Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

LÝ LUẬN NHẬN THỨC và THỰC TRẠNG CÔNG TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.2 KB, 23 trang )

LÝ LUẬN NHẬN THỨC VÀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, khi nào Đảng giữ vững
sự độc lập, tự chủ và sáng tạo về đường lối thì phong trào cách mạng phát triển
thuận lợi và thắng lợi, còn khi phạm sai lầm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí thì
phong trào cách mạng gặp khó khăn, thậm chí thất bại. Cơng tác tư tưởng, lý
luận ln giữ vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần to lớn vào việc tạo nên sự
thống nhất cao trong Đảng và toàn thể nhân dân, phấn đấu cho mục tiêu cao cả
của cách mạng. Công tác này luôn được coi là một bộ phận trọng yếu của công
tác xây dựng Đảng, vì thế, trong các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, Đảng ta bao
giờ cũng đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, trước những biến
đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, tiếp tục đổi mới
công tác tư tưởng, lý luận thật sự là một yêu vấn đề cấp bách, nhằm tăng cường
sức chiến đấu và sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam ln kiên trì lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Một trong những bài học kinh
nghiệm quý báu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng rút ra là:
“trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và
mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”1. Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã có sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội - một trong những vấn đề lý luận cơ bản nhất, trong bối cảnh và điều kiện
mới - điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nước ta.
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hổ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn,
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.180.
1


1


vận dụng và phát triển sáng tạo hơn lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đặc biệt là
trong điều kiện hệ thống chủ nghĩa xã hội tan rã, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đứng trước nhiều vấn đề cần giải đáp, trong khi nhiều nước tiến hành cải cách,
cải tổ, nhưng không thành công. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những
thành tựu to lớn, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết
học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt
hơn cả, trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học
tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo
chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hồn cảnh đất
nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn
đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước
ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những
thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua ba mươi năm đổi mới là minh
chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn
cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước
ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới
hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn vấn đề “Lý luận nhận thức và thực trạng
công tác tư tưởng lý luận ở nước ta hiện nay”.

2


NỘI DUNG
1. Những vấn đề cơ bản của lý luận nhận thức duy vật biện chứng

1.1. Quan điểm ngồi Mácxít về quá trình nhận thức
a. Triết học trung hoa cổ, trung đại:
Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học cổ, trung đại Trung
Hoa là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Cảm
nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp,
khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà nắm bản thể
trừu tượng. Hầu hết các nhà tư tưởng triết học Trung Hoa đều quen phương thức
tư duy trực quan thể nghiệm lâu dài, bỗng chốc giác ngộ. Phương thức tư duy
trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận
thức, "lấy tâm để bao quát vật". Cái gọi là "đến tận cùng chân lý" của Đạo gia,
Phật giáo, Lý học, v.v. nặng về ám thị, chỉ dựa vào trực giác mà cảm nhận, nên
thiếu sự chứng minh rành rọt.
* Nho giáo
Về nhận thức:
+ Lão Tử đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể.
Ơng cho rằng "khơng cần ra cửa mà biết thiên hạ, khơng cần nhịm qua khe cửa
mà biết đạo trời".
+ Trang Tử xuất phát từ nhận thức luận tương đối của mình mà chỉ ra rằng,
nhận thức của con người đối với sự vật thường có tính phiến diện, hạn chế.
Nhưng ông đã rơi vào quan điểm bất khả tri, cảm thấy "đời có bờ bến mà sự
hiểu biết lại vơ bờ bến, lấy cái có bờ bến theo đuổi cái vơ bờ bến là khơng
được". Ơng lại cho rằng, ngơn ngữ và tư duy lơgíc khơng khám phá được Đạo
trong vũ trụ.
+ Trong ba thời kỳ: Sở Hán, Ngụy Tấn, Sở Đường, học thuyết Đạo gia
chiếm địa vị thống trị về tư tưởng trong xã hội. Suốt lịch sử hai ngàn năm, tư
tưởng Đạo gia tồn tại như những tư tưởng văn hóa truyền thống và là sự bổ
3


sung cho triết học Nho gia.

* Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật
và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, nhưng
tương tác với nhau. Năm yếu tố Ngũ Hành không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà
trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc với nhau theo hai nguyên tắc sau:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy
sinh Mọc; Mộc sinh Hỏa; Hoả sinh Thổ, v.v..
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa
khắc Kim; Kim khắc Mộc; và Mộc khắc Thổ, v.v..
b. Triết học Hy Lạp cổ đại
* Hêraclit: Hêraclit đã có những quan niệm đúng đắn về lí luận nhận thức.
Ông cho rằng nhận thức thế giới là nhận thức logot của vũ trụ. Nhận thức logot có
nghĩa là nhận thức tự nhiên và xã hội trong trạng thái đấu tranh và hài hòa với
những mâu thuẫn của chúng. Tri thức chân thực là tri tức về logot tức là qui luật
của vũ trụ.
Theo ông, nhận thức được bắt đầu từ cảm tính: mắt và tai là người thầy tốt
nhất, nhưng mắt là nhân chứng chính xác hơn tai. Ơng rất coi trọng nhận thức cảm
tính nhưng khơng tuyệt đối hóa nó.
Theo ơng, thị giác thường bị lừa vì tự nhiên thích giấu mình nên muốn nhận
thức được nó phải tư duy, phải có óc sang suốt. ơng cịn nêu lên tính tương đối của
nhận thức tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà thiện - ác, xấu - tốt, lợi - hại chuyển
hóa cho nhau.
* Đêmơcrit
Đêmơcrit có nhiều cơng lao trong việc xây dựng lí luận về nhận thức. Ông
đặt ra và giải quyết 1 cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của
cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong
4


việc nhận thức tự nhiên.Đêmơcrít phân nhận thức con người thành dạng nhận

thức do các cơ quan cảm giác đem lại và nhận thức nhờ lý tính.
Nhận thức đem lại do cơ quan cảm giác là loại nhận thức mờ tối, chưa đem
lại chân lý. Cịn nhận thức lý tính là nhận thức thơng qua phán đốn và cho phép
đạt chân lý, vì nó chỉ ra cái khởi ngun của thế giới là nguyên tử, tính đa dạng
của thế giới là do sự sắp xếp khác nhau của các nguyên tử.
* Platon
Nhận thức của con người, theo Platôn không phải là phản ánh các sự vật
cảm biết của thế giới khách quan, mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có
trước thế giới các vật cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Ông cho rằng để nhận
thức được chân lí, người ta phai từ bỏ những cái hữu hình cảm tính, phải “hồi
tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử đã quan sát đước trong thế giới ý niệm.
Ví dụ: cái cây, con ngựa, nước là do ý niệm siêu tự nhiên về cái cây, con
ngựa, nước sinh ra. Hoặc khi nhìn các sự vật thấy bằng nhau là vì trong đầu ta
đã có sẵn ý niệm về sự bằng nhau.
Lý luận nhận thức của Platơn cũng có tính chất duy tâm. Theo ơng tri thức,
là cái có trước các sự vật cảm biết mà khơng phải là sự khái qt kinh nghiệm
trong q trình nhận thức các sự vật đó. Do vậy nhận thức con người không phải
là phản ánh các sự vật của thế giới khách quan, mà chỉ là quá trình nhớ lại, hồi
tưởng lại của linh hồn những cái đã lãng qn trong q khứ.
Trên cơ sở đó, Platơn phân hai loại tri thức: tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin
cậy và tri thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn
trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai lẫn lộn đúng
sai, là tri thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, ở đó khơng có chân lý.
*Arixtốt
Nhận thức luận của Arixtốt có một vai trị quan trọng trong lịch sử triết học
Hy Lạp cổ đại. Lý luận nhận thức của ông được xây dựng một phần trên cơ sở
5


phê phán học thuyết Platôn về "ý niệm" và "sự hồi tưởng".

Trong lý luận nhận thức của mình, Arixtốt thừa nhận thế giới khách quan
là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc, kinh nghiệm và cảm giác. Tự nhiên
là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Cảm giác có vai trị quan trọng trong
nhận thức, nhờ cảm giác về đối tượng mà có tri thức đúng, có kinh nghiệm và
lý trí hiểu biết được về đối tượng. ở đây, Arixtốt đã thừa nhận tính khách quan
của thế giới.
Về các giai đoạn của nhận thức, Arixtốt thừa nhận giai đoạn cảm tính là
giai đoạn thứ nhất; giai đoạn nhận thức trực quan (ví dụ sự quan sát nhật thực,
nguyệt thực bằng mắt thường); cịn nhận thức lý tính là giai đoạn thứ hai, giai
đoạn này đòi hỏi sự khái qt hóa, trừu tượng hóa để rút ra tính tất yếu của
hiện tượng.
Sai lầm có tính chất duy tâm của Arixtốt ở đây là thần thánh hóa nhận thức
lý tính, coi nó như là chức năng của linh hồn, của Thượng đế.
Tuy nhiên, nhìn chung nhận thức luận của Arixtốt chứa đựng các yếu tố của
cảm giác luận và kinh nghiệm luận có khuynh hướng duy vật.
c. Triết học Tây Âu thời Trung cổ
* Tomat Đacanh: đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của
Chủ nghĩa kinh viện.
Lý luận nhận thức của Tomat Đacanh là 1 bước tiến mới trong triết học
kinh viện trung cổ
Về lí luận nhận thức, Tomat Đacanh khơi phục về mặt hình thức lí thuyết
hình dạng của Arixtot nhưng lại bỏ cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tịi chân lí
trong học thuyêt của Arixtốt.
Theo ông, nhận thức của con người là hình dạng của sự vật chứ khơng phải
bản than sự vật. ơng chia hình dạng thành hình dạng cảm tính và hình dạng lí
tính. Trong đó, hình dạng cảm tính có vai trị quan trọng, nhờ đó mà cảm giác
6


trở nên cảm thụ tích cực. cịn hình dạng lí tính cao hơn hình dạng cảm tính, nhờ

nó mà ta biết được cái chung chứa trong nhiều sự vật riêng lẽ.
* Đơn Xcớt: được coi là nhà duy danh lớn nhất thế kỷ 13.
Về lí luận nhận thức, Đơn xcớt cho rằng tinh thần và ý chí là hình thức của
thân thể con người và gắn liền với thân thể của con người đang sống do thượng
đế ban cho từ con người mới được sinh ra.Tri thức của con người được hình
thành từ tinh thần và từ đối tượng nhận thức. tinh thần tuy có sức mạnh to lớn
trong nhận thức, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào đối tượng nhận thức. chỉ có
những sự vật đơn nhất và cá biệt là thực tại cao nhất
* Rogie Bêcơn: được coi là người đề xướng vĩ đại nhất của khoa học thực
nghiệm. Theo ơng, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lí trí và thực nghiệm.
Kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lí, thước đo của lí luận. Trong tri thức khoa
học, khơng có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt.
Tuy nhiên, ơng khơng thể thốt khỏi những hạn chế của thời mình: thời đại
thống trị của tơn giáo và nhà thờ. Ông cũng đã dành thời gian để nghiên cứu về
tính chất rõ rang của tư tưởng xuất phát từ mẩu mực đầu tiên của thượng đế và
về ý chí hoạt động tiên nghiệm.
d. Triết học Tây Âu cận đại thế kỷ XVII - XVIII
* Phranxi Bêcơn: là người sáng lập triết học duy vật Anh.
Bêcơn cho rằng nhiệm vụ của triết học, của khoa học nói chung là nhận
thức thế giới tự nhiên, giúp cho con người nắm được các mối liên hệ phức tạp
và các lực lượng hùng mạnh của tự nhiên. Ông cho rằng, điều kiện cần thiết đầu
tiên để xây dựng 1 khoa học chân chính về giới tự nhiên là tẩy rửa được tất cả
mọi ảo tưởng. Theo Bêcơn, phương pháp nhận thức tốt nhất là thực nghiệm,
quan sát, phân tích và quy nạp. Từ phương diện triết học, Bêcơn đã lí giải
phương pháp thực nghiệm được sử dụng rộng rãi thời đó trong khoa học tự
nhiên và chuyển nó sang lĩnh vực triết học. Bêcơn là người sáng lập ra phương
pháp quy nạp và lôgic học quy nạp.
7



Triết học duy vật của Bêcơn phản bác chủ nghĩa duy tâm, triết học kinh
viện và tôn giáo, tuy sự phản bác đó mới chỉ ở mức độ địi khoa học và triết học
độc lập với tôn giáo và thần học; Bêcơn thừa nhận thuyết "Hai chân lí", cho rằng
khoa học và tôn giáo không nên can thiệp vào thẩm quyền của nhau.
* Rơnê Đềcáctơ: là người sáng lập ra Chủ nghĩa duy lý.
Cũng như Bêcơn, Đềcáctơ đã chú ý nghiên cứu phương pháp nhận
thức khoa học để tạo nên khả năng đi sâu vào nghiên cứu những bí mật của
giới tự nhiên.
Ơng tin rằng, với phương pháp mới có thể đạt được những tri thức có ích
cho cuộc sống. Gạt bỏ đi những đạo lý kinh viện của tôn giáo, Đêcáctơ đưa lý trí
lên vị trí hàng đầu trong lý luận về nhận thức. Ông cho rằng nhiệm vụ của thí
nghiệm khơng phải là phát minh ra các quy luật của tự nhiên mà là khẳng định
những tri thức, những quy luật mà lý trí phát hiện ra.
Đềcáctơ thừa nhận rằng sự nghi ngờ là điểm xuất phát của phương pháp
khoa học. Ông nhấn mạnh rằng, dù anh nghi ngờ mọi cái, nhưng không thể nghi
ngờ rằng anh nghi ngờ. Đêcáctơ nói: Tơi tư duy, vậy tơi tồn tại, và ơng cho đó là
ngun lý cơ bản, bất di bất dịch. Ý nghĩa tiến bộ của nguyên lý trên là ở chỗ:
nó đề cao vai trị của lý trí, phủ nhận 1 cách tuyệt đối tất cả những gì mà người
ta mê tín. Nhưng nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm, vì Đêcáctơ đã
khơng nhìn thấy rằng khơng thể đi tìm tiền đề xuất phát của nhận thức ở ngay
trong nhận thức mà phải tìm từ bản thân đời sống thực tiễn xã hội.
* Giôn Lôccơ: cũng là 1 đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật Anh, là 1
trong những người sáng lập ra tự nhiên thần luận Tiếp tục phát triển kinh
nghiệm của Bêcơn, Lốccơ đã đưa duy giác luận vào triết học. Nếu Bêcơn khẳng
định rằng mọi tri thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thì ơng lại cho rằng kinh
nghiệm là do những tài liệu cảm tính, những cảm giác hợp thành.
Lốccơ còn bác bỏ thuyết tư tưởng bẩm sinh của Đêcáctơ, ơng khẳng định:
khơng có tư tưởng bẩm sinh, mà chỉ có tư tưởng, khái niệm của con người xuất
8



hiện trong quá trình con người tiếp xúc với thế giới xung quanh.
Cảm giác được hình thành khi con người tiếp cận với thế giới xung quanh,
đó là căn cứ đầu tiên và có ý nghĩa quyết định với tồn bộ sự nhận thức.
e.Triết học Cổ điển Đức
* Cantơ: là 1 nhà triết học nhị nguyên.
Một mặt ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới các "vật tự nó" ở bên ngồi
con người. Thế giới đó có thể tác động tới các giác quan của chúng ta. ở điểm
này, Cantơ là nhà duy vật.
Nhưng mặt khác thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại không
liên quan gì đến cái gọi là "thế giới vật tự nó", chúng chỉ là "các hiện tượng...
phù hợp với cái cảm giác và cái tri thức do lý tính của ta tạo ra. Nhưng các cảm
giác và tri thức không cung cấp cho ta hiểu biết gì về "thế giới vật tự nó".
Theo Cantơ, nhận thức con người chỉ biết được hiện tượng bề ngồi mà
khơng xâm nhập được vào bản chất đích thực của sự vật, khơng phán xét được
gì về sự vật như chúng tự thân tồn tại.
Như vậy, trong lĩnh vực nhận thức luận, Cantơ là một đại biểu tiêu biểu của
thuyết "không thể biết" (mặc dù có khác với thuyết "khơng thể biết" của Hium).
Nhận thức luận của Cantơ có tính chất duy tâm là sự phản ứng đối với chủ
nghĩa duy vật Pháp, là sự khơi phục Thượng đế. Ơng nói rằng, trong nhận thức
cần hạn chế phạm vi của lý tính để dành cho đức tin.
* Hêghen
Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của TH mác-xít. Ănggen nhận
xét: “Hêggen khơng những chỉ là 1 thiên tài sáng tạo, mà còn là 1 nhà bác học
có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại”.
Hêghen coi tinh thần tuyệt đối là điểm khởi đầu, đấng tối cao sỏng tạo ra
giới tự nhiên và con người.

9



Mọi sự vật, hiện tượng chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối. Con người
là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất của tinh thần tuyệt đối. Hoạt động
nhận thức của con người là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản
thân mình. Tinh thần tuyệt đối của Ông được biểu hiện như sự hợp nhất, thống
nhất giữa tư duy và tồn tại, tinh thần và vật chất.
* Lútvích Phoiơbắc: là nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất thời kỳ trước
Mác, đại biểu nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng của giai cấp
tư sản dân chủ Đức.
Phoiơbắc đã có quan niệm đúng đắn rằng không thể quy các hiện tượng
tâm lý về các q trình hóa - lý, ơng cịn cơng nhận con người có khả năng nhận
thức được thế giới.
Trong khi phát triển lý luận nhận thức duy vật, Phoiơbắc đã biết dựa vào
thực tiễn, nhưng ông chỉ mới hiểu được thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu
của con người về tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận thức được nội dung cơ
bản của thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là lao động sản xuất
vật chất, đấu tranh giai cấp trong xã hội con người và hoạt động thực tiễn của
nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.Triết học của Phoiơbắc cũng
bộc lộ những hạn chế.
1.2. Quan điểm Mácxít về lý luận nhận thức
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan điểm, ngun tắc có tính nền
tảng về lý luận nhận thức, thực hiện bước ngoặt cách mạng trong lý luận nói
chung và lý luận nhận thưc nói riêng. C. Mác cho rằng khuyết điểm chủ yếu của
toàn bộ chủ nghĩa duy vật, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, là đã khơng
thấy được vai trị của thực tiễn cũng như của chủ thể nhận thức; rằng, đối với
nó, các “…sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình
thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động
cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan” 2.
2


Mác Ăngghen, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1984, t. 29, tr.230.

10


Với ông, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý và “vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt tới chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một
vấn đề lý luận mà là một vấn đề để thực tiễn”; rằng, đời sống xã hội, về bản
chất, là có tính thực tiễn. Như vậy, nhận thức khoa học đã được C.Mác coi như
một hình thức hoạt động đặc thù, một quá trình phản ánh tích cực về hiện thực
thơng qua những chủ thể xã hội và là sự thu nhận tri thức vào ý thức con người.
V.I. Lênin đã kế tục tư tưởng vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, phát
triển sâu sắc lý luận nhận thức nói chung và nhận thức khoa học nói riêng
như một bộ phận cấu thành hệ thống triết học macxít hồn chỉnh. Ơng cho
rằng, nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người, bao gồm cả một
chuỗi những sự trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành các khái niệm, quy
luật…;rằng “nhận thức là quá trình, xâm nhập (của trí tuệ) vào giới tự
nhiên…” và nó "... là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách
thể..."3. Đặc biệt, trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, Lênin đã chỉ ra những vấn đề cơ bản nhất của nhận thức khoa học, như
đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người
và biện chứng phức tạp của q trình nhận thức. Điều đó đã khẳng định vấn
đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng. Hơn thế, trong khi
khái quát về nhận thức khoa học và khả năng nhận thức của con người đối
với thế giới khách quan, Lênin đã phê phán sâu sắc các quan điểm duy vật
siêu hình, duy tâm, thuyết không thể biết... liên quan đến vấn đề này.
Lý luận nhận thức trong triết học Mác - Lênin là một trong những thành
qủa vĩ đại của khoa học triết học và nó tiếp tục được các nhà triết học mácxít
sau này vận dụng, phát triển. Nhà triết học Nga V.I.Cúpxốp chỉ ra rằng, nhận
thức khoa học có thể chia thành kết quả nhận thức và quá trình thu nhận tri thức

đó. Nếu tiếp cận nhận thức khoa học như một q trình thì nó được bắt đầu từ
việc thu thập những sự kiện. Song, sự tích luỹ các sự kiện khoa học không diễn
ra một cách tự phát, mà là hoạt động có mục đích, có kế hoạch và có ý thức. Bởi
3

V. LêNin tồn tập, Nxb Tiến bộ, M.1984, t.29, tr.129

11


vì, trên thực tế, trước khi triển khai việc nghiên cứu một vấn đề nào đó, nhà
khoa học đã chủ động xác định cần phải thu thập những sự kiện, tài liệu nào, ở
đâu và sử dụng các phương tiện, phương pháp gì để đạt được mục tiêu đề ra...
Xét về tư duy khoa học, nhận thức khoa học là hình thái có tính trừu tượng và
khái qt cao nhất, nhằm mục đích tìm kiếm, phát hiện các ngun lý, sơ đồ
khoa học mới có tính tổng qt hơn, sâu sắc hơn. Nhìn một cách tổng qt, có
thể thấy rằng, nhận thức khoa học được hình thành một cách tự giác và mang
tính trừu tượng, khái quát ngày một cao, đồng thời, nó thể hiện tính năng động,
sáng tạo của tư duy trừu tượng. Theo đó, những thuộc tính, kết cấu, những mối
quan hệ bản chất, những quy luật của thế giới khách quan được phản ánh dưới
dạng logic trừu tượng. Mục đích của hoạt động nhận thức khoa học là hướng tới
nắm bắt được cái có tính quy luật, cái bản chất chứ khơng dừng lại ở cái bề
ngồi, cái ngẫu nhiên, cái đơn nhất của đối tượng được nhận thức.
2. Thực trạng công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay
2.1. Sự đóng góp của cơng tác tư tưởng, lý luận ở nước
ta qua các thời kỳ
Lênin đã khẳng định: “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có phong
trào cách mạng”, “chỉ Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”. Hồ Chí Minh nói: Đảng
mà khơng có lý luận dẫn đường thì “cũng như người khơng có trí khơn, tàu

khơng có bàn chỉ nam”
Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của BCHTW Đảng khoá IX “Về nhiệm vụ chủ
yếu của công tác của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” đã chỉ rõ:
Trong những năm tới phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, làm
sáng tỏ hơn nữa về nhận thức về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Hội nghị nhấn mạnh: Phải coi trọng tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lý
luận và cả trong hoạt động của các cấp uỷ đảng, coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ
thường xuyên của các cấp các ngành, gắn nghiên cứu thực tiễn Việt Nam với tiếp
12


thu có trọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại.
Đảng ta khẳng định như vậy là muốn nhấn mạnh rằng, trong suốt q trình
lãnh đạo cách mạng, cơng tác tư tưởng, lý luận luôn luôn gắn liền với sinh mệnh
của Đảng. Cho dù thời đại và thực tiễn cách mạng có nhiều biến động, thay đổi
thì cơng tác tư tưởng, lý luận của Đảng khơng vì thế mà suy giảm vai trị tiên
phong của mình. Trái lại, nó càng phải được phát huy thế mạnh bản chât của
mình để biến những động cơ, lý tưởng đổi mới của Đảng, của đông đảo quần
chúng nhân dân thành hiện thực tươi mới hơn, tốt đẹp hơn; đồng thời, trên cơ sở
khái quát, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, nó tạo thêm nhiều yếu tố, hạt nhân
để làm phong phú, hoàn thiện hệ tư tưởng cũng như hệ thống lý luận của Đảng.
Bởi vậy, công tác tư tưởng, lý luận của Đảng phải là một cơng việc ln ở thế
đón đầu, chủ động và đồng thời, là một lĩnh vực luôn luôn chịu sự thôi thúc của
đổi mới và phát triển.
* Công tác tư tưởng, lý luận từ khi thành lập đến năm 1945
Trong bất kỳ hồn cảnh nào, cơng tác tư tưởng, lý luận cũng phải bám sát
và phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị của Đảng. Điều này càng trở nên quan
trọng và cần thiết khi Đảng còn non trẻ về tổ chức và đặc biệt là chưa thiết lập
được chính quyển cách mạng, tức chưa phải là đảng cầm quyền.
Tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng phải thường xuyên được bổ sung,

phát triển, hoàn thiện để khơng chỉ phù hợp vối tình hình trong nước và trên thế
giới, mà còn định hướng, vạch đường một cách kịp thời, chính xác cho sự phát
triển của thực tiễn cách mạng. Các nghị quyết của Trung ương Đảng được ban
hành kịp thời với nội dung đúng đắn vào những thời điểm sắp có sự thay đổi lớn
về tình hình trong nước và trên thế giới đã chứng minh cho điều đó.
Nắm bắt, đón trước thời cơ của cách mạng, lợi dụng mâu thuẫn trong nội
bộ các nước tư bản đế quốc, thực dân cũng như tranh thủ sự ủng hộ của các
nước đồng minh để ban hành và tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương
giành chính quyền, lật đô chế độ thực dân, phong kiến ngay khi điều kiện cho
13


phép đã thể hiện rõ tài thao lược về công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
* Công tác tư tưởng, lý luận từ năm 1945 đến 1975
Kiên trì tư tưởng, đường lối "phản đế, phản phong", độc lập dân tộc gắn
liền với dân chủ, tiến bộ xã hội và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thể hiện sự
sáng suôt, đúng đắn của Đảng ta trong việc hoạch định đường lối cũng như
trong công tác tư tưởng, lý luận. Khi đã có thực lực, có chính quyền trong tay
(dù chưa phải là tất cả) và sự ủng hộ mạnh mẽ của đơng đảo quần chúng thì
cơng tác tư tưởng, lý luận của Đảng càng phải phát huy vai trị, sức mạnh của
mình hơn bao giờ hết. Điều đó thể hiện ở chỗ công tác tư tưởng, lý luận ln
chủ động, tích cực vận hành theo quy luật nội tại của mình, song nó cũng phải
tơn trọng những quy luật khách quan của hiện thực cách mạng trong nước cũng
như của phong trào cách mạng thế giới. Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng
phải có những nội dung phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của đa số nhân dân,
có phương thức chuyển tải thích hợp thì mới tạo nên ý chí, sức mạnh tinh thần
và vật chất to lớn của cả dân tộc.
Chỉ có thể phát huy được vai trò to lớn của quần chúng, biến động cơ, tư
tưởng của họ thành sức mạnh vật chất khi công tác tư tưởng, lý luận gắn kết chặt
chẽ với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực quân sự, cả

trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đê quốc Mỹ, việc thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng để biểu dương kịp thời những gương "người
tốt, việc tốt", những nhân tố điển hình, tiên tiến đã tạo ra sự cổ vũ, khích lệ to lớn
đối với đơng đảo quần chúng nhân dân, nhất là những chiến sĩ đang chiến đấu
ngồi mặt trận.
Cơng tác tư tưởng, lý luận đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động đối
ngoại của Đảng và Nhà nước. Nhờ có sự thơng tin, tun truyền kịp thời, phản
ánh đầy đủ ý chí của quân và dân ta trong chiến đấu cũng như trong lao động
sản xuất đến bạn bè quốc tế, chúng ta đã nhận được sự ủng hộ to lớn đối với sự
nghiệp chính nghĩa của dân tộc, nhất là sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
14


* Công tác tư tưởng, lý luận từ năm 1975 đến năm 1986
Mặc dù cuộc , sống có những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn do điều kiện
lịch sử hoặc do những yếu tố" khách quan như chiến tranh, thiên tai... nhưng cán
bộ, đảng viên và nhân dân vẫn quyết tâm vượt qua, vẫn yên tâm, phấn khởi lao
động và chiến đấu bởi họ tin tưởng vào công tác tư tưởng, lý luận cũng như
đường lối, chủ trương của Đảng và tương lai của đất nước.
Trong những giai đoạn khó khăn của đất nước, nếu đội ngũ cán bộ, đảng
viên đồn kết, gương mẫu, “nói đi đơi với làm”, đồng thời, công tác tư tưởng, lý
luận đem lại hiệu quả thực tế và trực tiếp, thì đó là sự tác động tư tưởng rất lớn,
tích cực nhất đến tư tưởng, niềm tin của nhân dân.
Khi đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế kéo dài mà Đảng, Nhà nước
khơng có đường lối, chính sách đúng đắn để kịp thời tháo gỡ; công tác tư tưởng,
lý luận của Đảng cũng lúng túng, khơng có sự đổi mới về nội dung, phương
thức, và điều quan trọng nữa là, khơng ít cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa,
biến chất, thì niềm tin của một bộ phận nhân dân sẽ giảm sút nhanh chóng, đồng
thời tâm thế chính trị của họ cũng dễ bị tổn thương.
* Công tác tư tưởng, lý luận từ 1986 đến nay

Trước sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, kéo dài, tại Đại hội
VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Theo đó, đổi
mới tồn diện đất nước có nghĩa là "đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực",
mà trọng tâm trước mắt là đổi mối chính sách kinh tế, giữ vững ổn định
chính trị. Tuy nhiên, tiền đề, xuất phát điểm của sự đổi mới trước hết phải là
đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế.
Về mặt lý luận, chúng ta có thể thấy đổi mới về tư duy, đặc biệt đổi mới tư
duy lý luận là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi
mới tất cả các lĩnh vực của đòi sống xã hội, cả về mặt lý luận lẫn nhận thức.
Chẳng hạn, đó là sự đổi mới tư duy lý luận và nhận thức về chủ nghĩa xã hội;
những đặc trưng và mơ hình của chủ nghĩa xã hội; sự biến đổi và thích nghi của
15


chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới...; vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tồn cầu hóa; vấn đề xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; vấn đề Đảng Cộng
sản cầm quyền và việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong
điểu kiện hiện nay, v.v..
Lý luận (hay công tác lý luận) là nền tảng, tiền đề của công tác tư tưởng.
Bởi vì, cơng tác tư tưởng khơng phải được tiến hành một cách chung chung,
trừu tượng mà phải căn cứ vào nội dung của công tác lý luận, đặc biệt là nội
dung đường lối, chủ trương của Đảng (là sự cụ thể hóa của lý luận). Có thể thấy,
từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, công tác tư tưởng đã bám sát công
tác lý luận cũng như những đưòng lối, chủ trương đổi mới của Đảng. Trước hết,
nó đã tuyên truyền, phổ biến kịp thời những quan điểm lý luận cũng như những
đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân. Nhờ đó, đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào
đường lối đổi mới của Đảng. Niềm tin của họ càng được củng cố khi trên thực
tế, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày càng thu được những thành tựu

to lớn, đem lại kết quả trực tiếp là nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần
cho mọi thành viên trong xã hội. Để kịp thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã thường
xuyên ban hành các chỉ thị, nghị quyết về cơng tác tư tưởng, lý luận. Ví dụ,
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VI, tháng 8-1989, về "Một số vấn đề
cấp bách về công tác tư tưởng"; Nghị quyết số 01 ngày 28-3-1992 của Bộ Chính
trị về công tác lý luận; Nghị quyết số 09 của Bộ Chính trị tháng 1-1995 về một
số định hướng lớn trong công tác tư tưởng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
khóa IX, ngày 18-3-2002, "Vê nhiệm vụ chủ yếu của cơng tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình mới"; Kết luận Hội nghị Trung ương 12 khóa IX về tăng cường
cơng tác tư tưởng trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 5 khóa X, ngày
1-8-2007, "Về cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới"; Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, tháng 7-1998, "Về xây dựng, phát triển
16


nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"; Nghị quyết số 05 của
Bộ Chính trị, ngày 28-11-1987, về "Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản
lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học,
nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới"; Nghị quyết số 23 của Bộ
Chính trị, ngày 16-6-2008, về "Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới"; ..
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ln
kiên trì lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động. Một trong những bài học kinh nghiệm quý báu
mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng rút ra là: “trong bất kỳ điều
kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới,
kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh”4. Trong q trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự vận
dụng, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

về mơ hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - một trong
những vấn đề lý luận cơ bản nhất, trong bối cảnh và điều kiện mới - điều kiện
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nước ta.
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hổ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn,
vận dụng và phát triển sáng tạo hơn lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đặc biệt là
trong điều kiện hệ thống chủ nghĩa xã hội tan rã, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đứng trước nhiều vấn đề cần giải đáp, trong khi nhiều nước tiến hành cải cách,
cải tổ, nhưng không thành công. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những
thành tựu to lớn, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Thành công này
bát nguồn từ sự kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưỏng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong những điều kiện và hồn cảnh có tính
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.180.
4

17


đặc thù như Việt Nam. Điều đó được thể hiện:
Thứ nhất, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn về tính chất đan xen, phức tạp, lâu
dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội: Cương lĩnh năm
1991 đề ra bảy phương hướng. Sau 25 năm đổi mới, Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011 đã đưa ra tám phương hưống lớn.
Thứ ba, về động lực phát triển đất nước trong thòi kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ tư, Đảng ta từng bước nhận thức rõ hơn tính chất đa dạng của cơ cấu
kinh tế, cơ cấu xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

2.2. Thực trạng của công tác tư tưởng, lý luận hiện nay
Cho đến nay công tác lý luận của chúng ta cịn nhiều yếu kém, mặc dù
chúng ta có cả một hệ thống các trường đào tạo nhiều cấp về lý luận, hiện nay
còn nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra mà lý luận còn chưa theo kịp, giải đáp cịn
chưa thuyết phục. Chúng ta có những nhà sử học, nhà sư phạm học… nhưng
những gia tài tri thức họ để lại đều mang tính chất khảo cứu, sưu tầm. Trong
nền triết học Việt Nam đến thế kỷ XX chúng ta cũng chỉ bắt gặp tên tuổi của
nhà triết học Trần Đức Thảo hay y học là Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, tri
thức quân sự là Trần Hưng Đạo, Võ Nguyên Giáp.
Chính sách đối với các nhà khoa học còn cào bằng, chưa tạo động lực để
đội ngũ trí thức, các nhà khoa học chuyên tâm với lao động sáng tạo, chưa có
chính sách sử dụng đúng nhân tài.
Nhiều tỉnh, nhiều địa phương hiện nay rất lúng túng trong việc triển khai
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa lĩnh vực nơng nghiệp, nơng thơn. Nghị quyết
Trung ương 5 khóa X chỉ rõ: “Cơng tác lý luận cịn lạc hậu trên một số mặt,
chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đang vận động nhanh chóng, phong
phú, phức tạp”5. Đại hội IX đánh giá “Công tác tư tưởng, công tác lý luận... có
5

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa

18


nhiều yếu kém, bất cập... Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực
tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong
công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính
sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội” 6. Quy
trình xây dựng và hoạch định đưịng lối, chính sách cịn có biểu hiện thụ động,
có mặt còn thiếu cơ sở khoa học. Vai trò của các cơ quan tham mưu cho Đảng

trong quyết định nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phịng, an
ninh có lúc chưa kịp thời. Cơng tác tham mưu trong việc xây dựng cơ chế, chính
sách trên một số lĩnh vực còn hạn chế, chưa tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội. Quy trình xây dựng chính sách và nghị quyết của
Đảng chưa thực sự được đổi mối, phần lớn là triển khai từ trên xuống. Việc lấy ý
kiến nhân dân trong quá trình chuẩn bị nghị quyết chưa được thường xuyên,
nhiều lĩnh vực chưa được quan tâm thỏa đáng.
Đảng ban hành nhiều nghị quyết, nhưng một số nghị quyết chưa đủ rõ,
chưa phản ánh được thực tiễn cuộc sống, chậm đi vào đời sống; khâu tổ chức
thực hiện vẫn là khâu yếu, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
đối với Đảng. Việc cụ thể hóa đưịng lối, chính sách của Đảng thành những
chương trình hành động, thành các hoạt động cụ thể còn chậm, chưa sâu sắc,
chưa sát yêu cầu. Một số vấn đề về chủ trương thực hiện đường lối cịn chưa
thật thơng suốt hoặc thiếu sự nhất trí cao ở các cấp, các ngành, các địa phương,
đơn vị.
Trong tư duy lý luận, có cả biểu hiện giáo điều, sách vở và kinh nghiệm
chủ nghĩa, chưa làm tốt chức năng định hướng cho hoạt động thực tiễn, cung
cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định. Những biểu hiện của chủ nghĩa kinh
nghiệm, chủ nghĩa hình thức, bệnh giáo điểu trong xây dựng Đảng về chính trị,
tư tưởng chưa hồn tồn được khắc phục. Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cịn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu cịn hạn chế, chưa sát
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.36-37.
6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.78.

19


thực tiễn. Công tác đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những

quan điểm mơ hồ, sai trái, chưa quyết liệt và chưa hiệu quả. Chất lượng của các
sản phẩm khoa học chưa cao, còn thiếu những cơng trình mang tầm tổng kết,
khái qt cao; hoặc tổng kết thực tiễn thường theo chủ nghĩa kinh nghiệm. Bệnh
minh họa, sự trùng lặp trong nghiên cứu còn khá phổ biến. Tuy nhiên cũng có
nhiều vấn đề lý luận phải chò thực tiễn bộc lộ tương đối rõ thực chất, đủ độ chín
muồi cần thiết mới có thể khái qt thành lý.
2.3. Giải pháp nâng công công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay
Công tác tư tưởng, lý luận là một lĩnh vực rộng lớn chứ không đơn thuần
là những hoạt động có tính chất tun giáo hay tuyên truyền, vận động của
một cơ quan chức năng nào đó. Để có sự chuyển biến về tư tưởng, lý luận đòi
hỏi nhiều hoạt động của các cơ quan chức năng, ban ngành, nhiều phương
tiện, thiết chế để tác động vào các nhóm xã hội trong những thời điểm nhất
định. Chính vì vậy Đảng ta phải chú trọng một số nội dung cần thiết để phát
triển công tác tư tưởng, lý luận hiện nay.
Thứ nhất: Đảng cần chú trọng công tác chọn người trong công tác phụ
trách tư tưởng lý luận.
Đảng phải nhất thiết chọn những người có tri thức, có trình độ lý luận, am
hiểu những vấn đề lý luận mà Đảng quan tâm và nhất là am hiểu những đặc thù
của công tác tư tưởng lý luận.
Thứ hai: Phải coi trọng việc đào tạo và tuyển chọn những người làm cơng
tác tư tưởng, lý luận.
Đó phải là những người có tri thức khoa học xã hội và nhân văn, có thiên
hướng và nhiệt tình trong cơng tác lý luận.
Thứ ba: Chăm lo đời sống của người làm công tác tư tưởng lý luận
Thứ tư: Muốn làm tốt cơng tác tư tưởng, lý luận thì các cơ sở đảng phải
có sự nhận diện thơng tin thật sáng suốt, cung cấp thông tin phải kịp thời,
20


đúng đối tượng và đúng thời điểm. Thơng tin có giá trị nhất định khi nó có

thể thay đổi niềm tin và hành động nhưng nó cũng có thể phản tác dụng khi
xuất hiện không đúng thời điểm, không phù hợp với đối tượng. Gắn việc tổng
kết thực tiễn với công tác lý luận.
Thứ năm: công tác tư tưởng, lý luận phải bám sát thực tiễn đời sống,
không chỉ đối với cán bộ, đảng viên mà phải thâm nhập trong quần chúng;
thường xuyên nắm bắt thái độ, niềm tin, tâm trạng xã hội thông qua các cuộc
điều tra xã hội học để có những giải pháp phát huy, chấn chỉnh và uốn nắn kịp
thời.
PGS. TS. Vũ Duy Thông cho rằng: “Kinh nghiệm hàng đầu là mọi hoạt
động tuyên truyền, tư tưởng văn hố đều phải có cơ sở của nó. Tức là chúng ta
đứng về phía chính nghĩa, về phía chân lý. Nếu như khơng có chân lý trong tay,
anh tuyên truyền bao nhiêu cũng thất bại. Bài học lớn nhất của cơng tác tư
tưởng, văn hố là phải trung thực vối hiện thực và phải vì nhân dân mà tiến
hành cơng tác tư tưởng thì sẽ thu được những thắng lợi to lớn”.

21


KẾT LUẬN
Như vậy, nhìn vào sự phát triển của đất nước trong những thập niên gần
đây, chúng ta có thể khẳng định: nếu không xuất phát từ thực tiễn, không tổng
kết thực tiễn thì chắc chắn khơng thể có lý luận đổi mới đúng đắn. Ngược lại,
nếu khơng có sự định hướng của lý luận, khơng có lý luận đổi mới đúng đắn thì
khơng thể có thực tiễn đổi mối thành cơng. Điều đó cho thấy, việc thu hút, phát
huy trí tuệ của tập thể và cá nhân các nhà khoa học, những người làm công tác
tư tưởng, lý luận vào nghiên cứu, suy nghĩ, tìm tịi để đề xuất và phân tích ý
nghĩa, sự cần thiết của những quan điểm, nguyên tắc và định hướng, giải pháp
cơ bản nhằm đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong tình hình mới là
một cơng việc rất khó khăn nhưng cũng rất hệ trọng.
Tuy nhiên, giống như đời sống vật chất - xã hội nói chung, đời sống tư

tưởng, lý luận cũng có tính hiện thực - tinh thần và đặc biệt là cũng bao hàm
trong nó những quy luật có tính xác định, tuy rằng chúng ln ln vận động,
biến đổi. Bởi vậy, khi chúng ta biết phát huy cao độ năng lực tư duy khoa học lý luận, nhất là biết xuất phát từ chính nhu cầu không ngừng đổi mới, phát triển
công tác tư tưởng, lý luận, thì chúng ta sẽ có thể nắm bắt được bản chất của
những quy luật đó. Và khi đó, chúng ta mới có thể hy vọng đề xuất được những
quan điểm, nguyên tắc và phương hướng, giải pháp hợp lý, sát thực nhằm đổi
mới công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin (I,II)
2. Triết học Mác - Lênin - Chương trình cao cấp (I,II,III)
3. Kinh tế chính trị Mác - Lênin ( Phần kinh tế xã hội chủ nghĩa )
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI,VII,VIII,IX,X,XI,XII của Đảng
cộng sản Việt Nam.
5. Tạp chí: nghiên cứu lý luận
6. Tạp chí triết học
7. Địa lý Việt Nam
8. C.Mác - F.Engghen - tuyển tập - 1981
9. Hồ Chí Minh - tuyển tập - 1996
10.V.I.Lênin - tồn tập – 1980

23



×