Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

BỘ môn NHỮNG NGUYÊN lý cơ bản CHỦ NGHĨA mác LÊNIN hãy bình luận CNXH khoa học theo nghĩa rộng là chủ nghĩa mác – lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.26 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
*********

BỘ MÔN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN

Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Giảng viên: Thầy Thuân
Họ và tên: Nguyễn Quỳnh Thư ( MSV: 11194967 )
Lớp: POHE - Quản trị kinh doanh thương mại K61


CÂU HỎI ƠN TẬP CHƯƠNG 3
Câu 1. Hãy bình luận: “CNXH khoa học theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác – Lênin”.
1. Khái niệm
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một ý nghĩa – về mặt lý luận nằm trong khái niệm “chủ nghĩa xã
hội”, là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên cứu sự vận động xã hội
nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Với tư cách là một bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học có
những đặc điểm đáng chú ý:
Một là, chỉ rõ con đường hiện thực dựa vào khoa học để thủ tiêu tình trạng người bóc lột người
và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết đến những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những
người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã hằng mơ ước.
Hai là, dựa vào những kết luận của hai bộ phận hợp thành khác của chủ nghĩa Mác-Lênin là
triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và kinh tế học chính trị.
Ba là, chủ nghĩa xã hội khoa học là thế giới quan, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp cơng nhân,
biểu hiện những lợi ích của giai cấp này trong nhiệm vụ xây dựng lại xã hội một cách cách mạng.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội khoa học tổng kết không những kinh nghiệm đấu tranh giai cấp của
giai cấp công nhân, kinh nghiệm cách mạng xã hội chủ nghĩa mà cả kinh nghiệm của những phong
trào dân chủ của quần chúng, của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản và giải phóng dân tộc.


2. Bình luận: “CNXH khoa học theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác – Lênin”.
Theo nghĩa hẹp thì chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận của chủ nghĩa MácLênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học đã dựa trên phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; đồng thời cũng dựa trên những cơ sở lý luận khoa học về các quy luật kinh tế, quan hệ
kinh tế... để luận giải một cách khoa học về quá trình nảy sinh cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình
thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, gắn liền với sứ mệnh lịch sử có
tính tồn thế giới của giai cấp công nhân hiện đại, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội.


Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác-Lênin (gồm cả 3 bộ phận).
Nói về nghĩa rộng của chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin khẳng định: “chủ nghĩa xã hội khoa
học tức là chủ nghĩa Mác”. Bởi vì, suy cho cùng cả triết học Mác lẫn kinh tế chính trị Mác đều dẫn
đến cái tất yếu lịch sử là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Người lãnh đạo, tổ chức cùng nhân dân thực hiện sự nghiệp cách mạng lâu dài
và triệt để đó chỉ có thể là giai cấp cơng nhân hiện đại, thơng qua đảng của nó. Mà phạm trù “giai
cấp công nhân” và “sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân” lại trực tiếp là những phạm trù cơ bản
nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Cho nên, gọi toàn bộ chủ nghĩa Mác (hay chủ nghĩa MácLênin) là chủ nghĩa xã hội khoa học theo nghĩa rộng là nói về thực chất và mục đích của tồn bộ
chủ nghĩa Mác-Lênin. Thậm chí, khi nghiên cứu kỹ lưỡng bộ Tư bản của C.Mác, V.I.Lênin đã xác
định rằng: "bộ "Tư bản" - tác phẩm chủ yếu và cơ bản ấy trình bày chủ nghĩa xã hội khoa học...
những yếu tố từ đó nảy sinh ra chế độ tương lai”.
Câu 2. Anh hay chị hãy luận giải: Quá trình lịch sử – kinh tế nào đã nảy sinh ra giai cấp
tư sản, giai cấp vô sản và sự xung đột giữa hai giai cấp ấy?
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là quá trình lịch sử - kinh tế đã nảy sinh ra giai cấp tư sản, giai
cấp vô sản và sự xung đột giữa hai giai cấp ấy.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển mới của nhân loại.
Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu hiện tập trung nhất là sự ra đời của cơng
nghiệp cơ khí (Cách mạng cơng nghiệp lần thứ 2), chủ nghĩa tư bản đã tạo ra bước phát triển vượt
bậc của lực lượng sản xuất. Trong vòng chưa đầy một thế kỷ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được một
lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất mà nhân loại tạo ra đến lúc đó. Tuy
nhiên, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất càng được cơ khí hố, hiện đại hố càng

mang tính xã hội cao , thì càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất từ chỗ đóng vai trị mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển, thì ngày càng trở nên lỗi thời, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hố của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, biểu hiện về
mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân hiện đại (giai cấp vô sản) với giai cấp tư sản lỗi
thời. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ đầu và ngày càng
trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ nét. Mác và Ăngghen chỉ rõ: “Từ chỗ là những hình thức phát


triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành những xiềng xích của lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng”.
Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền đại cơng nghiệp cơ khí là sự trưởng thành
vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại công nghiệp.
Chính sự phát triển về lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân là tiền đề kinh
tế - xã hội dẫn đến sự sụp đổ của không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Diễn đạt tư tưởng đó, Mác
và Ăngghen cho rằng, giai cấp tư sản khơng chỉ tạo vũ khí để giết mình mà cịn tạo ra những người
sử dụng vũ khí đó, những công nhân hiện đại, những người vô sản. Sự trưởng thành vượt bậc và
thực sự của giai cấp công nhân được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng cộng sản, đội tiền phong
của giai cấp công nhân, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân chống
giai cấp tư sản.
Câu 3. Ph. Ăngghen viết: “… Xanh Ximơng, Phuriê, Ơoen, ba con người- mặc dầu tất cả
tính khơng tưởng và ảo tưởng trong các học thuyết của họ - thuộc về những trí tuệ vĩ đại nhất
của tất cả mọi thời đại và tiên đốn một cách thiên tài vơ số những chân lý mà ngày nay
chúng ta đang chứng minh sự đúng đắn của chúng một cách khoa học”. Anh hay chị hãy xác
định những chân lý mà ba nhà chủ nghĩa xã hội khơng tưởng đã tiên đốn.
1. H.Xanh Xi mơng (1769 - 1825)
Một trong những nội dung nổi bật trong tư tưởng của Xanh Xi mông là lý luận
giai cấp và xung đột giai cấp. Theo ông, xã hội đương thời chia thành ba giai cấp:
quý tộc, nhà tư tưởng, nhà cơng nghiệp, trong đó, giai cấp nhà cơng nghiệp là giai

cấp trí tuệ, có khả năng quản lý đất nước.
Trong giai cấp nhà công nghiệp ông đã phân biệt thành hai nhóm: một bên là
giai cấp ít ỏi những người sở hữu; một bên khác đông đảo những người không có
của. Ơng nhận thấy cuộc đấu tranh giữa những người khơng có của và những
người sở hữu là điều khơng tránh khỏi. Vào cuối đời, Xanh Xi mơng đã có ý niệm
cho rằng, cơ sở của xã hội thuộc về giai cấp “những người công nhân làm lao
động thủ công”, do vậy, giải phóng giai cấp cần lao là mục đích cuối cùng của
ơng.


Xanh Xi mơng có thái độ phê phán đối với cách mạng tư sản Pháp vì nó chưa
triệt để, chưa đem lại quyền lợi cho giai cấp nghèo khổ nhất và đơng đảo nhất, do
đó theo ơng cần phải có một cuộc cách mạng mới. Ông phê phán gay gắt xã hội
vơ chính phủ cơng nghiệp Pháp và cho rằng đó là xã hội “lộn ngược”: người nghèo
phải rộng lượng với người giàu; kẻ phạm tội lớn nhất có quyền trừng phạt những
lỗi lầm nhỏ nhất; kẻ khơng có năng lực, vô đức hạnh lại đi điều khiển và dạy đức
hạnh cho nhân dân... Ông mơ ước xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn mà ở đó
phân phối của cải phải có lợi cho đa số.
Tuy nhiên, khi thực hiện mơ ước xây dựng một xã hội mới tốt đẹp Xanh Xi
mông lại chủ trương đi theo con đường hồ bình, vì vậy, tư tưởng của ơng đã trở
thành ảo tưởng, không tưởng.

2. Sáclơ Phuriê (1772 - 1837)
Một trong những tư tưởng đặc sắc của Phuriê đó là phê phán và lên án xã hội
tư sản một cách sâu sắc, vì theo ơng, đó là một “trạng thái vơ chính phủ của cơng
nghiệp”, trong đó “sự nghèo khổ sinh ra chính từ sự thừa thãi”. Ơng kịch liệt phê
phán tình trạng cạnh tranh diễn ra trong nền thương nghiệp tư bản chủ nghĩa mà
hậu quả của nó là thị trường rối loạn và người lao động bị bần cùng hoá.
Phuriê phê phán đạo đức trong xã hội tư sản đương thời vì nó hạn chế, bắt bẻ,
phiền phức đối với người nghèo, trong khi đó nó lại là mặt nạ để cho người giàu

che đậy một âm mưu, hành động tội ác. Theo ông, trong xã hội tư sản, người
nghèo chỉ bình đẳng trên danh nghĩa, cịn trên thực tế họ phải chịu đựng mọi bất
bình đẳng và rơi vào cạm bẫy của người giàu. Ông phê phán gay gắt hơn nhân tư
sản vì thực tế nó là sự giao kèo bn bán, hợp thức hố sự sa đoạ làm cho phụ nữ
bị mất quyền. Phuriê coi việc giải phóng phụ nữ là thước đo mức độ tự do trong
mọi xã hội.
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Phuriê là ông đã nêu quan niệm biện chứng về
lịch sử. Ơng chia lịch sử xã hội lồi người thành 4 giai đoạn: mông muội, dã man,
gia trưởng và văn minh. Ông cũng chia sự phát triển của mỗi chế độ xã hội thành
bốn giai đoạn phát triển tương ứng như bốn giai đoạn của cuộc đời con người: thơ
ấu, thanh niên, trưởng thành và tuổi già. Theo ông, nước Pháp, Anh lúc đó đang ở


giai đoạn văn minh thứ ba và ngả sang giai đoạn tuổi già và ông hy vọng, sau giai
đoạn này, xã hội đi vào một thời kỳ mới - thời kỳ văn minh của những “bảo đảm
xã hội”, tiến lên giai đoạn “xã hội hài hồ”, trong đó có sự thống nhất giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích tập thể trên cơ sở tổ chức các hiệp hội làm ăn tập thể mà ơng
gọi là phalănggiơ. Ơng quan niệm trong xã hội hài hoà tất cả mọi năng lực của
con người sẽ được hoàn thiện, cá nhân con người sẽ được phát triển tới mức chưa
từng thấy.
Tuy nhiên, con đường đạt tới xã hội hài hoà của Phuriê là hồ bình, nhờ vào sự
giúp đỡ của những kẻ có quyền hành và tiền của. Ông phản đối bạo lực. Do vậy,
ông không vượt qua được những bậc tiền bối của mình khi tìm biện pháp xây dựng
xã hội mới và tư tưởng của ông chỉ dừng lại ở sách vở.

3. Rơbớt Ơ-oen (1771 - 1858)
Một trong những nội dung nổi bật trong tư tưởng của R.Ô-oen là quan niệm của
ông khi bàn về bản chất con người. Theo ông, bản chất con người được hình thành
thơng qua sự tác động qua lại giữa con người với con người diễn ra ở mơi trường
bên ngồi, trong đó những tác động có tính khách quan đến việc hình thành bản

chất con người có ý nghĩa quan trọng nhất. Xã hội tương lai dựa trên sự hiểu biết
khoa học về các quy luật của bản chất con người, sẽ là một xã hội hài hoà, một xã
hội thực sự là của con người.
Ơ-oen là người có khuynh hướng duy vật và tiến bộ hơn so với những đại biểu
không tưởng cùng thời, khi cho rằng sự phát triển của lịch sử gắn liền với sự thay
đổi trong các phương thức sản xuất. Theo ơng, “lực lượng vật chất đang chín muồi
trong lịng xã hội, cuối cùng sẽ dẫn đến sự thay đổi xã hội và đây là nấc thang cần
thiết, chuẩn bị dẫn đến cuộc cách mạng vĩ đại và quan trọng”. Ô-oen lên án và
phủ nhận sâu sắc chế độ tư hữu vì nó làm cho người sở hữu tài sản trở thành ngu
muội, ích kỷ và tính ích kỷ đó tỷ lệ thuận với số lượng tài sản của họ; nó làm cho
con người xa cách nhau, thù hằn nhau, tàn sát, chém giết lẫn nhau bởi các cuộc
chiến tranh tàn khốc. Nó là nguyên nhân gây ra tất cả các tiêu cực và sự bất hợp
lý trong xã hội. Ô-oen đi tới kết luận phải xoá bỏ chế độ tư hữu.


Để xây dựng xã hội mới theo Ơ-oen chỉ cịn cách là thay chế độ tư hữu bằng
chế độ công hữu và xây dựng công xã là cơ sở của xã hội mới, ở đó mọi thành
viên sẽ sống như một gia đình. Ngun tắc hoạt động của cơng xã: lao động tập
thể, cộng đồng sở hữu, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa tất cả các thành
viên. Cơng xã sẽ đảm bảo cho mọi thành viên có điều kiện để phát triển.
Tuy nhiên, về con đường và phương pháp đi tới xã hội mới cũng giống như
Xanh Xi mơng, Phuriê, R.Ơ-oen cũng cho rằng chỉ có thể bằng con đường hồ
bình, bằng cách tun truyền, giải thích những chân lý cơ bản thì mới có thể hồn
thành được cuộc cách mạng vĩ đại. Ơng trơng chờ vào sự thức tỉnh của các chính
phủ và ơng chủ trương thuyết phục các chính phủ từ bỏ con đường lầm lạc, tạo
điều kiện thuận lợi để ông thực hiện cuộc cải cách của mình. Chính vì vậy, tư
tưởng tốt đẹp của ông đã rơi vào không tưởng khi đưa ra thực hiện trên thực tế.

Câu 4. Anh hay chị hãy phân tích luận điểm: CNXH khoa học ra đời giữa thế kỷ XIX là
một tất yếu lịch sử.

Những điều kiện và tiền đề khách quan chứng minh rằng Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời giữa
thế kỷ XĨ là một tất yếu lịch sử:
- Điều kiên kinh tế xã hội:
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được những bước phát triển
rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất
xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà dân chủ cách
mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách
mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành bước lên
vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập. Giai cấp công
nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.


Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên
quy mơ rộng khắp. Nó địi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn. Tiêu biểu cho các phong trào
cơng nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa cơng nhân thành phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi
nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844; phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848. Những phong
trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt
ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời để thay
thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, khơng cịn có khả năng
đáp ứng phong trào cơng nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã
hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học, văn hóa
và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức); thuyết
tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo tồn và chuyển hóa năng lượng của M. Lômônôxốp

(Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị
học Anh (Ađam Smít, Đ. Ricácđơ,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán (H. Xanhximông,
S. Phuriê, R.Ơoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư
tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
Câu 5. Anh chị hãy tự luận: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là mâu
thuẫn cơ bản nhất trong thời đại ngày nay.
1.Khái niệm thời đại:
Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt những nấc thang
phát triển của xã hội loài người.
Tuy nhiên ở mỗi ngành khoa học, mỗi phương diện công tác khác nhau có cách gọi tên và phân
chia thời đại khác nhau.


Dưới góc độ của mơn CNXHKH, chúng ta chỉ nghiên cứu thời đại về mặt chính trị - xã hội chứ
không nghiên cứu những lĩnh vực khác
Cơ sở để phân chia lịch sử xã hội loài người thành các thời đại:
+ Căn cứ vào sự xuất hiện của một hình thái kinh tế - xã hội mới
Lúc nào có một hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời, nó sẽ mở ra một thời đại mới cho lồi
người. Lồi người có 5 hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với nó có 5 thời đại lịch sử.
+ Căn cức vào sự thay đổi của vị trí trung tâm của giai cấp trong xã hội
Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, một hình thái kinh tế - xã hội có một giai cấp
giữ vai trị thống trị đứng ở vị trí trung tâm của thời đại đó. Giai cấp ở vị trí trung tâm phải là giai
cấp tiên tiến, đại diện cho xu hướng vận động của lịch sử, có khả năng tập hợp quần chúng nhân
dân đấu tranh xóa bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ mới và mở ra thời đại mới.
2.Nội dung cơ bản của thời đại ngày nay:
- Theo quan điểm của Lenin: nội dung của thời đại mới là xóa bỏ giai cấp TS và chế độ TBCN,
đồng thời thiết lập những cơ sở của xã hội mới là xã hội XHCN. Đây là quá trình lịch sử lâu dài,
bắt đầu từ CM XHCN Tháng Mười Nga, sau đó là những cuộc CM ở nhiều nước khác trên thế giới.
- Dựa trên quan điểm của Lenin, Hội nghị đại biểu các ĐCS và công nhân trong năm 1957 và
1960 đã xác định nội dung căn bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ CNTB lên CNXH và CN

cộng sản trên phạm vi toàn thế giới được mở đầu từ cuộc CM XHCN Tháng Mười Nga vĩ đại
Từ đó đến nay, mấy chục năm trơi qua và tình hình thế giới có nhiều biến chuyển đặc biệt là sau
khi LX và Đông Âu sụp đổ, song tính chất và nội dung của thời đại vẫn không thay đổi – vẫn là
thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi tồn thế giới, vì rằng:
+ CNXH tuy đang thoái trào, bị sụp đổ ở LX và Đông Âu mà nguyên nhân cơ bản là do sự sai
lầm chủ quan trong đường lối lãnh đạo của các ĐCS, nhưng bản chất của CNXH vẫn tốt đẹp, ưu
việt nên nó là mơ hình mà nhân loại lựa chọn và đi tới.


+ CNTB tuy đang phát triển và cố thích nghi để phát triển nhưng bản chất của nó vẫn là xã hội
có áp bức, bóc lột và bất cơng nên nó khống phải là tương lai mà xã hội lồi người, khơng phải là
mơ hình mà nhân loại lựa chọn đi tới như đảng ta từng khẳng định: “ CNXH hiện đứng trước nhiều
khó khăn, thử thách – Lịch sử thế giới hiện trải qua những bước quanh co; song lồi người cuối
cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Sự thắng lợi của CM XHCN T10 Ngay là một cột mốc mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH và CN cộng sản vì:
+ Sau thắng lợi CMXHCN T10 Nga, CNXH đã từ lý luận trở thành thực tiễn. Hình thái kinh tếxã hội cộng sản CN ra đời; đối lập và phủ định hình thái kinh tế - xã hội TBCN, đưa con người
thoát khỏi chế độ nô lệ làm thuê trở thành người tự do chân chính.
+ Chiều hướng phát triển tất yếu, trục xuyên suốt của sự vận động lịch sử từ sau CM XHCN
T10 Nga là đấu tranh xóa bỏ trật tự TBCN, thiếp lập và từng bước xây dựng XHCN trên phạm vi
toàn thế giới.
+ Từ sau CM XHCN T10 Nga, các nước XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở
thành lực lượng nòng cốt đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.
+ Sau CM XHCN T10 Nga, CM giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù CM XHCN, nhiều
nước sau khi giành được độc lập dân tộc đã đi lên con đường XHCN.
3.Tính chất của thời đại ngày nay:
CM XHCN T10 Nga đã mở đầu một thời đại mới mà nội dung cơ bản và tính chất của nó đã
được xác định đó là sự quá độ từ CNTB lên CNXH. Tính chất ấy của thời đại cho đến nay vẫn
không hề thay đổi. Dù CNTB vẫn cịn tồn tại và có những khả năng phát triển nhưng về nguyên tắc,

thời đại của CNTB đã trở nên lỗi thời về mặt lịch sử; thời đại đấu tranh cho sự ra đời, phát triển và
thắng lợi của CNXH đã bắt đầu, thay thế cho thời đại TS một cách tất yếu. Song cuộc đấu tranh
giữa CNXH và CNTB, giữa cái cũ và cái mới, giữa những lực lượng CM và phản CM đang diễn ra
gay go, quyết liệt trên phạm vi toàn thế giới. Cuộc đấu tranh này đang chi phối tồn bộ q trình


vận động của lịch sử nhân loại và diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế,
chính trị đến văn hóa, tư tưởng…
4.Mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay là mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB
Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, nổi cộm nhất của thời đại, mâu thuẫn giữa 2 chế độ chính trị đối
lập. Nó xun suốt thời đại từ khi CM XHCN T10 Nga thành công cho đến lúc CNXH và CN cộng
sản được xác lập trên phạm vi toàn thế giới, CNTB hoàn toàn bị thủ tiêu. Thực tiễn lịch sử từ sau
CM XHCN T10 Nga đến nay đã xác nhận mâu thuẫn này.
Sự vận động và giải quyết mâu thuẫn này có tác động, chi phối tới những mâu thuẫn còn lại của
thời đại. Mặc dù ngày nay, một số nước XHCN đã quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế và nhiều
quan hệ khác với các nước TBCN. Điều đó khơng có nghĩa là mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB dịu
đi hoặc khơng cịn nữa. Trái lại, mâu thuẫn giữa 2 chế độ này đang biểu hiện dưới dạng mới là vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, trong đấu tranh có hợp tác trên nhiều phương diện.




×