ợc nhiều nh- dự tính. Những khách hàng hiện tại, những
ng-ời đã thanh toán khoản vay theo tuần và thanh toán tiết kiệm bắt
buộc, có thể không còn d- tiền mặt để gửi những khoản tiết kiệm tự
nguyện lớn. Vì vậy, để có thể duy trì về mặt tài chính, sản phẩm TK
không kỳ hạn cần phải đ-ợc tiếp thị rộng rãi, không chỉ giới hạn ở
những thành viên hiện tại và những ng-ời có quan hệ với họ, mà cả những
ng-ời có thu nhập cao hơn có d- tiền mặt. Chi phí để phục vụ những
ng-ời gửi món nhỏ nhất phải đ-ợc bù đắp bởi những tài khoản lớn hơn*.

Wright, Christen và Matin (2001) kết luận rằng đối với những tổ chức
cung cấp có hiệu quả sản phẩm tín dụng theo nhóm đ-ợc chuẩn hoá, huy
động tiền gửi tiết kiệm một cách chính thức đòi hỏi một sự thay đổi
v-ợt bậc trong văn hoá doanh nghiệp và đầu t- lớn về hệ thống, tuyển
dụng thêm nhân viên, và đào tạo. Các hệ thống, nhân viên và văn hoá đã
7.6 Kết luận
Những lựa chọn này đợc đánh giá nh thế nào? Có thể rút ra các kết luận chung dới đây:
ở mức tối thiểu, các NHLX có thể cung cấp các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện cho
những ngời vay. Lựa chọn này có chi phí thấp và hợp pháp, trong hầu hết các trờng
hợp. Mặc dù quy mô và phạm vi tiếp cận sâu của chiến lợc này là có hạn, lựa chọn
này cho thấy một sự tiến bộ rõ nét trong chất lợng sản phẩm mà các thành viên sẽ

đánh giá cao.
Những nhân viên thu tiền tiết kiệm có tiềm năng lớn nhất để phục vụ dịch vụ chất
lợng cao cho một lợng lớn khách hàng. Vì phơng thức này đòi hỏi một môi trờng
làm việc sao cho nhân viên có thể giữ tiền mặt một cách an toàn, một tổ chức, với đầy
đủ khả năng bảo đảm an toàn tiền gửi, chỉ nên triển khai nhân viên thu tiền ở những
nơi mà tổ chức này có thể hỗ trợ họ.
Vì hầu hết các NHLX đều không có năng lực quản lý để cung cấp các dịch vụ đợc
bảo đảm, lựa chọn có tính thuyết phục nhất là thu xếp để việc thu tiền đợc thực hiện
bởi một tổ chức tài chính đợc điều tiết. Tuy nhiên, trong các môi trờng đầy thách
thức, và đối với một số nhóm khách hàng yếm thế nhất, sự lựa chọn này là không khả
thi. Các thể chế tài chính đợc điều tiết có thể không tồn tại hay có thể không quan
tâm đến việc huy động các khoản tiền gửi nhỏ.
ở các vùng mật độ dân c không cao, các nhóm tiết kiệm có thể làm giảm chi phí và
tăng phạm vi tiếp cận khách hàng. Không phải tất cả các nhóm đó đều có khả năng
theo dõi các khoản tiết kiệm với quy mô khác nhau. Tuy nhiên, nếu tất cả các thành
viên trong nhóm đều đặn đóng góp một khoản tiền nh nhau thì giá trị mà khách hàng
đợc hởng chắc hẳn sẽ thấp hơn so với việc phục vụ theo cá nhân.
Trong các vùng dân c tha thớt, cơ sở hạ tầng kém, thì về lâu về dài các nhóm tiết
kiệm tự quản lý là lựa chọn duy nhất có tính khả thi về tài chính. Đối với các NHLX,
đây là chiến lợc phát triển không có tính bền vững về mặt tài chính. Khi thành lập
mỗi nhóm cần đầu t vào đào tạo và chi phí đào tạo này sẽ không đợc trang trải nhờ
thu nhập. Khả năng hạn chế trong việc lu giữ hồ sơ và quản lý thanh khoản sẽ làm
hạn chế chất lợng sản phẩm.
Tiết kiệm tự nguyện có tiềm năng lớn trong việc giải quyết các nhu cầu về tài chính cho
ngời nghèo. Tuy nhiên việc cung cấp dịch vụ này sẽ phức tạp hơn rất nhiều so với tiết
kiệm bắt buộc và tín dụng đợc chuẩn hoá. Hơn nữa, huy động tiền gửi của ngời nghèo
cũng giống nh vay tiền của họ. Điều này nên đợc làm một cách hết sức cẩn thận. Nhiều
NHLX không nên trực tiếp huy động và cho vay tiết kiệm, mặc dù vậy thông qua mối
quan hệ đối tác với các ngân hàng, họ vẫn có thể tăng phạm vi tiếp cận khách hàng và chất
lợng của các dịch vụ tiết kiệm. Một số NHLX khác chỉ nên chuyển từ các dịch vụ bắt

buộc sang tự nguyện cho các thành viên của mình.
Các tổ chức tài chính hoạt động vì ngời nghèo mới chỉ bắt đầu thử nghiệm các khả năng
này. Trong những năm tới, các thử nghiệm với các lựa chọn này sẽ bắt đầu mang lại các
hệ thống quản lý chi phí thấp, các chiến lợc phân phối mới, và các bài học có giá trị về
làm thế nào để cung cấp các dịch vụ tiết kiệm đến cho ngời nghèo trong khi vẫn có thể
trang trải đợc các chi phí.
Các nguồn tham khảo


Các nguồn dới đây cung cấp thêm các thông tin về các dịch vụ tiết kiệm tự nguyện

Bald, Joachim. 2000. Quản lý thanh khoản : Một bộ công cụ cho các Tổ chức tài chinh vi mô.
Frankfort, Germany: Bankademie, Micro Banking Competence Center.
www.ids.ac.uk/cgap.liquidity.htm
Branch, Brian and Janette Klaehn, eds. Forthcoming. Tác động vào cán cân thanh toán trong
tài chính vi mô: Một hớng dẫn thực để huy động tiiết kiệm. Washington, DC: Công ớc các
ấn bản và Hội đồng thế giới của các hiệp hội tín dụng (WOCCU), Inc. www.woccu.org
Hirsch, Madeline. 2001. Phát triển các dịch vụ tiết kiệm cho ngời nghèo: hớng dẫn mở đầu
cho các nhà tài trợ Washington, DC : Nhóm t vấn để trợ giúp cho những ngời nghèo nhất
(CGAP). www.cgap.org
Fiebig, Micheal, Alfred Hannig, and Sylvia Wisniwski. 1999. Tiết kiệm trong bối cảnh của
Tài chính vi mô : Trạng thái của kiến thức. CGAP Nhóm làm việc về Huy động tiết kiệm.
www.cgap.org
Hirsch, Madeline, biên tập. Các dịch vụ tiết kiệm cho ngời nghèo : Một hớng dẫn hoạt
động. Sắp xuất bản . Washinton DC: Nhà xuất bản Pact. www.pactpub.org
Robinson, Marguerite, S 1997. Giới thiệu sản phẩm tiết kiệm ở các thể chế tín dụng vi mô:
Khi nào và ở đâu? đợc Joyita Mukherjee tóm tắt. CGAP Focus note No 8 (tháng 4).
Washington DC: Nhóm t vấn hỗ trợ ngời nghèo nhất (CGAP) và Ngân hàng thế giới.
www.cgap.org
Wright, Graham A.N, Robert Christen and Imran Martin. 2001. Văn hoá, cạnh tranh và sự lựa

chọn của ASA: Đa các dịch vụ tiết kiệm vào một thể chế tín dụng vi mô. Nairobi, Kenya:
Microsave- Châu Phi. www. MicroSave-Africa.com












×