Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu Trà Vinh doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.73 KB, 5 trang )

Trà Vinh
Trà Vinh là tỉnh ven biển ở đồng bằng sông
Cửu Long, miền Nam Việt Nam.
Trung tâm tỉnh lỵ là thị xã Trà Vinh, nằm trên
Quốc lộ 53, cách Thành phố Hồ Chí Minh gần
200 km và cách thành phố Cần Thơ 100 km.
Địa lý
Vị trí
Trà Vinh là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu
long; vị trí địa lý giới hạn từ 9°31'46" đến
10°4'5" vĩ độ Bắc và từ 105°57'16" đến
106°36'04" kinh độ Đông.
Phía bắc Trà Vinh giáp với Bến Tre, phía nam
giáp Sóc Trăng, phía tây giáp Vĩnh Long, phía
đông giáp biển với chiều dài bờ biển 65 km.
Đất
Trà Vinh có diện tích tự nhiên 2.215,15 km²
(tương đương 221.515,03 ha) - số liệu 2003,
chia ra như sau:
• Đất ở: 3.151,36 ha
• Đất nông nghiệp: 180.004,31 ha
• Đất lâm nghiệp: 6.080,20 ha
• Đất chuyên dùng: 9.936,22 ha
• Đất chưa sử dụng: 22.242,94 ha
Địa hình
Trà Vinh nằm ở phần cuối cù lao kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là
những khu đất bằng phẳng với độ cao trên dưới 1m so với mặt biển. ở vùng đồng bằng
ven biển nên có các giồng cát, chạy liên tục theo bình vòng cung và song song với bờ
biển. Càng về phía biển, các giồng này càng cao và rộng lớn.
Do sự chia cắt bởi các giồng và hệ thống trục lộ, kinh rạch chằng chịt, địa hình toàn vùng
khá phức tạp. Các vùng trũng xen kẹp với các giồng cao, xu thế độ dốc chỉ thể hiện trên


từng cánh đồng. Riêng phần phía nam tỉnh là vùng đất thấp, bị các giống cát hình cánh
Tỉnh Trà Vinh
Tỉnh Việt Nam
Chính trị và hành chính
Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Thái Bình
Chủ tịch HĐND Nguyễn Thái Bình
Chủ tịch UBND Trần Hoàn Kim
Địa lý
Tỉnh lỵ Thị xã Trà Vinh
Miền Tây Nam Bộ
Diện tích 2.215,1 km²
Các thị xã /
huyện
1 thị xã và 7 huyện
Nhân khẩu
Số dân (2004)
• Mật độ
1.015.800 người
458,6 người/km²
Dân tộc Kinh, Khmer
Mã điện thoại 74
Mã bưu chính: 90
ISO 3166-2 VN-51
Website [1]
Biển số xe: 84
cung chia cắt thành nhiều vùng trũng cục bộ, nhiều nơi chỉ ở độ cao 0,5-0,8 m nên hàng
năm thường bị ngập mặn 0,4-0,8 m trong thời gian 3-5 tháng.
Giao thông
Như hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, giao thông đường thuỷ rất thông dụng
và thuận lợi. Tuy nhiên trước đây đường bộ chủ yếu dựa theo trục lộ nối với Vĩnh Long

và gần như là độc đạo. Hiện nay với sự phát triển hạ tầng giao thông đường bộ mạnh mẽ
của tỉnh cùng với Bến Tre và Tiền Giang hình thành tuyến đường bộ thứ hai để đi Thành
phố Hồ Chí Minh qua các phà nối sông Cổ Chiên có thể rút ngắn rất nhiều cự ly (chỉ còn
khoảng 120 km thay vì gần 200 km nếu đi ngã Vĩnh Long).
Sau sự huỷ diệt của chiến tranh, ngày nay các con đường và cầu cống đang được khôi
phục và làm mới tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và văn hoá cho người dân nhiều
cơ hội hoà nhập với xu thế của cả nước.
Sông ngòi
Trên địa bàn Trà Vinh có hệ thống sông chính với tổng chiều dài 578 km, trong đó có các
sông lớn là sông Hậu, sông Cổ Chiên và sông Măng Thít. Các sông ngòi, kênh rạch trên
địa bàn Trà Vinh hợp lưu đổ ra biển chủ yếu qua hai cửa sông chính là cửa Cổ Chiên hay
còn gọi là cửa Cung Hầu và cửa Định An.
Vùng biển
Biển Trà Vinh là một trong những ngư trường lớn của Việt Nam với trữ lượng 1,2 triệu
tấn hải sản các loại, cho phép đánh bắt 63 vạn tấn/năm.
Khí hậu
Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi
chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do
đặc thù của vùng khí hậu ven biển tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như:
gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít.
Nhiệt độ trung bình toàn tỉnh là 26,6°C, biên độ nhiệt giữa tối cao: 35,8°C, nhiệt độ tối
thấp: 18,5°C biên độ nhiệt giữa ngày và đêm thấp: 6,4°C. Nhìn chung nhiệt độ tương đối
điều hòa và sự phân chia 4 mùa trong năm không rõ chủ yếu 2 mùa mưa, nắng.
Ẩm độ trung bình cả năm biến thiên từ 80-85%, biến thiên ẩm độ có xu thế biến đổi theo
mùa; mùa khô đạt: 79%, mùa mưa đạt 88%.
Tổng lượng mưa từ trung bình đến thấp (1588-1227 mm), phân bố không ổn định và
phân hóa mạnh theo thời gian và không gian. Lượng mưa giảm dần từ Bắc xuống Nam,
cao nhất ở Càng Long, Trà Vinh; thấp nhất ở Cầu Ngang và Duyên Hải.
Về thời gian mưa, có 90% lượng mưa năm tập trung vào mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến
tháng 11. Càng về phía biển, thời gian mưa càng ngắn dần tức là mùa mưa bắt đầu muộn

nhưng kết thúc sớm. Huyện có số ngày mưa cao nhất là Càng Long (118 ngày), Trà Vinh
(98 ngày); thấp nhất là Duyên Hải (77 ngày) và Cầu Ngang (79 ngày).
Hạn hàng năm thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục
10-18 ngày. Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu
vụ (tháng 6, 7) là quan trọng trong khi các huyện còn lại: Châu Thành, Cầu Ngang,
Duyên Hải hạn giữa vụ (tháng 7, 8) thường nghiêm trọng hơn.
Hành chính
Hiện nay Trà Vinh có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thị xã Trà Vinh và 7
huyện với 94 xã, phường và thị trấn. Bảy huyện là:
• Càng Long
• Châu Thành
• Cầu Kè
• Tiểu Cần
• Cầu Ngang
• Trà Cú
• Duyên Hải
Dân cư
Dân số:
• 1971: 411.190
• 2000: 973.065
Trên địa bàn Trà Vinh có 29 dân tộc, nhưng đông nhất là người Kinh (69%) và người
Khmer (29%).
Dân số Trà Vinh chiếm 5,99% Đồng bằng sông Cửu Long (theo điều tra dân số năm
2000), trong đó hơn 87% sống ở khu nông thôn. Mật độ dân số 414 người/km², tỷ lệ tăng
dân số năm 2000 là 1,65.
Theo tài liệu tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999, trên địa bàn Trà Vinh có trên
290,9 nghìn người Khmer, chiếm 30,1% dân số toàn tỉnh và chiếm 27,6% số người
Khmer của cả nước.
Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc
đặc trưng: tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù.

Lịch sử
Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là tên 1 huyện (trước đó là phủ) thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh
Vĩnh Long (được lập ra năm 1832).
Năm 1876, Pháp chia tỉnh Vĩnh Long cũ thành 3 tiểu khu (hạt tham biện): Vĩnh Long,
Trà Vinh, Bến Tre.
Trà Vinh được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền
Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) thành
tỉnh (province), kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Như vậy Trà Vinh là 1 trong 20 tỉnh ở
Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Dưới thời Pháp thuộc, Trà Vinh gồm 8 quận: Càng Long, Cầu Ngang, Cầu Kè (ban đầu
thuộc tỉnh Cần Thơ, sau nhập vào tỉnh Vĩnh Long rồi Trà Vinh), Châu Thành, Long Toàn
(nay là huyện Duyên Hải), Tiểu Cần, Trà Cú và Trà Ôn.
Ngày 27/6/1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ (thuộc chính quyền Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa) nhập 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Trà. Huyện Tiểu
Cần được nhập vào huyện Càng Long. Tỉnh Vĩnh Trà tồn tại đến năm 1954.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình theo Sắc
lệnh 143-NV của Tổng thống ngày 22 tháng 10 năm 1956.
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi này mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Trà Vinh.
Tháng 2/1976 Trà Vinh hợp nhất với Vĩnh Long thành tỉnh Cửu Long và cho đến ngày
26-12-1991 mới tách ra như cũ. Khi tách ra, tỉnh Trà Vinh có diện tích 2363,03 km², dân
số 961.638 người, gồm thị xã Trà Vinh và 7 huyện như hiện nay.
Văn hóa
Tuy là vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hoá đa dạng, đặc biệt là văn hoá vật
thể và phi vật thể của người Khmer. Người Khmer có chữ viết riêng, các lễ hội truyền
thống như Chol chnam thmay (mừng năm mới), Dolta (lễ cúng ông bà), Ok Om Bok (lễ
cúng trăng), Lễ hội nghinh ông (lễ cúng biển), Dâng bông, Dâng phước và các phong tục
tập quán có giá trị văn hoá khác.
Người Khmer còn xây dựng trên địa bàn Trà Vinh nhiều chùa có kiến trúc độc đáo và hoà

quyện thiên nhiên, tiêu biểu là chùa Âng, toạ lạc tên khu đất rộng 4 ha, trong thắng cảnh
Ao Bà Om.Theo thống kê trên địa bàn Trà Vinh có tới 140 chùa Khmer, vượt xa số lượng
của người Kinh, người Hoa và của các dân tộc khác hiện có trên địa bàn Trà Vinh cộng
lại.
Ngoài ra có chùa Hang, ở khu đất 10 ha với những cây cổ thụ xum xuê rộn tiếng chim gọi
bầy; chùa Nôdol còn gọi là chùa Cò vì trên khuôn viên chùa rộng 3 ha đã hơn 100 năm
nay trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con cò và nhiều loại con chim quý khác; chùa
Samrônge, tương truyền được xây dựng lần đầu vào năm 642 và xây dựng lại năm 1850
với nhiều biểu tượng bằng đá quý và những tấm bia cổ khắc chữ Khmer.
Lễ hội cúng ông (Quan Công, địa phương gọi là "ông bổn") của người Hoa vào rằm
tháng 7 hàng năm tại huyện Cầu Kè.
Vài nơi tập trung khu xóm theo Thiên Chúa Giáo như Bãi San, Đức Mỹ Nhà thờ tại thị
xã Trà vinh có kiến trúc đẹp và cổ điển. Giáo xứ Nhị Long huyện Càng Long có Cha cố
rất trẻ thụ phong Linh mục lúc 28 tuổi (Cha Sơn).
Ẩm thực
Trà Vinh có một số đồ ăn thức uống đã trở thành các đặc sản địa phương như cốm dẹp
trộn dừa kiểu Khmer; các món đuông như đuông chà là, đuông đất và đuông dừa; mắm
rươi; rượu Xuân Thạnh, bánh tét, bánh tráng ba xe, mắm kho, bún nước lèo, lươn um lá
cách, cá cháy Cầu Quan, tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ, chuột đồng khìa nước dừa, vọp
chong nướng lụi, bánh xèo, bánh ống, bánh canh Bến Có v.v.
Kinh tế
Kinh tế chủ yếu dựa vào chăn nuôi, và trồng trọt. Thu nhập bình quân rất thấp.
50USD/người/tháng. Hiện tại tỉnh đang đầu tư vào hạ tầng cơ sở ở khu công nghiệp Long
Đức nhằm thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp. Với mục tiêu giải quyết việc làm cho
người lao động. Chủ yếu từ các ngành nghề như: may mặc, giày da, và các mặt hàng thủ
công, sản xuất các mặt hàng tiêu dùng.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×