Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Khảo sát độ loạn thị giác mạc trung tâm trên bệnh nhân bị mộng thịt bằng giác mạc đồ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.8 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

KHẢO SÁT ĐỘ LOẠN THỊ GIÁC MẠC TRUNG TÂM
TRÊN BỆNH NHÂN BỊ MỘNG THỊT BẰNG GIÁC MẠC ĐỒ.
Huỳnh Tấn Cảnh*, Lê Minh Thông*
TÓM TẮT
Công trình nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 12/2002 – 7/2003 tại Trung tâm chẩn đoán Y khoa
TP. HCM. Mục đích của nghiên cứu là khảo sát mối tương quan giữa kích thước của mộng thòt và độ loạn thò
giác mạc ở hai kích thước đường kính 3mm và 5mm. Thêm vào đó, chúng tôi nghiên cứu vể những thay đổi
khúc xạ có liên quan đến loạn thò giác mạc không đều phụ thuộc vào kích thước của mộng thòt.
Chúng tôi đã khảo sát 299 mắt bò mộng thòt nguyên phát với những kích thước khác nhau, sử dụng giác
mạc đồ TMS-3 và đèn khe để đo kích thước mộng từ vùng rìa (đơn vò là mm), từ đó xác đònh các thông số về
kích thước của mộng liên quan đến loạn thò giác mạc do mộng thòt gây ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy : khi
mộng thòt nguyên phát xâm lấn qua vùng rìa >3mm nó sẽ gây ra loạn thò trầm trọng (>3D). Tình trạng
loạn thò này có khuynh hướng gia tăng theo độ mộng. Đặc biệt, chúng tôi đã thấy được rằng, công suất khúc
xạ bề mặt có một vai trò rất quan trọng trong mối tương quan giữa kích thước của mộng thòt và độ loạn thò
giác mạc.
SUMMARY
EVALUATION OF PTERYGIUM – INDUCED CENTRAL CORNEAL ASTIGMATISM
BY USING CORNEAL TOPOGRAPHY.
Huynh Tan Canh, Le Minh Thong *Y Học TP. Ho Chi Minh * Vol. 8
* Supplement of No 1 * 2004: 155 – 161

This study was carried out from december 2002 to july 2003 at HCM city Medical Diagnotic Center. The
purpose of the study was to evaluated the correlation between pterygium size and corneal astigmatism in
the 3- mm- zone and 5- mm- zone. In addition, we investigated refractive changes featuring irregular
astigmatism depending on theire size.
We evaluated 299 eyes with primary pterygium of different sizes, using TMS- 3 and Slit- lamp beam
measurements of the size of the pterygium (in millimetters) from the limbus to assess parameters of
pterygium size with induced corneal astigmatism. The result of study showed: When primary pterygium


reaches more than 3mm in size from the limbus it induces significant astigmatism (>3D). This significant
astigmatism tends to increas with the increasing size of the lesion. Especially, we found that the anterior
crneal power has a very important role in the correlation between pterygium size and corneal astigmatism.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loạn thò giác mạc không đều do mộng thòt là
một quá trình biến dạng từ từ của bề mặt trước giác
mạc do bò xâm lấn của mộng thòt từ vùng rìa hướng
vào trung tâm giác mạc.
Mộng thòt là bệnh khá phổ biến trên toàn thế
giới, nhìn chung, khu vực nam bán cầu có tỷ lệ bệnh
cao hơn khu vực bắc bán cầu
(27)
. Ở Việt Nam, những
người < 50 tuổi có tỷ lệ bệnh 14% và mộng thòt là
nguyên nhân đứng hàng thứ hai sau đục thuỷ tinh
thể gây giảm thò lực và rối loạn thò giác hai mắt
(4)
.
* Bộ môn Mắt - ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Chuyên đề Tai Mũi Họng – Mắt
155
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học

Do đặc tính của mộng thòt là một bệnh có tỷ lệ
tái phát cao sau phẫu thuật, nên các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước từ trước đến nay tập
trung vào vấn đề này rất nhiều. Riêng về vấn đề loạn
thò giác mạc do mộng thòt, ở Việt Nam cho đến nay
vẫn chưa thấy công trình nào nghiên cứu, nhưng ở
Mỹ và các nước châu u nhờ có giác mạc đồ đã

nghiên cứu về khía cạnh này khá
nhiều
(6,10,19,22,23,31,32,35)
. Tuy nhiên, hầu hết các công
trình đều dừng lại ở chỗ so sánh sự thay đổi độ loạn
thò giác mạc trước và sau phẫu thuật cắt mộng, còn
những vấn đề có liên quan đến những sự xáo trộn
khúc xạdo mộng thòt gây nên thì vẫn chưa có câu trả
lời thống nhất. Để góp phần trả lời cho câu hỏi này,
chúng tôi sử dụng giác mạc đồ với máy hiệu TMS-3
khảo sát độ loạn thò giác mạc trung tâm trên bệnh
nhân bò mộng thòt. Và trên cơ sở đó, rút ra một số
nhận đònh để bổ sung vào việc đánh giá loạn thò giác
mạc sau những phẫu thuật có ảnh hưởng bề mặt
trước giác mạc cũng như chỉ đònh phẫu thuật phù
hợp với bệnh học.
Mục tiêu nghiên cứu.
Khảo sát độ loạn thò không đều của giác mạc
trung tâm ở hai kích thước đường kính 3mm và 5mm
tương ứng với mỗi độ xâm lấn của mộng thòt vào giác
mạc và những xáo trộn khúc xạ có liên quan đến loạn
thò giác mạc do mộng thòt.
ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
-Cở mẫu được tính theo công thức : n = Z(2).P(1
– P) / d(2)Ỉ n = 299 mắt.
-Mẫu được chia thành 4 nhóm tương ứng với 4 độ
mộng: độ I (0,2 – 1mm), độ II (1,1mm – 3mm), độ
III (3,1 – 4,5mm) và độ IV (>4,5mm).

-Tiêu chuẩn chọn mẫu: bao gồm, không phân
biệt giới, mọi lứa tuổi, mộng thòt nguyên phát,
không có các khối u ở mi và vùng rìa, không có các
bệnh lý giác mạc đi kèm cũng như các bệnh lý gây
kích thích tiết nhiều nước mắt (như: lông siêu, sạn
vôi), nhãn áp trong giới hạn bình thường, mắt còn
khả năng đònh thò.
Phương pháp nghiên cứu
-Thiết kế nghiên cứu : nghiên cứu chọn mẫu
mô tả cắt ngang.
-Phương tiện nghiên cứu : giác mạc đồ TMS-3
(Topographic Modeling System) Giác mạc đồ TMS-
3 là máy chụp hình giác mạc tự động, được sản
xuất năm 1998, là thế hệ thứ 5 của loại máy này.
TMS-3 hoạt động dựa trên nguyên lý của đóa
Placido, đóa này có cấu trúc như một hình nón
cụt, trên đó có 28 vòng tròn đồng tâm có kích
thước tăng dần từ trung tâm ra ngoại biên, các
vòng tròn này phát sáng khi chụp hình giác mạc
và khoản cách giữa các vòng khi chiếu lên giác
mạc là 180 micromet. Khi các vòng phản xạ
được ghi vào bộ nhớ của máy vi tính nhờ một
một máy chụp hình giác mạc (CCD camera: là
loại máy chuyển các tín hiệu hình ảnh thành
các tín hiệu bằng số) thì phần mềm sẽ xử lý các
thông tin nhằm xác đònh khoản cách giữa các
vòng tròn trên 256 kinh tuyến đã được lập trình
sẳn. Qua một thuật toán trong chương trình của
máy vi tính, các khoản cách này được liên kết
với những khoản cách tương ứng trên một bề

mặt hình cầu được thiết kế theo lý thuyết. Sự
khác biệt giữa các dữ liệu thu thập được và dữ
liệu theo lý thuyết sẽ cung cấp các yếu tố cho sự
tái tạo lại bề mặt thật của giác mạc.
Phương pháp xử lý theo toán học này có thể
áp dụng cho mọi điểm trên giác mạc theo hai
cách thể hiện: bằng hình ảnh bản đồ hoặc bằng
số
(2,11,18,20,24,25,30, 36,37,39,40,41,43,44)
.
Các bước tiến hành
Khám bệnh nhân trước khi chụp hình giác
mạc, gồm có : đo thò lực, đo nhãn áp, đo kích
thước mộng thòt, khám qua đèn khe để xác đònh
thể lâm sàng.
Chụp hình giác mạc.
Lấy số liệu.
Phân tích và xử lý số liệu : SPSS 7.05
Chuyên đề Tai Mũi Họng – Mắt
156
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

KẾT QUẢ
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Bảng 1 : Phân bố bệnh theo giới tính, tuổi và độ
mộng.
Số lượng Tỷlệ (%)
Nam 109/299 36,5%
Giới

Nữ 190/299 63,5%
< 30
14/299 4,7%
30 – 50
160/299 53,5%
Tuổi:
> 50
125/299 41,8%
I
96/299 32,1%
II
107/299 35,8%
III
67/299 22,4%
Độ mộng:
IV
29/299 9,7%
Nhận xét:
Bệnh phân bố ở phái nữ nhiều hơn phái nam.
Bệnh xảy ra chủ yếu ở tuổi > 30 (95,3%).
Bệnh tập trung chủ yếu từ độ I đến độ III
(90,3%).
Phân bố bệnh theo độ mộng và thể
lâm sàng.
Bảng 2. phân bố bệnh theo độ mộng và thể lâm sàng
Độ mộng Thể tiến triển Thể xơ Tổng số
I
61(63,5%) 35(36,5%) 96(100%)
II
76(71,0%) 31(29%) 107(100%)

III
50(74,6%). 17(25,4%) 67(100%)
IV
24(82,8%) 5(17,2%) 29(100%)
Nhận xét:
Trong từng độ mộng, số lượng bệnh của thể tiến
triển bao giờ cũng lớn hơn thể xơ.
Sự biến thiên tăng dần của các tỷ lệ trên không có
ý nghóa về thống kê (p = 0,179).
Độ loạn thò giác mạc > = 1d do mộng
thòt.
Bảng 3. Tỷ lệ những trường hợp loạn thò > = 1D ở
đường kính 3mm và 5mm.
Độ mộng Đường kính 3mm Đường kính 5mm
I
47/96(49%) 50/96(52,1%)
II
72/107(67,3%) 72/107(67,3%)
III
55/67(82,1%) 59/67(88,1%)
IV
29/29(100%) 29/29(100%)
Nhận xét: Ở cả 2 đường kính 3mm và 5mm số
trường hợp có độ loạn thò > = 1D gia tăng theo độ
mộng và sự biến thiên này có ý nghóa thống kê với p
< 0,001.
Độ loạn thò trung bình theo thể lâm
sàng
-Ở đường kính 3mm, độ loạn thò trung bình giữa
2 thể lâm sàng từ độ I đến độ III không có sự khác

biệt có ý nghóa thống kê (p > 0,05). Chỉ có ở độ IV
thể xơ có độ loạn thò cao hơn thể tiến triển (p =
0,023).
-Ở đường kính 5mm, độ loạn thò trung bình giữa
hai thể lâm sàng không có sự khác biệt ở tất cả các độ
mộng (p > 0,05).
Độ loạn thò trung bình giữa 2 đường
kính 3mm và 5mm.
Bảng 4. Độ loạn thò trung bình giữa 2 đường kính 3
và 5mm.
Độ mộng 3mm(D) 5mm(D) Độ loạn trung bình(D)
I 0,81 0,95 0,88
II 1,25 1,68 1,47
III 3,11 3,89 3,50
IV 5,21 6,55 5,88
Nhận xét:
Trong từng độ mộng, độ loạn thò trung bình ở
đường kính 5mm bao giờ cũng lớn hơn ở 3mm (p <
0,001). Vàđộ loạn thò tăng dần theo độ mộng, đặc biệt
tăng đột biến từ độ III.
Mối tương quan giữa độ mộng và độ
loạn thò.
- Ở đường kính 3mm, kết quả cho thấy mối
tương quan giữa độ mộng và độ loạn thò giác mạc là
mối tương quan thuận, với p = 0,0001 và hệ số tương
quan r = 0,606.
-Cũng vậy, ở đường kính 5mm, với p = 0,0001 và
r = 0,661.
Sự thay đổi của 2 chỉ số SRI và SAI.
SRI (Surface Regularity Index: chỉ số điều hoà bề

mặt): Dùng để đánh giá sự dao động bề mặt giác mạc
trung tâm. Còn SAI (Surface Asymmetric Index: chỉ
số mất cân đối bề mặt): Dùng để đánh giá sự mất cân
đối của toàn thể bề mặt giác mạc.
Chuyên đề Tai Mũi Họng – Mắt
157
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học

Mỗi chỉ số trên có 3 trò số : bình thường, nghi
ngờ và bất thường. Theo kết quả nghiên cứu này:
-SRI, trò số nghi ngờ tăng theo độ mộng (p <
0,001), nhưng không có trường hợp nào có trò số bất
thường.
-SAI, trò số bất thường tăng theo độ mộng (p <
0,001).
Sự liên quan giữa công suất khúc xạ
bề mặt giác mạc và loạn thò giác mạc
Từ độ I đến độ III, mỗi độ đều có 2 tình huống
xảy ra : có loạn thò và không loạn thò. Dùng SimK là
trò số biểu diễn công suất khúc xạ cao nhất của kinh
tuyến ở giác mạc trung tâm để tìm hiểu xem trò số
này và loạn thò giác mạc có sự liên quan gì với nhau
hay không, kết quả cho thấy:
Bảng 5. Công suất khúc xạ bề mặt giác mạc
Độ mộng Không loạn thò(D) Có loạn thò(D) Po
I 40.06 40,80 0,004
II 39,78 40,93. 0,001
III 39,93 40,73. 0,092
Nhận xét: Ở độ I và độ II, sự khác biệt có ý nghóa
thống kê (p < 0,05).

Bảng này không có độ IV vì ở độ này tất cả các
trường hợp đều bò loạn thò.
Những trường hợp có loạn thò và thò
lực 10/10
Trong tổng số 299 trường hợp có 90 trường hợp
bò loạn thò nhưng thò lực vẫn duy trì 10/10. Phân tích
các đặc điểm cho thấy như sau:
Hầu hết các trường hợp xảy ra ở người < = 50
tuổi (91,1%), và phần lớn tập trung ở độ I và độ II
(73,4%).
Độ loạn thò < = 3D chiếm đa số (91,1%).
Những người > 50 tuổi và độ loạn > 3D: không
có trường hợp nào.
BÀN LUẬN
Khi khảo sát mối tương quan giữa độ loạn thò giác
mạc và độ mộng ở 2 kích thước đường kính 3mm và
5mm, kết quả cho thấy đây là mối tương quan thuận
với hệ số tương quan mạnh r (3mm) = 0,606 và r
(5mm) = 0,661. Nghóa là khi độ mộng càng tăng thì
độ loạn thò cũng sẽ tăng theo (p = 0,001), đặc biệt từ
độ III mức độ loạn thò tăng đột biến > 3D, và đây là
điểm mốc cần lưu ý. Vì khi bò loạn thò > 3D thì hầu
hết û các trường hợp đều bò giảm thò lực. Do đó trên
lâm sàng khi bệnh nhân bò mộng thòt từ độ III, xét về
mặt chức năng thò giác hai mắt thì nên có chỉ đònh
phẫu thuật. Bên cạnh đó, độ loạn thò trung bình ở
đường kính 5mm bao giờ cũng lớn hơn ở 3mm (p <
0,001). Điều đó cho thấy, độ loạn thò giác mạc có
khuynh hướng giảm dần từ vùng rìa vào trung tâm
giác mạc. Hay nói khác đi, với ánh sáng trong phòng

(đường kính 5mm) mắt sẽ bò những tác hại xấu về
mặt khúc xạ nhiều hơn ở ánh sáng ngoài trời (đường
kính 3mm).
Về đặc điểm của các thể lâm sàng, thể tiến triển
bao giờ cũng có tỷ lệ bệnh cao hơn thể xơ (p <
0,0001), và tỷ lệ này không thay đổi ở mọi độ mộng
(p = 0,179). Kết quả này phối hợp với bệnh sinh của
mộng thòt thì thấy rằng, mộng thòt dù ở độ mộng nào
thì hoạt tính và khả năng tái phát vẫn luôn luôn cao.
Do đó, khi chúng ta để bệnh tồn tại lâu ngày là đồng
nghóa với việc chấp nhận cho giác mạc có nguy cơ bò
sẹo và bò biến dạng càng nhiều. Vì vậy, việc cố gắng
tìm ra một phương pháp điều trò hữu hiệu ngay khi
mộng mới xuất hiện là cần thiết, mà yếu tố mấu chốt
ở đây là làm sao ức chế được các tế bào mầm ở vùng
rìa bò biến đổi – còn gọi là tế bào mộng thòt.
Mặt khác, về mức độ gây loạn thò thì 2 thể lâm
sàng nhìn chung là như nhau, duy chỉ có độ IV ở
đường kính 3mm thì thể xơ gây loạn thò nhiều hơn
thể tiến triền (p = 0,023), điều này có thể do đặc
điểm giải phẫu bệnh của thể xơ là : mô xơ nhiều gây
co kéo, kèm với yếu tố loạn dưỡng trên nền một bề
dày giác mạc quá mõng ở trung tâm.
Đề cập đến vai trò của công suất khúc xạ bề mặt
trong mối tương quan giữa độ loạn thò giác mạc và độ
mộng, theo chúng tôi là vấn đề mới, được phát hiện
một cách ngẫu nhiên. Vì sau khi tổng kết các số liệu
nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng, từ độ I đến độ III,
trong cùng một độ mộng có trường hợp bò loạn thò
nhưng cũng có những trường hợp không bò loạn thò.

Để trả lời cho thắc mắc này, chúng tôi đã so sánh bản
Chuyên đề Tai Mũi Họng – Mắt
158
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

đồ giác mạc của nhóm có loạn thò và không loạn
thò trên cùng một độ mộng thì nhận thấy, bản đồ
giác mạc của nhóm có loạn thò có màu sáng hơn
nhóm không loạn thò – có nghóa là, công suất bề
mặt giác mạc của nhóm có loạn thò cao hơn nhóm
không loạn thò. Khi đêm các số liệu xử lý bằng toán
thống kê thì kết quả cũng phù hợp với nhận xét
trên. Cụ thể là, ở độ I và độ II, công suất khúc xạ
bề mặt của nhóm có loạn thò cao hơn nhóm không
loạn thò, và sự khác biệt này có ý nghóa thống kê
(pI = 0,004 ; pII=0,001), còn ở độ III, kết quả
cũng như vậy nhưng sự sai biệt không có ý nghóa
thống kê (p=0,092). Tuy nhiên, với kết quả ở độ I
và độ II, cho phép chúng tôi đưa ra nhận xét như
sau : Dưới một tác động cơ học như nhau, bề mặt
giác mạc nào có công suất khúc xạ càng cao thì có
nguy cơ loạn thò càng nhiều và ngược lại, công suất
khúc xạ càng thấp thì nguy cơ loạn thò sẽ ít hơn.
Đối với chỉ số SRI, kết quả không có trò số bất
thường, ngay cả ở độ IV. Điều đó cho thấy, nếu mắt
sử dụng chức năng điều tiết thì có thể duy trì được thò
lực 10/10 trong những trường hợp loạn thò nhẹ, vì
nếu chỉ số SRI tăng cao đến mức bất thường thì mắt
luôn bò giảm thò lực dù có cố gắng sử dụng chức năng

điều tiết(25).
Còn chỉ số SAI thì trò số bất thường tăng theo độ
mộng (p = 0,001). Như vậy, khi độ mộng càng tăng
thì tính mất cân đối của bề mặt giác mạc càng trầm
trọng và sự biến thiên của trò số này có ý nghóa là,
mộng thòt không phải đơn thuần gây ra loạn thò tính
theo sự sai biệt giữa trục có công suất khúc xạ cao
nhất với trục có công suất khúc xạ thấp nhất mà còn
là sự biến dạng, mất tính cân đối của toàn bộ bề mặt
giác mạc.
Loạn thò đi kèm với giảm thò lực là điều tất yếu,
nhưng theo kết quả của đề tài nghiên cứu này có
90/299 trường hợp bò loạn thò nhưng thò lực vẫn đạt
10/10. Trong đó, phần lớn tập trung ở người < = 50
tuổi(91,1%), ở độ I và độ II chiếm đa số (73,4%), và độ
loạn thò thường < 3D (91,1%). Tuy nhiên, những
người > 50 tuổi và có độ loạn thò > 3D thì không có
trường hợp nào. Kết quả trên đây, mặc dầu là loạn thò
giác mạc không đều nhưng vẫn giống với loạn thò
giác mạc đều, ở chổ, khi mắt có khả năng điều tiết để
đưa một trong hai tiêu tuyến trùng lên võng mạc thì
mắt có thể duy trì được thò lực 10/10(1). Những
trường hợp này thường chỉ xảy ra với những người <
= 50 tuổi và độ loạn thò < 3D.
KẾT LUẬN
Mộng thòt gây ra loạn thò giác mạc với những đặc
điểm sau đây:
Mối tương quan giữa độ loạn thò giác mạc và độ
mộng là mối tương quan thuận. Và độ loạn thò tăng
đột biến từ độ III (> 3D).

Độ loạn thò ở đường kính 5mm bao giờ cũng lớn
hơn ở 3mm.
Thể tiến triển bao giờ cũng có tỷ lệ bệnh cao hơn
thể xơ ở mọi độ mộng, và nhìn chung,độ loạn thò giữa
2 thể lâm sàng là không khác nhau.
Trong cùng một độ mộng, bề mặt giác mạc nào
có công suất khúc xạ càng cao thì có nguy cơ bò loạn
thò càng nhiều, và ngược lại, công suất khúc xạ càng
thấp thì nguy cơ bò loạn thò ít hơn.
Mộng thòt gây ra loạn thò giác mạc với đặc điểm
gây biến dạng toàn bộ giác mạc.
Khả năng điều tiết của mắt có thể duy trì thò lực
ở mức 10/10 trong những trường hợp có độ loạn thò
< = 3D, nhưng với điều kiện phải < = 50 tuổi.
Trong những nhận xét trên đây, có một vấn đề
mà theo chúng tôi là một phát hiện mới khá thú vò.
Đó là vai trò của công suất khúc xạ bề mặt trong mối
tương quan giữa một lực tác động cơ học lên bề mặt
giác mạc và mức độ loạn thò của giác mạc. Vì theo kết
quả của nghiên cứu này cho thấy, dưới một tác động
cơ học như nhau, bề mặt giác mạc nào có công suất
khúc xạ càng cao thì nguy cơ bò loạn thò càng nhiều,
và ngược lại. Nhưng từ trước đến nay khi nghiên cứu
về loạn thò giác mạc sau các phẫu thuật có ảnh hưởng
đến giác mạc, chúng ta chỉ thuần tuý xét về độ loạn
thò của từng trường hợp trước và sau phẫu thuật mà
không bao giờ đề cập đến yếu tố công suất khúc xạ bề
mặt. Vì nếu chúng ta có đưa yếu tố này thành một
biến trong phép toán thống kê thì sẽ thấy, với cùng
một kỹ thuật mỗ do một phẫu thuật viên thực hiện,

Chuyên đề Tai Mũi Họng – Mắt
159
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học

thì nhóm bệnh có công suất khúc xạ bề mặt giác mạc
cao sẽ có tỷ lệ loạn thò nhiều hơn nhóm có công suất
khúc xạ thấp. Như vậy, loạn thò giác mạc sau một
phẫu thuật không chỉ phụ thuộc vào kỹ thuật mỗ của
phẫu thuật viên mà còn phụ thuộc vào chính công
suất khúc xạ bề mặt của giác mạc. Tuy nhiên, đây chỉ
là nhận xét bước đầu nên chỉ có giá trò tương đối về
măt khoa học, do đó cần được nghiên cứu thêm trong
tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Dẫn. Loạn thò. Thực hành nhãn khoa 2001; 7:
105 – 117.
2. Đoàn Trọng Hậu. Khúc xạ Mắt. Nhãn khoa lâm sàng
1988 ; 29 : 285 – 286.
3. Đoàn Trọng Hậu. Loạn thò. Nhãn khoa lâm sàng 1988;
33: 315 – 329.
4. Lê Đỗ Thuỳ Lan. Ghép lớp giác mạc khô trên cũng
mạc để điều trò mộng thòt. Kỷ yếu công trình nghiên
cứu khoa học ngành mắt 1998; 1: 2-8.
5. Lê Minh Thông. Giải phẫu học và sinh lý mắt. Giáo
trình nhãn khoa 1997; 1:11.
6. Adnal Cinal. The effect of Pterygium surgery on
corneal topography.
Ophthalmic surgery and laser 2001; 32: 236-238.
7. AAO. Pterygium. External disease and cornea 1998-
1999; 18: 339-341.

8. AAO. Pterygium Excision. External disease and
cornea 1998-1999; 22: 394-396.
9. AAO. Basic science of keratorefractive surgery.
External disease and cornea 1998-1999; 25: 437-442.
10. Ashaye AO. Refractive astigmatism and pterygium.
Afr j Med Sci 1990; 19: 225-228.
11. Dingeldein SA. Quan titative descriptor of corneal
shape derived from computer-assisted analysis of
photokeratographs. Refractive and corneal surgery
1989; 5: 372-378.
12. Dushku N, et al. Expression and relation to human
papillomavirus infection in pingueculae, pterygia and
limbal tumors.Arch ophthalmol 1999; 117: 1593-1599.
13. Detorakis ET. Detection of herpes simplex virus and
HPV in ophthalmic pterygium. Cornea 2001; 20: 164-
167.
14. EngHL, et al. Failure to detect human papillomavirus
DNA in malignant epithelial neoplasm of conjucntiva
by polymerase chain reaction. Am j clin Pathol 2002;
17: 429-436.
15. F. Piras, PS Moore. Detection of HPV DNA in
pterygia from different geographical regions. Br J
ophthalmol 2003; 87: 864-866.
16. Gallager MJ, et al. Human papillomavirus in
pterygium. Br j ophthalmol 2001; 85: 782-784.
17. Husnjak. K, et al. Comparision of five different
polymerase chain reaction methods for detection of
human papillomavirus in cervical cell specimens. J
viral methods 2000; 88: 125-134.
18. Hayashi K. Topographic analysic of early changes in

corneal astigmatism after cataract surgery. J. Cataract
refract surg 1993; 19:43.
19. Ibechukwu BI. Astigmatism and visual impairment in
pterygium – affected eyes in Jos, Nigeria. East Afr
Med journal 1990; 67: 912-917.
20. Klyce SD. Standardized color-coded maps for corneal
topography.Ophthalmology 1993; 100: 1723-1727.
21. K – Hchen. Lack of HPV in pterygium of chinese
patients from Taiwan. British j ophthal 2003; 87:
1046-1047.
22. Kee Siew Fong. Refractive change following pterygium
surgery. The CLAO journal 1998; 24:02.
23. Lin A, Stern GA. Correlation between pterygium size
and induced corneal astigmatism.Cornea 1997; 17: 28-
30.
24. McDonald MB. Changes in corneal topography after
excimer laser. Ophthalmology 2001; 98: 1338-1347.
25. Maguire LJ. Graphic presentation of
computeranalyzed keratoscope photographs. Arc
Ophthalmol 1997; 105:223.
26. Mc Donnel JM, et al. HPV DNA in a recurrent
squamous carcinoma of the eyelid. Arch ophthalmol
1989; 107: 1631-1634.
27. Moly Kuuty K. John. Pterygia pathogenesis. Arch
ophthalmol 2001; 119: 695-706.
28. Parker PJ. Central topographic island following PRK.
Invest Ophthalmol Vis Ci. 1993 ; 34 : 803.
29. Paul U. Fechner. Pterygium. Ocular therapeutics 1998;
16: 369 and 26: 587. Refraction and corneal surgery
1990; 6: 26-31.

30. Reidy JJ. Corneal topography.
31. Rahamin Avisar. Pterygium – induced corneal
astigmatism. IMAJ 2000; 2: 14-15.
32. Riedel T. Impact of pterygium size on corneal
topography and visual acuity. Jahrestagung der DOG
2001; 29:09.
33. R. J. Buckley. The cornea.Clinical ophthalmology
1987; 5: 136-137.
34. R. Douglas Cullom. Pterygium/ Pingueculum. The
Willis eye manual 1994; 4.10: 65-67.
35. Stern GA. Effect of pterygium induced corneal
topographic abnormalities. Cornea 1998; 17: 23-27.
36. Stefen Kaufman. Corneal topography and imaging.
Emedicine 2002; 1: 1-9.
37 Stephen Klyce. Introduction to keratoscopy. Corneal
Topography 1998; 1: 2-5.
38. TW. Reid. Dose human papillomavirus cause
pterygium ?.Br J ophthalmol 2003; 87: 806-808.
39. Tomidokoro A. Quantitative evaluation of corneal
irregular astigmatism using computed corneal
topography. Nippon Ganka gakkai zassbi 1995 ;
99 :292-301.
40. Tomey corporation USA. TMS-3 Auto topographer
system guide 1998.
41. Umberto Merlin. The fundamental of keratoscopy.
Corneal Topography 1998; 5: 1-82.
42. Varinli S. HPV in pterygium. Cent Afr J Med 1994;
40: 24-26.
43. Wilson SE. Quantitative descriptors of corneal
topography. Arch Ophthalmol 1999; 109: 249-353.

Chuyên đề Tai Mũi Họng – Mắt
160
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

44. Wilson SE. Screening for corneal topographic
abnormalities prior to refractive surgery.
Ophthalmology 1994; 101: 147-152.
45. Zur Hausen H. HPV infections : a major cause of
human cancer. Biochem Biopys AC 1996; 1288: 55-78.

Chuyên đề Tai Mũi Họng – Mắt
161

×