Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

NHỮNG tác ĐỘNG đối với nền KINH tế VIỆT NAM KHI THAM GIA CỘNG ĐỒNG KINH tế ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477 KB, 60 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

AEC

Asean
Community

AFTA

Asean Free Trade Area

ASEAN

Association of
Asia Nations

CEPT

Common
Effectively Hiệp định chung về ưu
Preferential Tariffs
đãi thuế quan mậu dịch

EU



European Union

Economic Cộng đồng
ASEAN

Kinh

tế

Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN

Southeast Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á

Liên minh Châu Âu

1


FTA

Free Trade Area

Khu vực mậu dịch tự do

IMF

International

Fund

WB

World Bank

Ngân hàng thế giới

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại thế
giới

Monetary Quỹ tiền tệ quốc tế

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH
STT

Tên biểu đồ

Nội dung biểu đồ

1

Bảng 1.1

Thu nhập bình quân đầu 21
người các nước thành viên

ASEAN năm 2018

2

Bảng 2.1

Kim ngạch, tỷ trọng xuất 34
khẩu một số nhóm mặt hàng
chính của Việt Nam sang thị
trường ASEAN trong năm
2017

3

Bảng 2.2

Kim ngạch, tỷ trọng nhập
khẩu một số nhóm hàng

Trang

36


chính của Việt Nam có xuất
xứ từ ASEAN trong năm
2017
4

Bảng 2.3


5

Biểu đồ 2.1

Kim ngạch hàng hóa xuất 31
khẩu, nhập khẩu và cán cân
thương mại giữa Việt Nam và
ASEAN các năm 2011-2017

6

Biểu đồ 2.2

Cán cân thương mại của các 34
nước thành viên ASEAN với
Việt Nam trong năm 2017

7

Biểu đồ 2.3

Tỷ trọng kim ngạch xuất 38
khẩu của Việt Nam sang thị
trường ASEAN trong năm
2017

8

Biểu đồ 2.4


Tỷ trọng kim ngạch nhập 39
khẩu của Việt Nam các hàng
hóa có xuất xứ từ ASEAN
trong năm 2017

9

Hình 1.1

GDP đầu người của các nước 19
ASEAN năm 2018

10

Hình 1.2

Cơ cấu GDP theo ngành của 20
Việt Nam năm 2017

11

Hình 1.3

Kim ngạch xuất khẩu, nhập 21
khẩu của Việt Nam sang các
châu lục năm 2018

Kim ngạch, tốc độ tăng/giảm
xuất khẩu, nhập khẩu của

Việt Nam với các nước
ASEAN trong năm 2017

37


NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM KHI THAM GIA CỘNG ĐỒNG
KINH TẾ ASEAN
Họ tên cá nhân: Nguyễn Thanh Giang
Khoa: Kinh tế
Lớp: CQ55/61.01


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of
Southeast Asian Nations, viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Cộng đồng kinh tế ASEAN (tiếng Anh: ASEAN Economic Community,
viết tắt: AEC) là một khối kinh tế khu vực của 10 quốc gia thành viên
ASEAN chính thức được thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, khi
bản tuyên bố thành lập chính thức có hiệu lực. AEC là một trong ba trụ
cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra
trong Tầm nhìn ASEAN 2020.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập là để thực hiện mục tiêu
cuối cùng của hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 2020", nhằm
hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả
năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu
chuyển tự do và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng

đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào năm 2020.
Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN (2004-2010) - Chương
trình Hành động Vientiane đã xác định rõ hơn mục đích của AEC là: tăng
cường năng lực cạnh tranh thông qua hội nhập nhanh hơn, nhằm thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN.


Việt Nam đã chính thức gia nhập vào AEC được hơn 3 năm. Tham gia
vào tiến trình xây dựng cộng đồng này, Việt Nam có thêm nhiều cơ hội để
tiếp cận thị trường trong và ngồi khu vực, qua đó mở rộng thị trường,
đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu
vào nhập khẩu, từ đó, góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế và thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Mặc dù trong nước và trên quốc tế
đã có những bài nghiên cứu về những tác động vào nền kinh tế Việt Nam
khi tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN, tuy nhiên những bài nghiên
cứu đó chưa chỉ ra rõ những tác động hoặc chỉ mới chỉ ra chưa rõ ràng
các tác động đó. Vì vậy nghiên cứu này là cấp thiết.
2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu
2.1.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu những tác động đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia
vào AEC. Từ đó chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế
Việt Nam và đưa ra những đề xuất để Chính phủ, các doanh nghiệp sẽ
nắm được cơ hội và tránh những tác động xấu tới doanh nghiệp và nền
kinh tế.
2.2.

Đối tượng nghiên cứu


Các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân mà chịu ảnh
hưởng từ việc Việt Nam tham gia vào AEC. Họ đại diện cho một bộ phận
các doanh nghiệp của Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, tác giả sử dụng các phương pháp
sau để nghiên cứu

- Phương pháp thu thập thơng tin và xử lí thơng tin: bằng cách khảo sát
một số đối tượng phù hợp với các tiêu chí đề ra, cùng các dữ liệu đã có
trên những nguồn uy tín, tác giả tiến hành tổng hợp, phân loại thông tin.


- Phương pháp thống kê, phân tích: từ những số liệu đã có, tác giả tiến
hành phân tích những số liệu đó để rút ra xu hướng phát triển của nền
kinh tế Việt Nam
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về tác động đối với ngành nông nghiệp và thương mại. Đây
là những ngành chủ lực và quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tác giả
sẽ nghiên cứu 2 ngành này kể từ khi tham gia vào AEC nên cần số liệu
của nền kinh tế Việt Nam trong vòng 3 năm kể từ năm 2017, 2018, 2019
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn



Ý nghĩa khoa học

Đề tài đã làm rõ được một số lý luận cơ bản về Cộng đồng kinh tế
ASEAN(AEC), đồng thời đề tài đã làm rõ được nhân tố của AEC tác động
tới nền kinh tế Việt Nam.Trên cơ sở các lý luận đưa ra, sau khi phân tích

về tác động của AEC tới nền kinh tế Việt Nam tác giả đã đưa ra các đánh
giá trên hai khía cạnh ưu, nhược điểm. Đồng thời cũng phân tích và nêu
ra cơ hội và thách thức Việt Nam phải đối mặt khi tham gia AEC.
Đề tài đã đưa ra một số giải pháp để nền kinh tế Việt Nam có thể
phù hợp với AEC trên cơ sở các hạn chế cịn tồn tại nhằm thiết lập một
mơi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tại Việt Nam.

● Ý nghĩa thực tiễn:
Tác giả đã phân tích ở những khía cạnh và góc độ khác nhau về
thực trạng tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN tới nền kinh tế Việt
Nam. Nhũng thực trạng đó liên quan tới lợi ích và khó khăn mà Việt Nam
phải đối mặt khi gia nhập AEC. Tất cả những nghiên cứu đều khẳng định
AEC có tác động rất lớn và quan trọng đến Việt Nam.
Những tài liệu đã phác họa được bức tranh toàn cảnh về mức độ
quan trọng của AEC ảnh hưởng tới nhà nước nói chung và các doanh
nghiệp Việt Nam nói riêng.


Tác giả nghiên cứu cũng đã đề xuất một số giải pháp phát huy lợi
ích mà AEC đem lại cũng như khắc phục những hạn chế do AEC mang
đến.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu. phần kết luận, phần tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung chính của bài luận sẽ được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về Cộng đồng kinh tế ASEAN
Chương 2: Những tác động đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia
vào Cộng đồng kinh tế ASEAN
Chương 3: Kết luận và một số biện pháp đề xuất

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ

ASEAN
1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế


-

Việc nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế có thể dưới những góc

độ khác nhau, hiện tại có hai quan điểm hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là việc các
quốc gia tiến hành đàm phán, thương lượng với nhau để đi đến ký kết các
hiệp định kinh tế, thương mại, đầu tư song phương, đa phương nhằm đảm
bảo tính đồng bộ, thống nhất của nền kinh tế quốc gia với kinh tế khu vực
và thế giới.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là việc các quốc
gia từng bước loại bỏ các rào cản thương mại, đầu tư nhằm tạo điều kiện
cho việc di chuyển, trao đổi các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia để các
quốc gia có điều kiện phát triển nền kinh tế trong nước nhanh hơn, có hiệu
quả hơn.
-

Do đó, ở phạm vi của một quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế là thực

hiện mở cửa kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế quốc gia gắn liền với kinh
tế khu vực và thế giới, tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế
quốc tế, vào hệ thống thương mại đa phương.
1.1.2. Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Thực chất hội nhập kinh tế quốc tế
Thực chất của hội nhập kinh tế là phát triển kinh tế quốc gia trong

sự cạnh tranh với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy,
tiêu chuẩn để đánh giá quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc
gia phải thể hiện ở việc thực hiện được các mục tiêu phát triển ở mức độ
cao trong điều kiện nền kinh tế mở cửa cùng với việc nâng cao được năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp trong nước.
1.1.2.2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế

a. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế
Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong
khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ những nguyên tắc của
các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia


+ Tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng
+ Áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu
đãi cho các nước đang và chậm phát triển.
+ Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt.

b. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là việc thực hiện tự do hóa
thương mại và đầu tư. Vì vậy, để hội nhập kinh tế quốc tế các nước cần
phải từng bước dỡ bỏ các rào cản về thương mại và đầu tư tham gia vào
liên kết kinh tế quốc tế. Đối với một quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế
được thể hiện thông qua việc Chính phủ đàm phán ký kết các hiệp định
song phương đa phương, tham gia đưa ra và thực hiện các cam kết sau:
+ Cam kết dành ưu đãi cho các nước khác trong quan hệ kinh tế,
thương mại;
+ Cam kết về mức độ và lộ trình mở cửa của thị trường nội địa;

+ Cam kết về mức độ cắt giảm thuế quan từng bước dỡ bỏ rào cản phi
thuế quan trong quan hệ thương mại và đầu tư;
+ Cam kết thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc
minh bạch và công khai của hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến
thương mại và đầu tư.
1.1.2.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam
Ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là 1 trong
những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Quốc gia nào đóng cửa với
thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc
hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất
định, song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với
những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
truyền thông và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết
chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng tồn cầu hố được thể
hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới.


- Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày
càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá trị trao đổi buôn
bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi
đáng kể. Cơng nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ.
- Về tài chính: số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã
tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các
tổ chức kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hố. Nó góp phần thúc đẩy
nền kinh tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa.
Tuy nhiên trong xu thế tồn cầu hố các nước giàu ln có những lợi
thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có
nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá
trình hội nhập. Từng là một nước nghèo trên thế giới, sau hơn hàng chục
năm bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ

chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, từ
một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền kinh tế
thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. Nhưng khơng vì thế
mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận
thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một
bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể không hội nhập với thế giới. Chỉ
có hội nhập mới khiến Việt Nam khai thác hết những nội lực sẵn có để có
thể có những thuận lợi trong phát triển kinh tế. Chính vì vậy mà đại hội
Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối chiến
lược: “ Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết Trung ương
4 đã đề ra nhiệm vụ: “Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa
nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập với khu
vực và thế giới”.
1.2 Lịch sử hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN


● Năm 1992: khái niệm hội nhập kinh tế ASEAN lần đầu tiên được
đưa ra trong Hiệp định khung về Thúc đẩy Hợp tác Kinh tế ASEAN
ký tại Singapore. Hiệp định này nhấn mạnh tầm quan trọng trong
hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, cơng nghiệp, năng lượng và
khống sản, tài chính và ngân hàng, thực phẩm, nơng nghiệp và lâm
nghiệp, giao thông và truyền thông.

● Năm 1992: Hiệp định về Chương trình Ưu đãi Thuế quan có hiệu
lực chung (CEPT) được ký kết, sau đó được thay thế bởi Hiệp định
về Thương mại Hàng hoá ASEAN 2010.

● Năm 1995: Hiệp định khung về Dịch vụ ASEAN được ký kết
● Năm 1998: Hiệp định khung về Đầu tư ASEAN được ký kết, sau đó

được thay thế bởi Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN 2012.

● Năm 2003: Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 9, các nhà lãnh đạo
ASEAN lần đầu tiên tuyên bố mục tiêu hình thành một Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC). Mục tiêu này cũng phù hợp với Tầm nhìn
ASEAN 2020 thơng qua vào năm 1997 với mục tiêu phát triển
ASEAN thành một Cộng đồng ASEAN.

● Năm 2006: Tại cuộc họp các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 38,
Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint) đã được đưa ra
với các mục tiêu và lộ trình cụ thể cho việc thực hiện AEC.

● Năm 2007: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12, các nhà
lãnh đạo ASEAN đã đồng ý đẩy nhanh việc hình thành AEC vào
năm 2015 thay vì 2020 như kế hoạch ban đầu.

● Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tổ chức vào tháng 2 năm
2009 tại Thái Lan, các Nhà Lãnh đạo đã đưa ra Tuyên bố Cha Am
Hua Hin về “Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (2009-2015)”
với 3 trụ cột chính là: Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Cộng đồng Chính
trị - An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN.

● Ngày 22/11/2015: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 27, các
nhà lãnh đạo ASEAN đã ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc
thành lập AEC.


1.3 Các nội dung chính của Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tổ chức tại Thái Lan cũng thông
qua “Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN” với các

biện pháp và lịch trình cụ thể thực hiện AEC, bao gồm các nội dung:
(i) Xây dựng một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất thông
qua các biện pháp dưới đây:

● Tự do lưu chuyển hàng hoá
● Tự do lưu chuyển dịch vụ
● Tự do lưu chuyển đầu tư
● Tự do lưu chuyển vốn
● Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề
● Lĩnh vực hội nhập ưu tiên
● Thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp
(ii) Đưa ASEAN thành một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh
cao trên cơ sở thực thi những chính sách về:

● Cạnh tranh
● Bảo hộ người tiêu dùng
● Quyền sở hữu trí tuệ
● Phát triển cơ sở hạ tầng
● Thuế quan
● Thương mại điện tử
(iii) Phát triển kinh tế đồng đều thông qua thực hiện các biện pháp về
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Sáng kiến Hội nhập ASEAN nhằm
giúp các nước CLMV (Campuchia, Lào, My-an-ma và Việt Nam) nâng
cao năng lực bằng:

● Các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)
● Sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN
(iv) Hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu trên cơ sở tham gia vào
các Hiệp định thương mại tự do (FTA), tích cực tham gia vào chuỗi cung
ứng toàn cầu bằng những biện pháp như:



● Tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác kinh tế
● Nâng cao năng lực tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu
1.4 Tổng quan về tác động của Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến nền
kinh tế Việt Nam
1.4.1 Tiến trình Việt Nam tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Trong vòng một thập kỷ kể từ khi thành lập ASEAN, kim ngạch
thương mại Việt Nam và ASEAN đã tăng gần 4 lần, từ khoảng 9 tỷ USD
năm 2018 lên đến gần 28,1 tỷ USD năm 2013. ASEAN trở thành thị
trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ và EU, với
kim ngạch 18,47 tỷ USD, tăng 4,4% so với năm trước đó. Về đầu tư. các
dự án có xuất xứ từ ASEAN hoặc thông qua ASEAN ngày một gia tăng.
Đồng thời, ASEAN cũng là thị trường đầu tư chủ yếu của các doanh
nghiệp Việt Nam trong thời gian qua.
Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với tinh thần chủ động, tích cực
và có trách nhiệm. Thúc đẩy việc thành lập AEC ln là một trong những
ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với ASEAN, Việt Nam quyết tâm và dành nỗ lực cao nhất để triển
khai các cam kết, chương trình, sáng kiến hướng tới mục tiêu thành lập
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, đặc biệt là các biện
pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC.


Theo Báo cáo gần đây nhất của Ban Thư ký ASEAN về tỷ lệ thực hiện
các biện pháp trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC), ASEAN đã thực hiện được 91,5% các biện pháp ưu tiên có tác
động lớn đối với thương mại và đầu tư. Việt Nam là một trong các nước
đứng đầu về tỷ lệ thực hiện (tỷ lệ thực hiện các biện pháp ưu tiên đạt
94,5%). Để tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp xây dựng AEC,

các nước ASEAN nhất trí về một số định hướng, bên cạnh các biện pháp
khác, như sau: đánh giá các biện pháp chưa hoàn thành nhằm xác định lý
do chưa hoàn thành là vấn đề kỹ thuật hay vấn đề chính sách; tiếp tục
thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp còn lại trong Lộ trình tổng thể xây
dựng AEC.
Thực hiện chỉ đạo của các Nhà Lãnh đạo ASEAN về việc xây dựng
Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2015, Việt Nam đã cùng các nước
ASEAN khác hồn tất dự thảo Lộ trình tổng thể xây dựng AEC sau năm
2015 tới 2025, dự kiến sẽ được các nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua tại
Hội nghị cấp cao vào tháng 11 sắp tới tại Ma-lai-xia. Nội dung chủ yếu
của tài liệu này là các biện pháp chiến lược xây dựng một nền kinh tế
ASEAN hội nhập, cạnh tranh, năng động, lấy con người làm trung tâm,
phát triển các ngành có lợi thế và hướng ra tồn cầu. Đây cũng sẽ là
khuôn khổ để tất cả các cơ quan chuyên ngành trong trụ cột AEC xây
dựng kế hoạch hành động chuyên ngành tới năm 2025.


Nhìn vào quá trình thực hiện các cam kết của Việt Nam trong AEC,
có thể thấy rằng mức độ sẵn sàng của Việt Nam xét về góc độ Chính phủ
là tương đối cao. Theo ASEAN Scorecard, tính chung cho giai đoạn từ
năm 2008-2013, Việt Nam đạt 84,5% so với mức chung của ASEAN là
78,1%, nằm trong nhóm 3 nước hồn thành tốt nhất (sau Singapore và
Thái Lan). Đối với các biện pháp ưu tiên mà các Bộ trưởng Kinh tế
ASEAN đã đề ra tới hết năm 2013. Việt Nam là một trong 2 nước có tỷ lệ
cao nhất trong ASEAN, đạt khoảng 90%, so với mức chung của ASEAN
là 81,7% (ngang với Singapore). Như vậy, nếu xét trên chỉ số này, sự sẵn
sàng của Việt Nam hướng tới AEC là rất cao. Tuy nhiên, biểu chấm điểm
này chỉ thể hiện số lượng các biện pháp mà các quốc gia đã thực hiện theo
cam kết, chưa thể hiện được hiệu lực thực thi cũng như mức độ hiệu quả
của biện pháp đó. Vì vậy, mức độ hồn thành cao theo biểu chấm điểm

mới chỉ thể hiện mức độ sẵn sàng về mặt kiểm đếm số lượng, chưa thể
hiện rõ ràng mức độ sẵn sàng về chất lượng.


Hơn thế nữa, mặc dù định hướng, quan điểm hội nhập kinh tế nói
chung của Đảng và Nhà nước là rất rõ ràng và nhất quán, tuy nhiên quan
điểm hội nhập cho từng tiến trình, mối quan hệ của các tiến trình hội
nhập, cũng như các biện pháp định hướng cụ thể cho từng tiến trình lại
chưa được cơng bố một cách cụ thể và rõ ràng. Nếu xét riêng về quan
điểm và định hướng hội nhập ASEAN, có thể thấy rằng quan điểm về vấn
đề này qua các thời kỳ là chưa nhất quán, đặc biệt quan điểm về hội nhập
kinh tế ASEAN. Thời gian đầu khi mới gia nhập ASEAN, hội nhập của
Việt Nam vào ASEAN không thể hiện các bước chuyển rõ nét. Cho tới tận
năm 2003, Việt Nam vẫn hội nhập vào ASEAN theo hướng: cam kết càng
ít càng tốt, lộ trình càng dài càng tốt. Dó đó, hội nhập ASEAN ở thời kỳ
đầu mang nhiều màu sắc chính trị hơn là kinh tế. Tuy nhiên kể từ khi gia
nhập WTO, quan điểm trên dần thay đổi, một phần do đòi hỏi hội nhập
sâu của các định chế đa phương và một phần là do quyết tâm chủ động
hội nhập của Việt Nam. Các bộ, ngành hiện nay đã khẳng định rõ ràng
quan điểm chủ động trong việc tham gia các tiến trình hội nhập AEC,
khác với quan điểm trong giai đoạn trước đây là hội nhập càng ít càng
tốt, lộ trình càng dài càng tốt. Vì vậy, các bộ, ngành như Bộ Cơng
Thương, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Ngoại giao đã triển khai nhiều biện
pháp cụ thể để chuẩn bị cho Việt Nam hội nhập AEC.
Đặc biệt, thông qua kết quả điều tra khảo sát, tác giả đánh giá Hải
quan là ngành có mức độ sẵn sàng cao và có nhiều hoạt động để tích cực
hội nhập AEC. Hải quan đã có những tiến bộ nhanh trong vấn đề hài hịa
hóa thủ tục, đã triển khai từ mức thủ công sang bán thủ cơng, sau đó qua
internet và hiện nay thực hiện VNACC/VCIS. Tuy nhiên, các bộ, ngành
trong quá trình hội nhập, làm giảm các kết quả của hải quan điện tử và

một số hoạt động khác của ngành Hải quan. Đối với mục tiêu “Một cửa
quốc gia (NSW), để hồn thành địi hỏi phải trang bị cơ sở vật chất, cơ sở
hạ tầng, nguồn nhân lực cho tất cả các cục, chi cục trong cả nước một
cách đồng bộ. Đây là việc làm lâu dài và đến năm 2015 Việt Nam chưa thể
sẵn sàng để hoàn thành NSW.


Cũng theo kết quả điều tra của tôi, các cơ quan quản lý địa phương
chưa quan tâm nhiều tới AEC cũng như cơ hội và thách thức mà AEC
mang lại. Các sở, ban, ngành, địa phương hầu như nắm bắt rất ít các
thơng tin cũng như tiến trình thực hiện AEC. Hầu hết các địa phương
chưa có kế hoạch và hành động cụ thể để hội nhập ASEAN nói chung và
AEC nói riêng. Các địa phương chỉ có những hoạt động để hỗ trợ doanh
nghiệp hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, chứ khơng có những hoạt
động riêng hỗ trợ cho doanh nghiệp hội nhập AEC. Các hoạt động cho
AEC được lồng ghép trong các hoạt động khác về hội nhập kinh tế quốc
tế.
Như vậy, mặc dù hiện nay quan điểm hội nhập kinh tế ASEAN của
Việt Nam đã mang tính chủ động và tích cực hơn nhiều, song thực chất sự
hội nhập này, xét trên một số khía cạnh cịn mang tính hình thức. Do đó,
mặc dù Chính phủ có các quan điểm về hội nhập rõ ràng, thực hiện các
cam kết AEC đạt mức cao so với các nước ASEAN khác, song có một
khoảng cách rất lớn giữa cơ quan trung ương và các cơ quan quản lý địa
phương. Do đó, các hoạt động hội nhập AEC cần được đẩy mạnh hơn ở
cấp độ địa phương; bên cạnh đó, các bộ, ngành cần lưu ý đến hiệu quả
của các hoạt động đã được triển khai, từ đó có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Xét trên góc độ của doanh nghiệp Việt Nam, theo đánh giá của các cơ
quan quản lý trung ương và địa phương, phần lớn các doanh nghiệp còn
khá thờ ơ với việc Việt Nam hội nhập vào AEC. Một số ít doanh nghiệp có
quan tâm đến hội nhập AEC nhưng mức độ quan tâm cũng chưa cao. Kết

quả điều tra cho thấy chỉ có 48,9% các doanh nghiệp được điều tra biết
chính xác về thời điểm thành lập AEC. Hơn 80% các doanh nghiệp được
điều tra khơng biết về ASEAN Scorecard. Do đó, sự quan tâm và chuẩn bị
cho việc hội nhập AEC của doanh nghiệp Việt Nam còn quá thấp, thể hiện
rõ sự bị động của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập AEC. Cho
nên ở đấy đặt ra vấn đề về sự tuyên truyền, phổ biến thông tin cũng cần
điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của từng địa phương.


Sự thiếu quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam tới AEC xuất
phát chủ yếu về quan điểm của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường
ASEAN. Các doanh nghiệp chủ yếu nhìn nhận các lợi ích từ AEC trên
phương diện tiếp cận thị trường, gia tăng xuất khẩu sang ASEAN, mà lợi
ích này từ AEC cho đến nay tương đối hạn chế. Nhiều doanh nghiệp cho
rằng ASEAN tính đến thời điểm hiện nay không phải là thị trường quan
trọng do thương mại nội khối còn thấp, lợi thế so sánh khá tương đồng,
mức bổ trợ thấp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cho rằng thị trường
ASEAN có dịch vụ chưa tốt, cơ sở hạ tầng kém, quản lý kém, thủ tục
phức tạp chồng chéo và thiếu sự hài hòa hóa về các tiêu chuẩn kỹ thuật,
hàng hóa phải kiểm định nhiều lần theo nhiều bộ tiêu chuẩn khác nhau
nên chi phí kinh doanh với các đối tác ASEAN khá cao. Từ đó, ta thấy
rằng hiểu biết của doanh nghiệp về những nội dung cơ bản của AEC còn
thấp. Các doanh nghiệp chưa hiểu rõ các cơ hội, thách thức đến từ AEC.
Hầu hết các doanh nghiệp mới chỉ nhận thấy được các cơ hội đến từ các
trụ cột khác cũng như các cơ hội hợp tác trong dài hạn. Các doanh nghiệp
cũng mới chỉ nhìn nhận được những thách thức đến từ sự cạnh tranh. Do
hiểu biết của các doanh nghiệp còn thấp nên dẫn tới các doanh nghiệp
còn bị động và chưa thực sự quan tâm đến việc điều chỉnh chiến lược kinh
doanh để đón đầu các cơ hội, vượt qua các thách thức từ AEC.



Nguyên nhân của sự thờ ơ và bị động của doanh nghiệp đối với hội
nhập AEC không chỉ xuất phát từ những đặc điểm của thị trường
ASEAN, quan điểm của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường
ASEAN, sự khó khăn của bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới trong thời
gian qua mà còn từ nhiều nguyên nhân quan trọng khác – như cách thức
thông tin và tuyên truyền về AEC cho doanh nghiệp còn chưa hiệu quả,
vai trò của Hiệp hội chưa được phát huy đúng mức và bản thân các
doanh nghiệp còn khá thụ động trong việc tìm hiểu thị trường ASEAN nói
chung và AEC nói riêng. Do đó, sự chung tay của cả cộng đồng, từ các
nhà quản lý trung ương đến các nhà quản lý địa phương và các doanh
nghiệp để giải quyết được các nguyên nhân gốc rễ trên là điều cần thiết,
giúp Việt Nam không chỉ chuẩn bị tốt cho việc hội nhập AEC từ năm 2015
trở đi.
Ngày 31/12/2015, bản tuyên bố thành lập AEC chính thức có hiệu
lực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước thành viên của Cộng
đồng kinh tế ASEAN.
1.4.2 Tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN tới nền kinh tế Việt
Nam
1.4.2.1 Vị trí của nền kinh tế Việt Nam trong ASEAN
Thứ nhất, Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (World bank), tính
đến tháng 12/2018, Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ASEAN xét về tổng
sản phẩm quốc nội với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định . Bình quân
GDP đầu người đứng thứ 6 (2546 USD), diện tích đứng thứ 4 và dân số
lớn thứ 3 trong số 10 nước ASEAN.


Hình 1.1: GDP đầu người của các nước ASEAN năm 2018
( đơn vị: tỉ USD)
Nguồn: IMF

Theo IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), GDP của Việt Nam theo giá hiện
hành năm 2018 đạt 241,27 tỉ USD, tăng 1,42% so với 10 năm trước (năm
2008 đạt 96,269 tỉ USD). So với các nước trong khu vực, Việt Nam xếp thứ
6 sau Indonesia (1075 tỉ USD), Thái Lan (484 tỉ USD), Si (1110 tỉ USD),
Malaysia (817 tỉ USD) và Philippines (743,898 tỉ USD).
Thứ hai, tỷ trọng ngành Công nghiệp Việt Nam cao thứ 6, tỷ trọng
ngành Dịch vụ cao thứ 3 trong 10 nước ASEAN, tuy nhiên tỷ trọng ngành
Nơng nghiệp cịn khá lớn (17%).


Hình 1.2: Cơ cấu GDP theo ngành của Việt Nam năm 2017
(đơn vị: %)
Nguồn: World Bank
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta diễn ra còn chậm so với
nhiều nước trong khối như Philippines, Singapore, Malaysia,... làm hạn
chế tốc độ bắt kịp cũng như khả năng thu hẹp khoảng cách với các nước
phát triển trong khu vực.
Thứ ba, tính tới hết năm 2018, Châu Á vẫn là đối tác Việt Nam
xuất nhập khẩu nhiều nhất với kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm tới
80,2% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, lớn hơn nhiều lần
so với các châu lục khác. Có thể thấy rằng, hoạt động khu vực của nước
ta đang diễn ra mạnh mẽ hơn nhờ tận dụng các lợi thế từ liên kết khu vực
trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là xuất nhập khẩu.


Hình 1.3: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam sang các
châu lục năm 2018 (Đơn vị: tỷ USD)
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
ASEAN là một thị trường xuất nhập khẩu đứng thứ 2 của Việt
Nam tại Châu Á so với các đối tác chính như Trung Quốc. Nhật Bản và

Hàn Quốc và cũng là một trong các đối tác thương mại quan trọng hàng
đầu và là động lực quan trọng giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ
tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, theo ASEAN Stats (bộ phận thống kê ASEAN), quy mô
nền kinh tế hiện hành của Việt Nam tương đối thấp so với các nước
ASEAN, nhưng mức chênh lệch này ngày càng thu hẹp đáng kể trong
những năm gần đây. Quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt
Nam năm 2005 chỉ bằng 1/3 Thái Lan, gần 1/2 Singapore, gần 1/5
Indonesia. Tuy nhiên, đến năm 2018 con số này đã cải thiện đáng kể: bằng
1/2 Thái Lan và dưới 1/2 Singapore.


ASEAN Stats cho biết, trong lúc các nước phát triển cao như
Brunei, Singapore, Thái Lan và Malaysia đang vật lộn với những khó
khăn do khủng hoảng kinh tế, với GDP tăng trưởng thấp, thậm chí Brunei
cịn tăng trưởng âm 1,8% , thì Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng
trưởng tương đối và đứng thứ 6 trong khu vực, sau Lào, Campuchia,
Philippines, Indonesia và Myanmar.
Việt Nam đã gia nhập nhóm các nước thu nhập trung bình , với
GDP bình quân đầu người tiếp tục tăng qua từng năm. Trong năm 2018,
GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng tới 7,08%, cao nhất trong 10
năm trở lại đây
Bảng 1.1: Thu nhập bình quân đầu người các nước thành viên ASEAN
năm 2018 (đơn vị: USD)
Nguồn: IMF
Tên quốc gia

GDP/ người (đơn vị: USD)

Singapore


61.767

Thái Lan

6992

Indonesia

4052

Malaysia

11.237

Myanmar

1338

Brunei

33.233

Việt Nam

2546

Philippines

3095


Lào

2706

Campuchia

1499


1.4.2.2 Tác động của AEC tới tổng thể nền kinh tế Việt Nam
Một năm sau khi gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN, đã có những
sức ép đổi mới thể chế pháp luật và cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh ở Việt Nam.
Đánh giá sau một năm gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC),
các chuyên gia nhận thấy những cam kết pháp lý, các thỏa thuận, tuyên bố
và lời hứa hợp tác như Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA);
Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS); Hiệp định về di chuyển thể
nhân; Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)… cùng các thỏa thuận
thừa nhận lẫn nhau hay những lĩnh vực hợp tác khác đều chưa đạt được
nhiều tiến bộ như kỳ vọng.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa thu được những hiệu quả tích cực
về tình hình xuất khẩu, sự phát triển của các lĩnh vực, ngành hàng như
thương mại bán lẻ, dịch vụ logistics, du lịch, giáo dục, y tế... Mặc dù vậy,
kể từ khi có AEC cùng các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt
Nam với các nước, các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới, đã
có những sức ép trong đổi mới thể chế pháp luật, cải thiện môi trường đầu
tư kinh doanh ở Việt Nam, đồng thời góp phần tăng sức cạnh tranh của
nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp.
Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,

sau 1 năm AEC chính thức có hiệu lực, với 9 thị trường trong khối ASEAN
được tháo bỏ rào cản thuế quan đã mở ra cơ hội xuất khẩu to lớn đối với
các doanh nghiệp Việt Nam. Chưa khi nào, các quy trình lưu chuyển hàng
hóa trở nên thống nhất và thuận lợi đến thế với cơ chế một cửa ASEAN; hệ
thống hải quan điện tử quá cảnh; các quy trình đánh giá tuân thủ được
thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN và cùng áp dụng chung một biểu thuế
quan hài hòa ASEAN.


×