Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN lý LUẬN và THỨC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.64 KB, 19 trang )

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀO HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ
Triết học Mác - Lênin chỉ ra nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là một nguyên tắc căn bản, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với
quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người với thế giới quan. Con người ln
ln tác động tích cực vào thế giới khách quan, cải tiến thế giới khách quan
bằng thực tiễn. Trong q trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và sự
biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống
nhất biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động của con người. Đối
với lĩnh vực quân sự nói chung và người chỉ huy quân sự nói riêng, nhận thức và
vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào các hoạt động của
mình địi hỏi vừa phải qn triệt một cách tồn diện những yêu cầu chung, đồng
thời vừa phải nắm vững một cách sâu sắc những yêu cầu chung trong lĩnh vực
quân sự.
I. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
1. Phạm trù thực tiễn
Trước Mác có nhiều nhà triết học đã đề cập đến vấn đề thực tiễn với các
quan niệm khác nhau. Nghiên cứu tư tưởng của các nhà triết học duy vật trước
Mác có thể thấy được, quá trình hình thành ý thức của con người mang tính thụ
động, Phoiơbắc, nhà triết học duy vật cổ điển Đức có nhiều tư tưởng tiến bộ,
ơng cũng đã đề cập đến thực tiễn, nhưng đối với ông, thực tiễn mang tính chất
con bn bẩn thỉu, chỉ có lý luận mới là hoạt động chân chính của con người.
Do đó, nhận thức của họ cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, C.Mác đã đánh giá:
“Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ
được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không
được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn” 1. Hêghen,
nhà triết học duy tâm Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã có một số tư
1


C.Mác và Ph.Ăng ghen: Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr 9.

1


tưởng hợp lý, sâu sắc về thực tiễn. Ông cho rằng, bằng thực tiễn, chủ thể tự
“nhân đơi” mình, nhưng ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư
tưởng. Ông cho rằng, thực tiễn là một “suy lý lôgic”. Sự phát triển của khoa học
thời cận đại, nhất là sự ra đời của các ngành khoa học thực nghiệm đã làm thay
đổi nhận thức. Vì vậy, mỗi chân lý khoa học phải được chứng minh bằng thực
nghiệm. Cho dù các nhà triết học trước Mác chưa đặt ra vai trò quyết định của
thực tiễn đối với nhận thức, nhưng vai trò của thực nghiệm trong khoa học lại
được đề cập đầu tiên và đó chính là những tiền đề đặt nền tảng cho quan niệm
thực tiễn của triết học Mác.
Quá trình hoạt động thực tiễn phong phú trong phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cũng như những thành tựu khoa học
của thế kỷ XVIII. C.Mác và Ph.Ăngghen đã có công lớn trong việc đưa thực tiễn
vào nhận thức luận. Nhờ đó lý luận và thực tiễn gắn bó chặt chẽ với nhau, trở
thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới. Việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý
luận của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách
mạng trong lý luận nói chung và trong nhận thức nói riêng. Theo quan niệm của
triết học Mác - Lênin: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích
mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản
thân con người.
Như vậy có thể thấy được hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật
chất và hoạt động tinh thần. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất (C.Mác gọi là
hoạt động “cảm tính”) của con người, là những hoạt động mà chủ thể sử dụng
phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật chất nhất định nhằm cải tạo
chúng theo nhu cầu của con người. Con người sử dụng các phương tiện để tác
động vào đối tượng theo những hình thức và mức độ khác nhau tùy thuộc mục

đích của con người. Kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn là những sản phẩm
thỏa mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng, song có thể chia ra ba hình
thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động

2


thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp tác
động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất. Hoạt động
chính trị - xã hội là hoạt động của con người trực tiếp tác động vào xã hội, cải
biến các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ. Hoạt động thực nghiệm khoa học là
hoạt động của các nhà khoa học tác động làm cải biến những đối tượng nhất
định, trong một điều kiện nhất định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định.
Hoạt động sản xuất vật chất không thể không hoạt động trong cộng đồng xã hội,
không thể khơng có vai trị của thực nghiệm khoa học. Cho dù hoạt động chính
trị - xã hội trực tiếp tác động đến những vấn đề của đời sống chính trị tinh thần,
nhưng kết quả hoạt động của lĩnh vực này lại tác động tích cực đến phát triển
sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, cũng như những vấn đề có tính quy luật mà
hoạt động thực nghiệm khoa học đang quan tâm. Vì vậy, hoạt động thực nghiệm
khoa học khơng thể khơng lấy mục đích phục vụ kinh tế - xã hội. Trong các hoạt
động thực tiễn thì hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất. Mặc dù các hoạt
động chính trị xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học vẫn diễn ra thường
xuyên, quan trọng nhưng hoạt động sản xuất vật chất tác động sâu sắc, tồn diện
đến các hoạt động khác, nó là hoạt động trung tâm, chủ yếu của con người.
2. Phạm trù lý luận
Từ điển triết học đưa ra khái niệm về lý luận: “Lý luận là kinh nghiệm đã
được khái quát trong ý thức của con người, là toàn bộ tri thức về thế giới khách
quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgic
của các khái niệm cái lôgic khách quan của sự vật”2. Có thể hiểu theo cách khác, lý

luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối
liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng. Hồ Chí Minh chỉ rõ
“Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri
thức về tự nhiên và xã hội trữ lại trong các quá trình lịch sử” 3. Thực tiễn cho thấy,
để hình thành lý luận, con người phải thơng qua q trình nhận thức kinh nghiệm.
Mà nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi, lặp lại diễn biến của các
2
3

Từ điển triết học (2002), Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr 242 - 243.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009, tr 497.

3


sự vật, hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri
thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh
nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường thu được thơng qua q trình
sinh hoạt và hoạt động hàng ngày của con người. Nó giúp con người giải quyết
nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản trong quá trình tác động trực tiếp vào đối
tượng. Tri thức kinh nghiệm khoa học là kết quả của quá trình thực nghiệm khoa
học. Nó địi hỏi chủ thể phải tích lũy một lượng tri thức nhất định trong hoạt động
sản xuất cũng như hoạt động khoa học mới có thể hình thành tri thức kinh nghiệm
khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp nhà khoa học hình thành lý luận. Tri
thức kinh nghiệm là cơ sở để hình thành lý luận.
Tùy thuộc vào phạm vi phản ánh và vai trò phương pháp luận nên lý luận
cũng có những cấp độ khác nhau. Có thể phân chia thành lý luận ngành và lý
luận triết học. Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và
phát triển của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương
pháp luận cho hoạt động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật

v.v.. Lý luận triết học là hệ thống những quan điểm chung nhất về thế giới và
con người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con
người. Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ
bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp
luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng
những quy luật chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý luận đều
phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở phạm vi, lĩnh vực và trình độ khác
nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận nhận
thức và cải tạo hiện thực khách quan bằng hoạt động thực tiễn.
3. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
Một là, thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý
luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.

4


Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Có thể hiểu được những tri thức được khái
quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người.
Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con
người phân tích cấu trúc, tính chất và mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện
trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt động thực
tiễn còn là cở sở để bổ sung và bổ sung lý luận đã được khái quát. Mặt khác,
hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mới địi hỏi q
trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Vì vậy, lý luận được bổ sung, mở rộng.
Chính vì vậy, V.I.Lênin nói “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong
tính tất yếu của nó, trong những quan hệ tồn diện của nó, trong sự vận động
mâu thuẫn của nó, tự nó và vì nó”4.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Cho dù lý luận cung cấp những tri thức

khái quát về thế giới để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người nhưng
mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người
trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày
càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo ra được những
sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong
hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục
đích của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính
là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con
người. Lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. C.Mác nói: “Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan khơng,
hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”5. Thông qua thực tiễn,
những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại;
những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận
4
5

V.I.Lê nin:Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva 1981, tập 29, tr 227
C.Mác và Ph.Ăng ghen: Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr 10.

5


thức lại. Mặc dù thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải
mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn chân lý, chỉ khi nó đạt đến tính tồn vẹn của nó
thì thực tiễn mới là tiêu chuẩn của chân lý. Tính tồn vẹn của thực tiễn phải trải
qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu
của thực tiễn. Song thực tiễn cũng có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu

lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì
lý luận có thể xa rời thực tiễn. Dó đó, chỉ những lý luận nào phản ánh được tính
tồn vẹn của thực tiễn thì mới đạt tới chân lý. Chính vì vậy, mà V.I.Lênin cho
rằng: “Thực tiễn của con người lặp đi, lặp lại hàng nghìn lần được in vào ý
thức của con người bằng những hình tượng lơgic. Những hình tượng này có tính
vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất cơng lý, chính vì (và chỉ vì) sự
lặp đi lặp lại hàng nghìn lần triệu lần ấy”6.
Hai là, thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải
được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
C.Mác đã từng nói, người thợ xây khơng bao giờ tinh xảo như con ong
xây tổ, nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một
cơng trình, họ đã hình thành hình tượng của cơng trình ấy trong đầu họ. Tức là,
hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu, hoạt động của con
người chưa có lý luận chỉ đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng nhu
cầu tồn tại của mình. Thơng qua đó, con người khái quát thành lý luận. Từ đó,
những hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi
đường. Chính nhờ có lý luận soi đường, hoạt động thực tiễn của con người mới
trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.
Lý luận đóng vai trị soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định
hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận
còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự
báo được rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, những thất bại có thể có trong q
trình hoạt động. Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu quả
mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con
6

V.I.Lê nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1981, tập 29, tr 224

6



người. Mặt khác, lý luận cịn có vai trị giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên kết các
cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng
trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C.Mác cho rằng: Vũ khí
của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận
cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”7.
Mặc dù lý luận mang tính khái qt cao, song, nó cịn có tính lịch sử, cụ thể.
Do đó, khi vận dụng lý luận, chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình
cụ thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiểu
sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống
nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận hình thành là kết quả của q trình
nhận thức lâu dài và khó khăn của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt
động thực tiễn tuy phong phú, đa dạng nhưng khơng phải khơng có tính quy luật.
Tính quy luật của thực tiễn được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý
luận khơng chỉ là phương pháp mà cịn định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là
định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối
quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Khơng những thế, lý luận cịn định hướng mơ
hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết,
từ lý luận để xây dựng mơ hình thực tiễn theo những mục đích khác nhau của quá
trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và
những phát sinh của nó trong q trình phát triển để phát huy các nhân tố tích cực,
hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao hơn.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu so với thực
tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám diễn biến của
thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận hoặc
có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận vào thực
tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc có thể khơng, hoặc kết quả chưa rõ
ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực tiễn quy định. Tính
năng động của lý luận là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. V.I.Lênin nhận

7

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 1, Nxb Chinhd trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr 580.

7


xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức, vì nó có ưu điểm khơng những của tính
phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”8.
II. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực quân sự
1. Thực tiễn quân sự
Vận dụng quan niệm của triết học Mác - Lênin về phạm trù thực tiễn, từ đó
có thể quan niệm về thực tiễn quân sự đó là: Cũng như thực tiễn nói chung, thực
tiễn quân sự được hiểu là những hoạt động vật chất cụ thể mang tính lịch sử xã
hội của con người nhằm thực hiện những mục tiêu quân sự để đạt được mục tiêu
chính trị nhất định. Cũng như mọi lĩnh vực thực tiễn khác của xã hội, thực tiễn
quân sự được sự chỉ đạo một cách sâu sắc, toàn diện của ý thức con người; thực
tiễn ấy ln gắn bó chặt chẽ với những điều kiện lịch sử cụ thể, ở những giai đoạn
lịch sử xã hội khác nhau, thực tiễn quân sự chứa đựng những đặc điểm khác nhau.
Có thể xem các hoạt động chiến đấu, các hoạt động xây dựng đơn vị, huấn luyện
bộ đội, các hoạt động thực nghiệm khoa học kỹ thuật quân sự là những hoạt động
thực tiễn qn sự cơ bản, trong đó hình thức thực tiễn chiến đấu là hình thức thực
tiễn quân sự cơ bản nhất vì chiến đấu mang trong nó những đặc điểm đặc trưng
nhất của hoạt động quân sự. Từ những đặc trưng đó cho phép ta phân biệt sự khác
nhau giữa thực tiễn quân sự và các lĩnh vực hoạt động thực tiễn khác của xã hội.
Hoạt động thực tiễn chiến đấu là quá trình chủ thể sử dụng các trang bị vũ khí kỹ
thuật, trong những điều kiện khơng gian, thời gian, địa hình, thời tiết theo những
quy trình, thao tác nhất định cải tạo những đối tượng khách thể nhằm hoàn thành
nhiệm vụ quân sự để đạt những mục tiêu chính trị.
Từ quan niệm của chủ nghĩa Mác - lênin cho rằng chiến tranh là sự tiếp tục

của chính trị bằng phương tiện bạo lực vũ trang, ta có thể suy luận để thấy ngay
đặc điểm quan trọng trước hết của lĩnh vực quân sự nói chung hay thực tiễn quân
sự nói riêng. Thực tiễn quân sự là một loại hình thực tiễn xã hội chịu sự chi phối
trực tiếp của chính trị. Đặc điểm này của thực tiễn quân sự được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Qn sự mà khơng có chính trị như cây khơng có gốc, vơ
8

V.I.Lê nin: Tồn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, tr 30.

8


dụng lại có hại”9. Cũng chính từ đặc điểm trên của thực tiễn quân sự mà Đảng ta
đòi hỏi các lực lượng vũ trang phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về
mọi mặt của Đảng; đường lối quân sự, chiến lược quân sự phải được bắt nguồn
trực tiếp từ đường lối chính trị, từ chiến lược cách mạng. Lấy thực tiễn chiến đấu
với tính cách là hình thức thực tiễn quân sự cơ bản nhất để phân tích, ta thấy thực
tiễn đó ln chứa đựng sự đối kháng gay gắt giữa chủ thể và khách thể, cho nên
thực tiễn đó thường diễn ra một các hết sức quyết liệt, phức tạp, sự biến động của
nó hết sức mau lẹ, nhanh chóng. Loại hình thực tiễn này chứa đựng trong nó
nhiều yếu tố ngẫu nhiên, nhiều đại lượng chưa biết, nhiều sự bất ngờ, sự mâu
thuẫn; sự vận động của nó mang tính tổng hợp rất cao, tính đổi mới thường
xuyên. Những đặc điểm trên của thực tiễn quân sự đến lượt nó lại dẫn đến những
hệ quả rất quan trọng khác, đó là: thực tiễn quân sự là loại hình thực tiễn mang
tính pháp lệnh rất cao, tính nghệ thuật phong phú, tính truyền thống, tính trường
phái rất sâu sắc.
Cũng như vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nói chung, thực tiễn quân
sự cũng đóng vai trị là cơ sở, là mục đích, là động lực, là tiêu chuẩn chân lý của
lý luận quân sự, của khoa học và nghệ thuật quân sự. Trong lĩnh vực quân sự, chỉ
có sự tác động của thực tiễn chiến đấu, thực tiễn xây dựng đơn vị, huấn luyện bộ

đội, thực tiễn thực nghiệm khoa học kỹ thuật quân sự.v.v. mới làm cho lĩnh vực
quân sự bộc lộ hết mình, nhờ đó con người mới có những nhận thức quân sự,
khoa học, nghệ thuật quân sự, những lý luận quân sự được thể hiện trong những
trước tác quân sự bất hủ như “Binh pháp” của Tôn Tử, “Chiến tranh luận” của
Cơlaodơvít, “Binh thư yếu lược” của Trần Hưng Đạo. Thực tiễn quân sự là cơ sở,
là động lực của nhận thức quân sự. Nhận thức quân sự không bao giờ mang mục
đích tự thân, mục đích tối cao của nó là góp phần mình vào việc giành thắng lợi
cho con người sử dụng nó trong chiến tranh, trong đấu tranh vũ trang. Muốn được
như vậy, nhận thức ấy trước hết phải được dùng trong công việc chỉ đạo các hoạt
động thực tiễn quân sự. Chỉ đạo các thực tiễn quân sự chính là mục đích của nhận
thức quân sự. Muốn có nhận thức quân sự, con người phải tiến hành các hoạt
9

Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang, Nxb QĐND, H. 1979, tr. 18.

9


động thực tiễn quân sự. Vậy để biết được nhận thức quân sự đúng hay sai, chúng
ta chỉ có thể bằng cách thông qua sự kiểm nghiệm của thực tiễn qn sự. Do đó
thực tiễn qn sự chính là tiêu chuẩn chân lý của nhận thức, của lý luận quân sự.
Thực tiễn qn sự có vai trị trực tiếp quyết định đối với việc hoàn thành các
nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu, thực nghiệm khoa học kỹ thuật quân sự. Điều đó
có thể thấy được, việc hồn thành các nhiệm vụ trên không chỉ phụ thuộc vào tư
duy, nhận thức, lý luận qn sự mà chỉ có thể hồn thành các nhiệm vụ đó bằng các
hoạt động vật chất, tức là các hoạt động thực tiễn quân sự. C.Mác đã từng nói: tư
tưởng tự nó chẳng làm được gì hết… muốn thực hành tư tưởng phải có lực lượng
hoạt động thực tiễn. Bởi vậy, vũ khí phê phán khơng thể thay thế được sự phê phán
bằng vũ khí, lực lượng vật chất chí có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất.
Thực tiễn qn sự có vai trị quan trọng trong hình thành, củng cố và phát

triển bản lĩnh của người chỉ huy quân sự. Bản lĩnh của người chỉ huy quân sự là
sự tổng hợp toàn bộ các phẩm chất tốt đẹp nhất mà người chỉ huy đó đạt được
tạo thành một năng lực vững chắc, nhờ đó người chỉ huy có khả năng đứng
vững, định hướng đúng và hành động xử trí có hiệu quả trong mọi tình huống,
trong mọi thử thách. Sức mạnh của bản lĩnh là sức mạnh của tính năng động chủ
quan được phát huy cao độ, là tổng hợp của phẩm chất chính trị đạo đức, năng
lực nhận thức, năng lực tổ chức chỉ huy, chỉ đạo thực tiễn.v.v.. Bản lĩnh đó chỉ
có được thông qua hoạt động thực tiễn quân sự hàng ngày và đặc biệt nó được
thử thách trong các hồn cảnh khó khăn phức tạp, gay cấn, giữa sự sống và cái
chết trong chiến đấu. Thực tiễn chiến đấu giữ vai trị quyết định đến việc hình
thành, củng cố, phát triển bản lĩnh của người chỉ huy quân sự.
2. Lý luận quân sự
Lĩnh vực quân sự là một hiện tượng xã hội mang tinh đặc thù. Nó xuất
hiện và mất đi gắn với giai cấp, nhà nước. Lý luận quân sự được hiểu là giai
đoạn cao của quá trình nhận thức trong lĩnh vực quân sự, mang tính chất khái
quát hóa, trừu tượng hóa cao, vạch ra bản chất, quy luật của các sự vật, hiện
tượng, các quá trình quân sự. Vì vậy lý luận quân sự: Là sự khái quát những kinh

10


nghiệm quân sự và tri thức về lĩnh vực quân sự thông qua thực tiễn quân sự thành
một hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý, các quy luật phản ánh thực
tiễn quân sự và lĩnh vực quận sự. Vì vậy, lý luận quân sự về bản chất là một hình
thức biểu hiện của nhận thức quân sự. Song không phải mọi nhận thức quân sự
đều là lý luận quân sự; lý luận quân sự là sản phẩm cao của giai đoạn tư duy trừu
tượng, nó mang tính khái quát cao, nhờ đó lý luận quân sự đem lại sự hiểu biết
sâu sắc về bản chất về những mối liên hệ bên trong, về tính tất yếu, tính quy luật
của các hiện tượng, các quá trình trong quân sự, lý luận quân sự thể hiện tính chân
lý sâu sắc hơn, tính dự kiến khoa học chính xác hơn, do đó phạm vi ứng dụng của

nó cũng rộng lớn hơn và phổ biến hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm và các tri
thức thông thường khác trong quân sự. Cũng như mọi nhận thức khác, lý luận
quân sự cũng có tính độc lập, tương đối so với thực tiễn quân sự. Nó có thể lạc
hậu hoặc vượt trước trong sự phản ánh thực tiễn quân sự và các hiện thực quân
sự; lý luận quân sự cũng có thể kế thừa nhau, tác động lẫn nhau; ảnh hưởng, bổ
sung cho nhau và đặc biệt nó có thể tác động trở lại thực tiễn quân sự và các quá
trình diễn ra trong lĩnh vực quân sự thông qua việc hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt
động thực tiễn quân sự.
Lý luận quân sự một khi phản ánh đúng đắn thực tiễn quân sự và hiện thực
khách quan trong quân sự cũng sẽ trở thành chân lý của lĩnh vực nhận thức quân
sự. Chân lý đó cũng là chân lý khách quan và do vậy, nó vừa có tính tương đối,
vừa có tính tuyệt đối, lại vừa có tính cụ thể. Trong lĩnh vực quân sự, sự vi phạm
tính khách quan của chân lý sẽ phải trả giá. Sai lầm chủ quan trong quân sự có thể
dẫn đến hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, đặc biệt là sai lầm chủ quan trong chiến
đấu; chiến dịch, trận đánh khó có thể dừng lại giữa chừng khi một bên thấy mình
mắc sai lầm chủ quan hoặc rơi vào thế bất lợi; chưa tính đến trường hợp các sai
lầm ấy còn bị kẻ địch lợi dụng khoét sâu làm trầm trọng thêm các hậu quả của nó.
Người chỉ huy quân sự cần nắm vững những đặc điểm, của mối quan hệ
giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối trong quân sự. Do tính chất mau lẹ,
sự vận động, phát triển nhanh chóng của các sự kiện, các quá trình quân sự nên

11


mặt tương đối của chân lý khách quan trong quân sự được bộc lộ rõ rệt, điều đó
địi hỏi người chỉ huy phải thường xuyên bổ sung nhận thức cho mình trước mọi
diễn biến để ln đảm bảo tính khách quan của nhận thức, để luôn tránh được
các sai lầm chủ quan. Cũng tương tự như vậy, với sự diễn biến nhanh chóng của
chiến đấu, sự thường xuyên đổi mới của các hoạt động quân sự dẫn đến tính cụ
thể của chân lý trong quân sự có ý nghĩa hết sức to lớn. Nhận thức chân lý của

của người chỉ huy quân sự cần thiết phải lưu ý đến những điều kiện lịch sử, cụ
thể của tình hình. Thực tiễn quân sự với tính cách là tiêu chuẩn của chân lý trong
quân sự cũng cần được hiểu theo ý nghĩa tương đối, tuyệt đối, trực tiếp hay gián
tiếp để tránh sự tuyệt đối hóa hay hồi nghi một nhận thức, một lý luận nào đó
đã được thực tiễn kiểm nghiệm và có thể tin tưởng vào những dự kiến đã có cơ
sở thực tiễn làm căn cứ.
Thơng qua những phân tích trên chúng ta thấy lý luận qn sự có vai trò
hết sức to lớn đối với thực tiễn quân sự, lý luận ấy vạch ra bản chất, quy luật của
các hoạt động thực tiễn, nó hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn góp phần
quan trọng làm cho các hoạt động thực tiễn đó phát triển đúng hướng và có hiệu
quả. Xung quanh vấn đề về vai trị của lý luận quân sự, Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn đã nhắc nhở: “Người tướng không chỉ lấy gươm, đao, cưỡi, bắn làm
tài, mà phải lấy thông suốt kim cổ làm giỏi”; về vai trò của tư duy lý luận, dự
kiến khoa học trong quân sự Nguyễn Trãi cũng khuyên người chỉ huy qn sự:
Tính việc xa thì thành cơng lớn; Chủ nghĩa Mác - Lênin thì dạy chúng ta: “Lý
luận một khi được thâm nhập vào quần chúng sẽ biến thành lực lượng vật chất”
và “khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng”.
Từ những quan niệm và phân tích trên về thực tiễn quân sự và lý luận quân
sự, nhận thấy giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, lý luận quân sự và thực
tiễn quân sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau, bổ sung cho nhau, trong đó thực tiễn
là cơ sở, là mục đích, là động lực, là tiêu chuẩn chân lý của lý luận; ngược lại, lý
luận là kim chỉ nam, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn.

12


Lý luận quân sự và thực tiễn quân sự là hai mặt của một quá trình thống
nhất. Hai mặt ấy vừa thống nhất với nhau, đồng thời lại mâu thuẫn với nhau. Đó
là sự thống nhất và mâu thuẫn của cái phản ánh và cái được phản ánh. Chúng
thống nhất với nhau khi các tài liệu thực tiễn được sử dụng một cách thực sự làm

cơ sở, làm mục đích, động lực, làm tiêu chuẩn chân lý cho lý luận, khi mà lý luận
phản ánh thực tiễn một cách trung thực, đúng đắn, phù hợp khoa học. Chúng mâu
thuẫn với nhau khi thực tiễn không được xem xét đúng vai trị, vị trí của nó đối
với lý luận, khi lý luận phản ánh chưa đúng, chưa đủ thực tiễn. Sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn theo ý nghĩa trên là tương đối, là có điều kiện, sự mâu thuẫn
nhau giữa chúng cũng theo ý nghĩa trên mang tính tuyệt đối. Quan hệ biện chứng
giữa lý luận quân sự và thực tiễn quân sự là nguyên nhân của quá trình vận động,
phát triển, chuyển hóa của sự nhận thức từ chân lý tương đối đến chân lý tuyệt đối
trong lĩnh vực quân sự. Sự thống nhất giữa lý luận quân sự và thực tiễn quân sự
đến một lúc nào đó do yêu cầu phát triển tiến lên của thực tiễn quân sự sẽ dẫn đến
sự không phù hợp, sự mâu thuẫn giữa chúng, khi đó lý luận quân sự cần được bổ
sung, đổi mới, phát triển. Sự phát triển của lý luận lại tạo ra sự phù hợp giữa lý
luận và thực tiễn trên cơ sở cao hơn.
3. Ý nghĩa phương pháp luận nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong lĩnh vực quân sự
Một là, trên cơ sở nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn, khi tiến hành các hoạt động thực tiễn chủ thể trước hết phải luôn coi trọng
việc lấy thực tiễn làm cơ sở, làm mục đích, làm động lực, làm tiêu chuẩn chân lý
cho lý luận; đồng thời hết sức coi trọng việc lấy lý luận hướng dẫn, chỉ đạo thực
tiễn. Mặt khác, trong việc lấy lý luận làm kim chỉ nam cho các hoạt động thực
tiễn; lại phải hết sức coi trọng việc lấy thực tiễn kiểm tra, bổ sung làm cho lý
luận luôn phát triển, đổi mới, có sức sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận sng, thực tiễn khơng có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Người chỉ huy quân sự phải biết đem
những hiểu biết lý luận của mình vận dụng chỉ đạo các thực tiễn huấn luyện,

13


chiến đấu. Từ thực tiễn ấy tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm, phát hiện những

nhận thức mới, bổ sung làm phong phú thêm cho lý luận cũ, phát triển lý luận
mới, rồi lại đem lý luận ấy vận dụng vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn mới.v.v..
Quá trình trên cứ diễn ra thường xuyên liên tục làm cho lý luận và thực tiễn ln
gắn bó với nhau và bằng cách đó người chỉ huy nâng dần trình độ của mình
thơng qua thực hiện ngun tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Hai là, để thực hiện tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
các chủ thể cần lưu ý khắc phục hai khuynh hướng dẫn đến sự tách rời lý luận
và thực tiễn, đó là bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Bệnh kinh nghiệm: là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước
đây và áp dụng máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi. Bệnh kinh
nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thông thường. Tri thức kinh nghiệm
thông thường là trình độ thấp của tri thức. Tri thức này chỉ khái quát thực tiễn
với những yếu tố và điều kiện đơn giản, hạn chế. Tri thức kinh nghiệm thông
thường góp phần tạo nên những thành cơng khơng nhỏ, cả kinh tế, chính trị - xã
hội, đặc biệt trong nền kinh tế truyền thống. Những thành cơng đó đã củng cố
giá trị của các kinh nghiệm. Trong điều kiện có một số lĩnh vực biến đổi chậm
chạm, việc tiếp tục vận dụng những kinh nghiệm cũ vào hiện tại vẫn tạo nên
những thành cơng đã tự phát hình thành bệnh kinh nghiệm. Kinh nghiệm là rất
quý, nó đã góp phần thành cơng trong điều kiện hồn cảnh nhất định và là cơ sở
để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc
nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong
thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh đã thay đổi.
Bệnh kinh nghiệm trong lĩnh vực quân sự: là khuynh hướng muốn tuyệt
đối hóa mặt kinh nghiệm quân sự, muốn thổi phồng vai trò của thực tiễn quân
sự, hạ thấp vai trò của lý luận quân sự. Người chỉ huy quân sự mắc bệnh kinh
nghiệm thường thỏa mãn với những kinh nghiệm bản thân, tuyệt đối hóa các
kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh đã trải qua, ngại học tập lý luận, xem

14



thường tri thức khoa học quân sự, do đó họ thiếu nhìn xa trơng rộng, dễ rơi vào
bào thủ, trì trệ. Vì vậy, cần phải khắc phục bệnh kinh nghiệm.
Bệnh giáo điều: trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hóa
lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn,
vận dụng lý luận một cách máy móc, khơng tính toán đến điều kiện lịch sử - cụ thể
mỗi nơi, mỗi lúc. Biểu hiện của bệnh giáo điều là ở bệnh “tầm chương trích cú”,
dừng lại những lý luận đã có, bỏ quan sự vận động, phát triển, biến đổi của thực
tiễn cũng như bản thân lý luận, coi chân lý đã được hình thành là bất di bất dịch;
khơng hiểu tính cụ thể, tính tương đối, tính tuyệt đối của chân lý. Người mắc bệnh
giáo điều chỉ căn cứ vào “câu chữ” mà chưa hiểu được bản chất đích thực của
chúng hoặc vận dụng chúng như “chiếc bùa hộ mệnh” để bảo vệ sự hiểu biết trống
rỗng của mình. Bệnh giáo điều còn biểu hiện ở chỗ áp dụng máy móc kinh nghiệm
của người khác, lĩnh vực khác vào lĩnh vực của mình. Bệnh giáo điều có căn
ngun sâu xa của nó. Trước hết do hiểu lý luận cịn nông cạn, chưa nắm chắc thực
chất lý luận, lý luận chưa được kiểm nghiệm, vận dụng, kiểm nghiệm và khái quát
từ thực tiễn, cho nên lý luận xa rời thực tiễn, là lý luận suông và rơi vào giáo điều.
Mặt khác do tính tập trung hóa cả trong lĩnh vực lý luận đã làm mất đi tính sáng
tạo, sinh động của lý luận. Q trình đó lặp đi, lặp lại một thời gian dài trở thành
đường mòn trong tư duy. Thứ nữa, do vận dụng sai lý luận vào thực tiễn. Vận dụng
lý luận vào hoạt động thực tiễn là một trong những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời vận dụng lý luận nhưng không quan
tâm đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận. Chính vì vậy, lý luận chưa
phát huy vai trò tiên phong, chưa thực sự định hướng phát triển, chưa trở thành
phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn, đó cũng là căn bệnh giáo điều.
Bệnh giáo điều trong lĩnh vực quân sự: là khuynh hướng muốn tuyệt đối
hóa vai trị của lý luận và xem nhẹ việc áp dụng đúng đắn lý luận quân sự vào
thực tiễn quân sự. Đó là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ, hiểu lý
luận một cách đơn giản, phiến diện, cảm tính; biến lý luận quân sự thành những
tín điều chung chung trừu tượng, xa rời thực tiễn quân sự sinh động. Bệnh giáo


15


điều trong lĩnh vực quân sự còn thể hiện ở việc áp dụng một cách máy móc kinh
nghiệm của đơn vị khác, quân đội khác vào đơn vị mình. Lý luận quân sự phải
luôn gắn với thực tiễn quân sự, phải khái quát từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển sáng tạo cùng
với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thơng nhất giữa lý luận và thực
tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có
lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà khơng liên hệ với
thực tiễn là lý luận sng”10.
Tóm lại, sự yếu kém về lý luận là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến
cả bệnh giáo điều, lẫn bệnh kinh nghiệm. Do đó để khắc phục các nhược điểm trên
trong thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, cấn hết sức coi
trọng việc nâng cao trình độ lý luận một cách toàn diện cho cán bộ chỉ huy quân sự,
đồng thời hết sức coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết chiến tranh, tổng
kết huấn luyện, qua tổng kết mà bổ sung, đổi mới, phát triển lý luận quân sự.
Ba là, để thực hiện tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong lĩnh vực quân sự. Người chỉ huy quân sự phải có vốn tri thức lý luận cao,
vừa phải có khả năng nhanh nhạy trong nắm bắt tình hình thực tiễn, vừa phải có
bản lĩnh, phong cách phù hợp, vừa phải có nghệ thuật trong khéo léo kết hợp lý
luận với thực tiễn. Thực tiễn quân sự rất phong phú và đa dạng, tùy vào từng
hoàn cảnh, nhiệm vụ mà người chỉ huy vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn cho phù hợp.
Trong xây dựng đơn vị và huấn luyện bộ đội việc vận dụng những nguyên
tắc phương pháp luận trong đó có nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
cũng góp phần quan trọng giúp cho người chỉ huy tiến hành đánh giá tình hình
huấn luyện và tổ chức, triển khai các kế hoạch huấn luyện đó một cách thắng lợi.
Để làm được điều đó, người chỉ huy biết đem vốn kiến thức về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt

Nam, các định hướng lớn của Bộ Quốc phòng vận dụng vào tình hình thực tiễn
đơn vị mình, bộ phận mình để đề ra các chủ trương, tìm ra con đường, biện pháp
10

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr 496.

16


thích hợp nhất giải quyết các nhiệm vụ về xây dựng đơn vị và huấn luyện bộ đội
đạt kết quả tối ưu. Thông qua thực tiễn xây dựng, huấn luyện, tiến hành các tổng
kết, rút kinh nghiệm, bổ sung, đổi mới phát triển những cơ sở lý luận khoa học
cho các chủ trương, các tình huống trên. Cũng như trong chiến đấu, trong xây
dựng đơn vị, huấn luyện bộ đội người chỉ huy cần có trình độ nhận thức lý luận
cao, có khả năng nhanh nhạy trong nắm bắt thực tiễn, có bản lĩnh vững vàng, có
phong cách phù hợp, có đầu óc nghiên cứu sáng tạo, có tác phong sâu sát, cụ thể,
tỷ mỉ, có sự năng động, quyết toán, mới biến các chủ trương chung thành các hoạt
động huấn luyện bộ đội, xây dựng đơn vị đạt thành tích cao.
Trong chiến đấu, để có những kết luận đúng đắn về tình hình địch, ta, của
các bên tham chiến trước trận đánh, chiến dịch. Vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn đòi hỏi, người chỉ huy phải có vốn hiểu biết, vốn tri
thức nhất định về địch, ta, về địa hình, thời tiết; về quy trình, cách thức, phương
pháp đánh giá tình hình; nắm được một số tài liệu nhất định về các yếu tố trên
đang diễn ra trong thực tế, là cơ sở, vận dụng lý luận đã biết vào xem xét, phân
tích các tài liệu thực tiễn đó, rút ra những kết luận phù hợp về tình hình các bên
làm điều kiện cho hạ quyết tâm chiến đấu. Trong đánh giá tính hình địch, ta, để
khỏi rơi vào tình trạng tách rời giữa lý luận và thực tiễn, người chỉ huy cần lưu
ý, đề phòng những biểu hiện của bệnh kinh nghiệm, giáo điều dưới nhiều màu
sắc. Mặt khác, người chỉ huy khi vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn cần kết hợp chặt chẽ với việc vận dụng các nguyên tắc khác của chủ

nghĩa duy vật biện chứng như: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện,
nguyên tắc lịch sử, cụ thể…Phải vận dụng toàn bộ nhận thức lý luận vốn có với
kinh nghiệm thực tiễn để đánh giá địch, làm sao cho các kết luận về địch ln
được phù hợp với tình hình đang vận động, phát triển, chuyển hóa trên chiến
trường. Trong hạ quyết tâm chiến đấu người chỉ huy phải thể hiện vận dụng lý
luận quân sự một cách toàn diện vào thực tiễn hiện tại, từ đó mới có khả năng
phát huy sức mạnh tổng hợp của đơn vị. Quyết tâm của người chỉ huy càng
mang tính lý luận sâu sắc hơn thì các kết luận của quyết tâm mang tính khái quát

17


cao hơn. Do đó, hạ quyết tâm là một quá trình vận dụng một cách sáng tạo lý
luận nghệ thuật quân sự vào thực tiễn của chiến dịch, chiến đấu. Và bản thân quá
trình tư duy của người chỉ huy ở cấp càng cao càng thể hiện tính tư duy lý luận
càng cao; đó cũng chính là q trình vận dụng rất sáng tạo các phương pháp luận
duy vật biện chứng, trong đó có nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Trong chỉ huy tổ chức chiến đấu: ở giai đoạn này những đặc trưng của thực tiễn
quân sự được bộc lộ một cách toàn diện, triệt để. Người chỉ huy phải luôn bám
sát sự phát triển biện chứng của diễn biến tình hình, bổ sung nhận thức làm cơ
sơ để ra các quyết định xử trí. Tuy nhiên trong giai đoạn này khi mọi tình huống
diễn ra nhanh chóng, mau lẹ, bất ngờ, khó lường địi hỏi người chỉ huy phải
nhanh chóng nắm bắt tình hình thực tiễn, phải có bản lĩnh vững vàng, tác phong
quyết đốn trong vận dụng lý luận sát với tình huống chiến đấu. Sau trận đánh,
chiến dịch, người chỉ huy cần tổng kết, rút kinh nghiệm, rút ra những nhận thức
mới góp phần bổ sung, phát triển lý luận quân sự.

KẾT LUẬN
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên
tắc phương pháp luận căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học

Mác - Lênin nói riêng. Để vận dụng tốt nguyên tắc phương pháp luận trên người
chỉ huy quân sự cần tạo cho mình một vốn lý luận ở trình độ sâu, rộng, cao; một
năng lực nhanh nhạy trong nắm bắt tình hình thực tiễn, một bản lĩnh, phong cách
phù hợp, một nghệ thuật khôn khéo trong kết hợp lý luận và thực tiễn để vạch ra

18


mục tiêu, con đường, biện pháp đúng đắn, phù hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ chỉ huy của mình trong chiến đấu hay trong xây dựng đơn vị, huấn luyện bộ đội.
Có thể thấy được bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính sách
của Đảng, Nhà nước, khoa học nghệ thuật quân sự, các chủ trương, các định
hướng lớn của Bộ Quốc phòng là sản phẩm của sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Tuy nhiên thứ bậc của sự thống nhất đó khơng đồng nhất. Sự thống
nhất trên là sự biểu hiện tính biện chứng của mối quan hệ giữa cái phổ biến, cái
đặc thù, giữa cái chung, cái riêng. Trong bối cảnh thực tiễn riêng của mỗi đơn vị
ở giai đoạn chiến đấu hay xây dựng huấn luyện, người chỉ huy vừa phải có quan
điểm thực tiễn hết sức sâu sắc vừa phải coi trọng lý luận, vận dụng lý luận vào
chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Đi đôi với hoạt động thực tiễn phải ra sức học tập
để nắm vững lý luận duy vật biện chứng với hệ thống phương pháp luận của nó;
nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, học thuyết Mác - Lênin vê chiến tranh quân đội, khoa học nghệ thuật
quân sự, đường lối, quan điểm của Đảng và những chủ trương của Bộ Quốc
phòng.v.v. vận dụng vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn đơn vị. Đồng thời, trên cơ
sở đó coi trọng việc rút kinh nghiệm, tổng kết để bổ sung phát triển lý luận.
Ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, tạo cho mình một trình độ lý luận cao,
một năng lực nắm bắt thực tiễn giỏi, một bản lĩnh phong cách phù hợp, một nghệ
thuật sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận duy vật biện chứng và luôn luôn
nắm vững nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là việc làm thường xuyên
vừa cơ bản vừa cấp bách đối với mỗi người cán bộ trong quân đội hiện nay.


19



×