Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

GIỚI THIỆU CHUNG đề CƢƠNG THẢO LUẬN môn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.63 KB, 41 trang )

1

Trƣờng Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Khoa Luật Dân sự.
***
ĐỀ CƢƠNG THẢO LUẬN MÔN LUẬT HNGĐ
(HỌC KỲ 1: NĂM HỌC 2021 - 2022)
PHẦN 1: GIỚI THIỆU CHUNG ĐỀ CƢƠNG THẢO LUẬN MƠN HỌC
1.1. Thơng tin chung về mơn học
Tên mơn học: Luật Hơn nhân và gia đình (mơn học bắt buộc)
1.2. Số đơn vị tín chỉ: 2 (hai tín chỉ). Trong đó,
- Giảng lý thuyết: 12 ca, 24 tiết
- Thảo luận, làm việc nhóm: 6 ca, 12 tiết
- Tự học có hướng dẫn: 9 tiết
1.3. Mục tiêu thảo luận
- Về kiến thức
+ Giúp sinh viên nhận biết các vấn đề lý luận chung về hơn nhân, gia đình, Luật
HNGĐ (Luật HNGĐ); hiểu các nguyên tắc cơ bản, trí của Luật HNGĐ cũng như mối
quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình với các quan hệ pháp luật khác trong hệ thống
PLVN; giúp sinh viên nắm được các qui định về kết hôn, các trường hợp cấm kết hôn,
kết hơn trái pháp luật từ đó xác định đúng các bên có tư cách vợ chồng; các trường hợp
khơng được công nhận quan hệ vợ chồng và hướng xử lý dân sự các trường hợp này;
giúp sinh viên xác định được “hơn nhân thực tế” từ đó vận dụng được pháp luật để giải
quyết các tình huống thực tiễn.
+ Giúp sinh viên nhận biết các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của vợ
chồng và vận dụng được pháp luật để đánh giá việc định đoạt tài sản của các bên; xác
định tài sản chung, riêng của vợ chồng; nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng ... trong thực
tiễn;
+ Qua thảo luận, sinh viên hiểu được các căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con;
quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa cha, mẹ, con và áp dụng pháp luật để
giải quyết các tình huống liên quan giữa các chủ thể này;


+ Giúp sinh viên hiểu các trường hợp chấm dứt hôn nhân và thủ tục tố tụng giải
quyết chấm dứt hôn nhân; sinh viên nắm được nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn, phân
biệt được việc chia tài sản giữa các chủ thể là vợ chồng, giữa những người sống chung
như vợ chồng; việc bảo vệ quyền lợi con cái khi cha mẹ ly hôn; điều kiện, thẩm quyền


ĐKKH có yếu tố nước ngồi ... và vận dụng được pháp luật để giải quyết các tình huống
thực tế.
- Về kỹ năng
Thông qua các buổi thảo luận, sinh viên sẽ có các kỹ năng thực tế cơ bản sau đây:
+ Được phát triển kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng khai thác nguồn liệu, sử
dụng tin học, internet và kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm;
+ Được rèn luyện kỹ năng so sánh, phân tích và đánh giá vấn đề, tích luỹ khả năng
phản biện khoa học, bình luận văn bản quy phạm pháp luật và bản án, quyết định của
Tịa án;
+ Có khả năng vận dụng pháp luật để giải quyết các tình huống thực tiễn.
1.4. Yêu cầu và tiêu chí đánh giá
- Yêu cầu chung: Sinh viên trình bày nội dung theo đề cương đã chuẩn bị khi có
yêu cầu. Các cá nhân hoặc đại diện nhóm nhận xét, phản biện và bổ sung nội dung
(nếu có) theo hướng dẫn trước khi giảng viên kết luận vấn đề .
- Tiêu chí đánh giá
+ Hình thức: Sinh viên trình bày súc tích, mạch lạc về nội dung vấn đề thảo luận khi
có yêu cầu.
+ Nội dung: Xác định và làm rõ được vấn đề nghiên cứu; phân tích logic có liên hệ
thực tế. Sinh viên vắng không lý do từ hai buổi thảo luận trở lên sẽ bị trừ điểm bộ phận.
PHẦN II. NỘI DUNG THẢO LUẬN
BUỔI THỨ NHẤT VÀ THỨ HAI, VẤN ĐỀ: KẾT HÔN, - HỦY KẾT HÔN
TRÁI PHÁP LUẬT - GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VIỆC CHUNG SỐNG NHƢ VỢ
CHỒNG
I. Lý thuyết: Trả lời/ phân tích/ làm sáng tỏ các nội dung sau:

1. Tóm lược các điều kiện kết hôn theo pháp luật hiện hành và nêu một số vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng.
2. Xác định người đang có vợ, có chồng. Cho ví dụ về các trường hợp người chưa
đăng ký kết hơn cũng được xác định “đang có vợ, có chồng” theo quy định của
pháp luật.
3. Xác định cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn.
4. Đường lối giải quyết u cầu hủy kết hơn trái pháp luật? Phân tích các trường hợp
ngoại lệ thừa nhận kết hôn trái pháp luật trên cơ sở pháp lý.
5. Quy định của pháp luật về các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn và hậu quả pháp lý của hành vi chung sống


như vợ chồng ? Phân tích các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng đồng thời vi phạm điều kiện kết hôn và trách nhiệm dân sự, hình sự và
hành chính có thể được xác định.
6. Phân tích một số câu nhận định.
II.Tình huống
2.1. Anh Điệp là chủ tịch Ủy ban nhân dân xã K (huyện H tỉnh LĐ) cư trú tại xã
K. Chị Lan là phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã B (huyện M tỉnh LĐ) cư trú tại xã B.
Năm 2020, anh Điệp và chị Lan dự định xác lập quan hệ vợ chồng.
Hãy xác định các cơ quan đăng ký hộ tịch mà các bên có thể nộp hồ sơ đăng ký
kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch? Cơ sở pháp lý?
2.2. Năm 2017, anh Thuận (sinh năm 1978) kết hôn với chị Nga (sinh năm
2000).
Sau hai năm xác lập quan hệ vợ chồng, sức khỏe anh Thuận suy kiệt. Kết quả xét
nghiệm từ cơ sở y tế cho thấy anh Thuận bị nhiễm HIV mà nguồn bệnh anh bị lây nhiễm
là từ vợ anh – chị Nga.
Tháng 7/2020, anh Thuận chết.
Tháng 12/2020, con đẻ anh Thuận với người vợ trước của anh (đã ly hôn) là Hằng
yêu cầu Tịa án hủy việc kết hơn của anh Thuận và chị Nga với lý do việc kết hôn này

trái pháp luật.
Theo các anh (chị) Tòa án giải quyết vụ việc trên như thế nào? Tại sao?
2.3. Được gia đình hai họ đồng ý, năm 1998, ông Quang cưới bà Đại. Họ có
con chung là N sinh năm 2006.
Năm 2003, với nguồn tiền được thừa kế riêng, ông Quang mua một ngôi nhà trị giá
một tỉ đồng và đứng tên chủ sở hữu nhà.
Ngày 02.02.2017, do cuộc sống chung giữa ông Quang và bà Đại mâu thuẫn trầm
trọng, ông Quang u cầu Tịa án giải quyết ly hơn và phân định tài sản. Hai bên cũng
không thỏa thuận được việc giải quyết quyền lợi con chung.
Viện dẫn quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp về nhân thân, tài sản và
quyền lợi con chung theo tình huống trên.
2.4. Anh Tâm định cư tại Cộng hoà liên bang Đức từ năm 2000. Năm 2013,
trong chuyến về thăm quê hương, anh Tâm cùng chị Trà (sinh ngày 12.09.1988) quyết
định “kết nghĩa vng trịn”. Ngày 07.08.2015, Ủy ban nhân dân phường T, quận Y
thành phố H nơi chị Trà cư trú đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho anh Tâm và chị
Trà.
Tháng 11. 2016, anh Tâm bàn với chị Trà mua nhà số 11/6 đường TH, phường T,
quận Y trị giá 2.7 tỷ đồng. Do hai bên chỉ có số tiền chung là 100 triệu đồng nên anh
Tâm nhờ thân nhân chuyển từ nước ngoài về số ngọai tệ của anh - tương đương 2.6 tỷ


đồng để mua nhà này (có chứng cứ xác định việc chuyển tiền qua ngân hàng vào tài
khoản ngoại tệ của anh Tâm mở tại Việt Nam).
Cho rằng hành vi kết hôn giữa anh Tâm và chị Trà trái pháp luật, ngày
05.02.2019, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố H u cầu Tịa án hủy việc kết hơn này.
- Từ góc độ pháp lý, anh, chị hãy phân tích và lý giải đường hướng xử của Tịa
án có thẩm quyền trước yêu cầu của Hội Phụ nữ thành phố H biết rằng trong q trình
tố tụng, chị Trà có nguyện vọng cơng nhận hơn nhân cịn anh Tâm đề nghị giải quyết
cho ly hôn.
- Giả thiết anh Tâm và chị Trà tranh chấp nhà số 11/6 đường TH, phường T,

quận Y thì Tịa án phải phân định vấn đề này ra sao cho phù hợp, biết rằng anh Tâm có
đồng ý để chị Trà đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và thực tế, chị Trà
đang đứng tên chủ sở hữu nhà tại thời điểm tranh chấp phát sinh.
III. Đọc Bản án và trình bày quan điểm
Đọc Bản án số 04/2019/HNGĐ-ST về “Hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc
nuôi con chung” ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh
C” và bình luận đường lối giải quyết vụ việc của Tịa án trên cơ sở áp dụng pháp luật
(có đối chiếu pháp luật hiện hành) về căn cứ hủy hôn, chủ thể yêu cầu hủy hôn, thẩm
quyền giải quyết và hậu quả pháp lý việc hủy kết hôn trái pháp luật.
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh C xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 92/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019 về:
“ Hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số: 04/2019/QĐXX-ST ngày 20 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị A, sinh năm 1992. Nơi ĐKHKTT: Số nhà 1110, Tầng 11,
Tòa nhà C, Đường 70, Phường M, Quận N, Thành phố H. 2.
2. Bị đơn: Anh Đoàn Văn B, sinh năm 1986. Nơi ĐKHKTT: Số nhà 1110, Tầng 11,
Tòa nhà C, Đường 70, Phường M, Quận N, Thành phố H. Chỗ ở hiện nay: Số nhà 516,
đường T, Tổ 6, phường T, thành phố C, tỉnh C.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C,
tỉnh C. Địa chỉ trụ sở: Tổ 9 phường T, thành phố C, tỉnh C. Người đại diện theo pháp
luật: Ơng Đồn Văn C – Chức vụ: Chủ tịch. Người đại dại theo ủy quyền: Ơng Vàng
Văn D – Phó chủ tịch (Theo văn bản ủy quyền tham gia tố tụng ngày 26 tháng 8 năm
2019 của Chủ tịch UBND phường T, thành phố C, tỉnh C). Địa chỉ: Bản M, phường T,
thành phố C, tỉnh C (Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai trong quá trình tố tụng
và tại phiên tồn, ngun đơn chị Trần Thị A trình bày: Chị kết hơn với anh Đồn Văn B
kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc, trước khi kết hôn chị và anh B đã có
thời gian tự do tìm hiểu và u thương nhau, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo
phong tục. Có đăng ký kết hơn tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã C (nay là



thành phố C), tỉnh C theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59, Quyển số 01/2008 ngày 07
tháng 7 năm 2008 của Ủy ban nhân dân phường T, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh C,
ghi chị sinh ngày 27/12/1992 và anh B sinh ngày 15/3/1986. Chị và anh B chung sống
với nhau được khoảng 6 năm, đến năm 2014 do mất giấy ĐKKH năm 2008 nên chị và
anh B tiếp tục đi đăng ký kết hôn lần hai mà khơng khai tình trạng hơn nhân tại Ủy ban
nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C nên được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 09,
Quyển số 01/2014 ngày 10 tháng 3 năm 2014 của Ủy ban nhân dân phường T, thành phố
C, tỉnh C ghi chị sinh ngày 27/12/1989, anh B sinh ngày 15/3/1985 là không đúng năm
sinh của chị, của anh B.
Thời gian đầu chị chung sống với anh B hạnh phúc, thời gian từ tháng 3 năm
2017 đến nay hai vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu do bất đồng quan điểm và cách
làm ăn, chị thấy cuộc sống chung khơng có hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng
dẫn đến chị và anh B đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017. Tại thời điểm đăng ký kết
hôn năm 2008 chị chưa từ 18 tuổi trở lên, do thiếu hiểu biết về pháp luật nên chị đã tự ý
sửa năm sinh trên bản sao giấy khai sinh của chị và không ai biết việc chị tự sửa năm
sinh của chị.
Đến nay chị nhận thức được việc chị và anh B đăng ký kết hôn vào năm 2008 khi
chị chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn (chị chưa từ 18 tuổi trở lên); do mất giấy đăng ký kết
hôn năm 2008 nên năm 2014 chị và anh B tiếp tục đi đăng ký kết hôn mà không khai rõ
đã kết hôn năm 2008. Tuy nhiên đăng ký kết hôn năm 2014 ghi không đúng năm sinh
của chị và anh B. Đối chiếu các giấy tờ hiện nay trong sổ hộ khẩu gia đình của chị, anh
B, giấy khai sinh của chị và giấy chứng minh nhân dân của chị, giấy chứng minh nhân
dân của anh Đoàn Văn B, xác định chị sinh ngày 27/12/1992 và anh B sinh ngày
15/3/1986 đều không khớp với đăng ký kết hôn nhưng khớp với giấy khai sinh của con
nên chị tự xác định cả hai lần đăng ký kết hôn của chị và anh B đều trái quy định của
pháp luật và hiện tại vợ chồng không muốn chung sống với nhau nữa nhưng anh B
không nhất trí về việc hủy kết hơn trái pháp luật, do đó chị đã viết đơn khởi kiện đề nghị
Tịa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị và anh Đồn Văn B.

Việc ni con chung: Chị và anh Đồn Văn B có 02 con chung tên Đồn Thị L,
sinh ngày 13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015. Trước khi nộp đơn khởi
kiện và trong q trình hịa giải tại Tịa án, chị và anh B đã khơng thống nhất được việc
ni con chung chị có u cầu Tịa án giải quyết việc ni con chung do chị và anh
Đồn Văn B đều có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục hai con
chung và khơng u cầu cấp dưỡng ni con chung.
Tại phiên tịa, chị và anh B đã tự nguyện thỏa thuận về việc nuôi con chung nên
chị đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận cụ thể: chị là người trực tiếp chăm
sóc, ni dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi
con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng ni con chung. Anh Đồn Văn


B là người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Văn K, sinh
ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi
con chung.
Việc tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: Khơng có, khơng u cầu Tịa án
giải quyết.
Tại bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tồn, bị đơn anh Đồn Văn B
trình bày: Anh kết hôn với chị Trần Thị A trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, được
hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T,
thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh C theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 59, Quyển số:
01/2008 ngày 07 tháng 7 năm 2008. Việc chị A khai chị đã tự ý sửa chữa năm sinh của
chị A thì tại thời điểm đăng ký kết hơn anh khơng biết do đó anh xác định kết hôn giữa
anh và chị A là hợp pháp nên chị A yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa
anh và chị A, anh khơng nhất trí. Tuy nhiên anh có thừa nhận sau 6 năm chung sống, do
bị mất đăng ký kết hôn năm 2008 nên đến năm 2014 anh và chị A tiếp tục đi đăng ký kết
hôn lần hai mà khơng khai tình trạng hơn nhân nên Ủy ban nhân dân phường T, thành
phố C, tỉnh C đã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 09, Quyển số 01/2014 ngày 10 tháng 3
năm 2014 ghi anh sinh ngày 15/3/1985, chị A sinh ngày 27/12/1989 là không đúng năm
sinh của anh. Quá trình chung sống hạnh phúc, thời gian sau này hai vợ chồng thường

xuyên phát sinh mâu do bất đồng quan điểm sống dẫn đến anh và chị A đã sống ly thân
từ tháng 3 năm 2017 cho đến nay.
Về năm sinh của chị A, trong quá trình tự do tìm hiểu và chung sống anh chỉ nghe
chị A nói chị sinh năm 1989 và anh không biết các giấy tờ khác như sổ hộ khẩu gia đình
(do chung sổ hộ khẩu với bố mẹ anh nên anh không biết), giấy khai sinh, giấy chứng
minh nhân dân của chị Phương Anh nên anh vẫn xác định chị A sinh năm 1989 và đủ 18
tuổi khi kết hơn do đó kết hôn giữa anh và chị A là hợp pháp. Về năm sinh của anh, anh
xác định theo giấy chứng minh nhân dân và hộ khẩu gia đình, giấy khai sinh của con là
anh sinh ngày 15/3/1986 nên trong giấy đăng ký kết hôn năm 2014 ghi sai năm sinh của
anh. Hiện tại vợ chồng không muốn chung sống với nhau nữa nhưng chị A yêu cầu hủy
kết hôn trái pháp luật, anh khơng nhất trí vì anh cho rằng kết hôn giữa anh và chị A là
hợp pháp, nhưng anh nhất trí ly hơn với chị A và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật.
Việc nuôi con chung: Anh và chị Trần Thị A có 02 con chung tên Đồn Thị L,
sinh ngày 13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015. Trước khi nộp đơn khởi
kiện và trong q trình hịa giải tại Tịa án, anh và chị A đã không thống nhất được việc
ni con chung nên anh có u cầu Tịa án giải quyết việc ni con chung. Tại phiên
tịa, chị và anh B đã tự nguyện thỏa thuận về việc nuôi con chung nên đề nghị Hội đồng
xét xử ghi nhận sự thỏa thuận, cụ thể: chị Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi


con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng ni con chung. Anh là người trực
tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chung tên Đồn Văn K, sinh ngày 12/01/2015
cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Về chia tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: Khơng có, khơng u cầu Tịa án
giải quyết.
Tại bản tự khai, biên bản làm việc giữa Ủy ban nhân dân (UBND) phường T với các
đồng chí ngun cán bộ cơng chức UBND phường T, Báo cáo về việc kiểm tra hồ sơ, sổ
lưu trữ đăng ký kết hôn năm 2008, 2014 của UBND phường, trong q trình tố tụng và

tại phiên tịa, người có quyền ợi nghĩa vụ liên quan, UBND phường T trình bày : Ủy ban
nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C có thực hiện 02 lần đăng ký kết hơn giữa chị
Trần Thị A và anh Đồn Văn B vào ngày 07/7/2008 và ngày 10/3/2014. Khi chị Trần Thị
A và anh Đoàn Văn B đến UBND phường làm thủ tục đăng ký kết hôn, do cán bộ hộ
tịch tư pháp phường đã không kiểm tra đầy đủ giấy tờ thủ tục theo quy định dẫn đến
đăng ký kết hôn trái pháp luật tại thời điểm đăng ký kết hôn chị A chưa từ 18 tuổi trở
lên. Việc đăng ký kết hôn năm 2014, tuy chị Trần Thị A và anh Đồn Văn B đã đủ tuổi
kết hơn, tuy nhiên UBND phường đã khơng xác minh tình trạng hôn nhân, không kiểm
tra đầy đủ giấy tờ thủ tục theo quy định dẫn đến việc cấp giấy chứng nhận kết hôn năm
2014 trong khi giấy chứng nhận kết hôn số 59 ngày 07 tháng 7 năm 2008 vẫn tồn tại và
chưa được cơ quan có thẩm quyền xử lý việc hủy kết hôn trái pháp luật. Ủy ban nhân
dân phường đề nghị Tịa án xem xét hủy kết hơn trái pháp luật giữa chị Trần Thị A và
anh Đoàn Văn B đối với hai giấy Chứng nhận kết hôn số 59 quyển số 01/2008 ngày
07/7/2008 và số 09 quyển số 01/2014 ngày 10/3/2014.
Kết quả xác minh tại UBND phường T, thành phố C, tỉnh C xác định UBND
phường T, thành phố C, tỉnh C có thực hiện 02 lần đăng ký kết hôn cho chị Trần Thị A
và anh Đoàn Văn B. Lần 1 vào ngày 07/7/2008 số 59 quyển số 01/2008 xác định chị
Trần Thị A sinh ngày 27/12/1989 anh Đoàn Văn B sinh ngày 15/3/1985 (trong sổ lưu
đăng ký kết hơn tại phường có sự sửa chữa năm sinh của chị A thành năm 1992, anh B
thành năm 1986); lần 2 vào ngày 10/3/2014 số 09 quyển số 01/2014 xác định chị Trần
Thị A sinh ngày 27/12/1989 anh Đoàn Văn B sinh ngày 15/3/1985. Hồ sơ lưu về thủ tục
kết hơn trên do có sự thay đổi về cán bộ công chức hộ tịch tư pháp phường nên hồ sơ
khơng cịn, hiện Ủy ban nhân dân phường cịn lưu sổ đăng ký kết hơn.
Tại phiên tịa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C phát biểu ý
kiến
Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử, quyết
định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền
của BLTTDS; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với
quy định về phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền
và nghĩa vụ của mình, chấp hành đúng nội quy phiên tòa.



Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 Luật HNGĐ năm
2000; Các Điều 10, 11, 12, 81, 82, 83 của Luật HNGĐ năm 2014, Các Điều 28, 147 Bộ
luật Tố tụng Dân sự; NGhị quyết số 36/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tịa án xử:
+ Hủy kết hơn trái pháp luật giữa chị Trần Thị A và anh Đồn Văn B, hai bên kết
hơn phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.
+ Việc nuôi con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của chị Trần Thị A và anh Đoàn
Văn B tại phiên tòa: Chị Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục
con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh
Đoàn Văn B là người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Văn
K, sinh ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Các bên không phải cấp
dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B có quyền, nghĩa vụ
thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
+ Việc chia tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: chị Trần Thị A và anh Đồn
Văn B khơng có, khơng u cầu Tịa án giải quyết nên khơng giải quyết.
+ Án phí: Chị Trần Thị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp
luật là 300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÕA ÁN
[1]. Về trình tự, thủ tục tố tụng: Đây là vụ án Hơn nhân và gia đình tranh chấp về việc: “
Hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc nuôi con chung” nên thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Q trình giải quyết
vụ án Tịa án nhân dân thành phố C, tỉnh C đã tiến hành các thủ tục tống đạt các văn bản
tố tụng đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự tự nguyện thỏa
thuận được với nhau về việc nuôi con chung là đảm bảo theo quy định của pháp luật,
nên Hội đồng xét xử cần ghi nhận sự thỏa thuận theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng
dân sự. Tại phiên tòa các đương sự đều khơng có bổ sung, rút u cầu. Do đó Tịa án
tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của các đương sự, căn cứ các tài liệu, chứng
cứ do nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp và do Tòa án
thu thập có đủ căn cứ xác định: Chị Trần Thị A và anh Đồn Văn B kết hơn với nhau do
tự nguyện, không bị ép buộc và được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C
cấp các giấy chứng nhận kết hôn: số 59 quyển số 01/2008 ngày 07/7/2008 và số 09
quyển số 01/2014 ngày 10/3/2014.
Hội đồng xét xử xét thấy: Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59 quyển số 01/2008 ngày
07/7/2008 của Ủy ban nhân dân phường T, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh C, xác
định khi kết hôn chị Trần Thị A, sinh ngày 27/12/1992 chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn


(15 tuổi 06 tháng 10 ngày), như vậy việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường
T, thành phố C, tỉnh C đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.
Tại khoản 1 Điều 9 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định về kiện kết hôn như
sau: “ Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên” Theo Giấy chứng nhận
kết hôn số 09 quyển số 01/2014 ngày 10/3/2014 của Ủy ban nhân dân phường T, thành
phố C, tỉnh C xác định khi tiếp tục thực hiện đăng ký kết hôn giữa chị Trần Thị A, sinh
ngày 27/12/1989 và anh Đoàn Văn B sinh ngày 15/3/1985, Ủy ban nhân dân phường T
đã không xác minh tình trạng hơn nhân dẫn đến thực hiện đăng ký kết hôn năm 2014
trong khi chị A và anh B vẫn cịn tồn tại giấy đăng ký kết hơn số 59 ngày 07 tháng 7
năm 2008 mà chưa được cơ quan có thẩm quyền xử lý việc kết hơn trái pháp luật đồng
thời có nhầm lẫn năm sinh của anh Đoàn Văn B, ghi đúng anh B sinh năm 1986. Nên có
đủ căn cứ xác định quan hệ hơn nhân giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B là quan hệ
không hợp pháp do vậy không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Mặt khác quá trình
chung sống chị A và anh B xẩy ra nhiều mâu thuẫn, đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017
cho đến nay, do đó nhận thấy cuộc sống vợ chồng khơng có hạnh phúc. Vì vậy chị Trần
Thị A có đơn khởi kiện u cầu hủy kết hơn trái pháp luật là có căn cứ cần được chấp
theo quy định tại các Điều 10, 11, 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b
khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BP
ngày 06/01/2016.

[3]. Việc ni con chung: Anh Đồn Văn B và chị Trần Thị A có 02 con chung tên Đoàn
Thị L, sinh ngày 13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015.
Trong quá trình thụ lý, giải quyết và hịa giải tại Tịa án, anh Đồn Văn B và chị Trần
Thị A đã không thống nhất được việc nuôi con chung nên anh B, chị A có yêu cầu Tịa
án giải quyết việc ni con chung. Tuy nhiên tại phiên tòa các đương sự tự nguyện thỏa
thuận được với nhau về việc nuôi con chung và đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự
thỏa thuận, cụ thể: Chị Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con
chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; Anh
Đoàn Văn B là người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Văn
K, sinh ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; Về cấp dưỡng nuôi con
chung: Các bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Xét thấy việc tự nguyện thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật
và không trái đạo đức xã hội là đảm bảo theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét
xử cần ghi nhận sự thỏa thuận trên theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. Về
quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con được quy định tại các Điều 69, 81, 82, 83 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị Trần Thị A, anh Đồn Văn B có quyền, nghĩa vụ
thăm nom con chung mà không ai được cản trở anh B, chị Phương Anh thực hiện quyền
này.


[4]. Việc chia tài sản: Tài sản chung, nợ chung, cho vay chung chị Trần Thị A, anh Đoàn
Văn B tự khai khơng có, khơng u cầu Tịa án giải quyết nên Hội đồng xét xử khơng
xem xét.
[5].Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị A phải chịu 300.000 đồng án phí theo quy
định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tịa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng
12 năm 2016.
[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều
271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

[7]. Kiến nghị đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ủy ban nhân dân phường
T, thành phố C, tỉnh C.
Từ nội dung vụ án trên, Hội đồng xét xử kiến nghị Ủy ban nhân dân phường T cần
thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ công chức, viên
chức thuộc phạm vi UBND phường quản lý để kịp thời phát hiện sai sót, khắc phục, xử
lý theo quy định. Nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ đối với
công chức thực hiện cơng tác đăng ký và quản lý hộ tịch.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000; các Điều 10, 11, 12, 69, 81, 82, 83 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014, điểm b
khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày
06/01/2016; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ
Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tịa án; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Hủy kết hôn trái pháp luật giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn
Văn B, chị Phương Anh và anh B phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.
2. Việc nuôi con chung: Áp dụng thêm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự, ghi nhận sự thỏa
thuận của chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B tại phiên tịa.
Anh Đồn Văn B và chị Trần Thị A có 02 con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày
13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015, anh B và chị Phương Anh thỏa thuận
cụ thể:
Chị Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn
Hà Linh, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; Anh Đoàn Văn B là


người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Quang Vinh, sinh
ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho
nhau.
Chị Trần Thị A, anh Đồn Văn B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai
được cản trở anh B, chị Phương Anh thực hiện quyền này.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị A phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự
sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố C, tỉnh C theo biên lai thu tiền số AA/2010/0004022 ngày 26/7/2019.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

BUỔI THỨ BA, VẤN ĐỀ : QUAN HỆ PHÁP LUẬT GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
I. Trả lời/ phân tích/ làm sáng tỏ các câu hỏi sau:
1. Cơ sở phát sinh quan hệ vợ chồng theo pháp luật?
2. Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng?
3. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với các giao dịch do một bên thực hiện?
Ý nghĩa của cơ chế ?
4. Quan hệ đại diện giữa vợ và chồng?
5. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận?
6. Căn cứ và nguyên tắc xác định tài sản chung (tài sản pháp định) của vợ chồng?
Phân tích chế độ pháp lý về tài sản chung (tài sản pháp định) của vợ chồng.
7. Phân tích chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và
nêu quan điểm về chế định trong việc bảo vệ quyền về tài sản của vợ chồng.
8. Căn cứ xác định và chế độ pháp lý về tài sản riêng (tài sản pháp định) của vợ
hoặc chồng? Quyền định đọat về tài sản riêng của vợ chồng? Pháp định hạn chế
quyền định đọat tài sản riêng của vợ chồng tại Khoản 4 Điều 44 LHNGĐ sửa đổi
có trái với nguyên tắc đảm bảo quyền định đọat về tài sản của con người? Cơ sở
lý giải?
9. Phân tích quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng. Đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật với việc đảm bảo quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng hiện nay.
10.Phân tích một số nhận định

II.Tình huống
2.1. Ơng Khánh và bà Dung kết hôn năm 2008.


Năm 2016, vợ chồng họ lập văn bản thỏa thuận sử dụng 5 tỷ đồng để thành lâp
doanh nghiêp tư nhân K – D kinh doanh ô tô. Theo đăng ký , ông Khánh là người đứ ng
tên chủ sở hữu doanh nghiêpp̣ .
Năm 2017, ông Khánh lập hợp đồng bán hai chiếc ô tô hiệu Toyota Altis cho ông
Tuấn (chú ruột ông Khánh). Một tháng sau, cho rằng xe được bán với giá rẻ không hợp
lý cũng như giao dịch giữa ông Khánh và ông Tuấn trái với quy định về quyền định đoạt
tài sản của vợ chồng, bà Dung tìm đến văn phịng luật sư u cầu tư vấn để bảo vệ
quyền lợi về tài sản.
Với tư cách là luật sư và trên cơ sở quy định của pháp luật, anh, chị hãy tư vấn
cho bà Dung về:
1. Hành vi đơn phương bán xe của ơng Khánh (có trái với quy định về quyền
định đoạt tài sản của vợ chồng quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 35 Luật HNGĐ?)
2. Lơi tứ c từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiêp K –D (thuộc sở hữu của
ông Khánh hay củ a vơ p̣ chồ ng ông Khánh, bà Dung?).
2.2. Ơng Lưu và bà Tâm kết hơn năm 1983. Năm 1984, mẹ đẻ ông Lưu lập “văn
tự” tặng cho ơng Lưu ngơi nhà diện tích 140 m2 tại xã HN, huyện B, tỉnh KL. Tháng
2.1985, theo ý chí của mẹ, ông Lưu làm thủ tục kê khai và đứng tên chủ sở hữu nhà.
Tháng 11. 2014, ông Lưu đến địa phương khác cư trú và cưới bà Túy. Hai người
có con ni chung là Mỹ Yến, sinh năm 2008. Tài sản chung của ông Lưu, bà Túy (được
tặng chung) là 16 chỉ vàng 9999.
Năm 2016, ông Lưu và bà Tâm chia một phần tài sản trong thời kỳ hôn nhân.
Theo văn bản được công chứng, phần động sản chung của ông Lưu, bà Tâm (hiện do bà
Tâm quản lý) trị giá 2 tỷ được chia đôi, mỗi người sở hữu 1 tỷ.
Năm 2019, ông Lưu chết không để lại di chúc.
Căn cứ pháp luật hơn nhân gia đình và pháp luật dân sự, anh (chị) hãy xác định di
sản của ông Lưu và đối tượng được hưởng di sản của ông biết rằng: i) Sau khi chia tài

sản chung, ông Lưu sử dụng tiền được chia gửi ngân hàng. Tại thời điểm ông Lưu chết,
tổng số tiền gốc và lãi được xác định là 1 tỷ 200 triệu đồng; ii) Ơng Lưu, bà Tâm khơng
có thoả thuận khác khi chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân.
2.3 Năm 1952, ông Anh sống chung như vợ chồng với bà Nga. Hai người khơng
có con chung.
Năm 1954, ơng Anh tiếp tục cưới bà Lành. Ơng Anh, bà Lành có con nuôi chung
là Túy.
Năm 1988, ông Anh kết hôn với bà Nhung. Con chung của họ là Thắm, Hùng.
Ông Anh, bà Lành, bà Nhung cùng chung sống tại nhà số 11/8 xã K, Huyện LK,
tỉnh HB. Nhà này là tài sản mà ông Anh được thừa kế riêng năm 1953. Năm 2014, bà
Nhung và ông Anh sử dụng 72 triệu đồng - số tiền có được từ việc bán 18 chỉ vàng mà
hai người được mừng cưới để nâng cấp, cải tạo nhà số 11/8.
Năm 2015, ông Anh chết không để lại di chúc.


Anh, chị hãy:
i) Xác định có lý giải vợ của ông Anh theo quy định của pháp luật?
ii) Xác định di sản thừa kế của ông Anh và đối tượng được hưởng di sản thừa
kế của ơng giả thiết có tranh chấp về thừa kế và tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án,
nhà số 11/8 tại xã K, Huyện LK, tỉnh HB do ông Anh đứng tên; được định giá 3 tỷ
đồng.
III. Đọc phần trích bản án số 98/2016/HNGĐ-PT Ngày 26/7/2016 của TAND cấp
cao tại Hà Nội (đính kèm) và trên cơ sở pháp lý, anh (chị) hãy:
1. Đánh giá phán quyết của Tòa án sơ thẩm (thể hiện trong Bản án Hơn nhân và
Gia đình sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của TAND tỉnh Nam Định) về
việc xác định quyền sở hữu tài sản là nhà, đất thửa số 2, tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại
11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định.
2. Tòa án phúc thẩm trong bản án số 98/2016/HNGĐ-PT ngày 26/7/2016 đã
đánh giá, xác định nhà đất thửa số 2, tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn
Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định dựa trên căn cứ nào? Theo anh, chị, nhà, đất

được tạo lập trong khoản thời gian ông Tân, bà Hằng ly thân, do 1 bên đứng tên và
có tranh chấp thì bên nào có nghĩa vụ chứng minh?
3. Trên cơ sở pháp lý, hãy cho biết đường lối của Tòa án khi giải quyết lại lại
theo thủ tục chung phần tranh chấp tài sản là nhà đất 11A, giả thiết:
- Thửa đất được nhận chuyển nhượng bằng số tiền 350.000.000 đồng – khoản
tài sản do bà Hằng tạo lập khi đi lao động tại Hàn Quốc và số tiền còn thiếu
(33.000.000 đồng) thì vay em trai là ơng Lê Duy Hùng đúng như lời khai của bà
Hằng tại phiên tòa phúc thẩm trước đó;
- Nhà trên đất được xây dựng với mục đích kinh doanh karaoke, từ nguồn tiền
của vợ chồng ông Tân, bà Hằng là 1.500.000 đồng, có sự góp vốn của ông Tuấn Anh
và ông Hùng là 1.500.000 đồng. Tại thời điểm giải quyết tranh chấp, nhà định giá
4.0.0
đồng
Trích Bản án số 98/2016/HNGĐ – PT ngày 26.7.2016
... Ngày 26 tháng 7 năm 2016, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án Hơn nhân và Gia đình thụ lý số 14/2015/TLPT-HNGĐ
ngày 11 tháng 11 năm 2015 về việc “Tranh chấp Hơn nhân và Gia đình” do bản án Hơn
nhân và Gia đình sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của Tòa án nhân dân
tỉnh Nam Định bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1787/2016/QĐ-PT ngày 30/6/2016 giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thu Hằng, sinh năm 1974; có mặt.


Nơi ĐKHKTT: Số 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định, tỉnh
Nam Định;
Tạm trú: Số 191 Trần Quang Khải, phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh
Nam Định.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thành Tân, sinh năm 1971; hiện đang tạm trú ở Cộng
hòa Ba Lan; vắng mặt.

Địa chỉ tại Việt Nam: Số 3/52 Phan Đình Giót, phường Năng Tĩnh, thành phố
Nam Định, tỉnh Nam Định.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Tân: Bà Nguyễn Thị Hà; địa chỉ: Số 52
Phan Đình Giót, phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định (theo giấy ủy
quyền ngày 29/3/2016); có mặt.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Tuấn Anh, sinh năm 1971; địa chỉ: Số 10/33 Trường Chinh, phường
Bà Triệu, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; có mặt.
- Anh Lê Duy Hùng, sinh năm 1982; địa chỉ: số 191 Trần Quang Khải, phường
Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Tuấn Anh và anh Hùng: Chị Lê Thị Thu
Hằng (Giấy ủy quyền ngày 7/9/2015).
- Bà Nguyễn Thị Hà, sinh năm 1960; địa chỉ: Số 52 Phan Đình Giót, phường
Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định;
- Bà Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1962; địa chỉ: Số 3/25/73C đường 182, khu
phố 3, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
- Ơng Nguyễn Đức Kháng, sinh năm 1966; địa chỉ: Số 3/5B, tổ 6, khu phố 4,
phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Hương và ông Kháng: Bà Nguyễn Thị Hà
(Giấy ủy quyền ngày 06, 07/7/2015)
NHẬN THẤY:
* Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn bà Lê Thị Thu Hằng
trình bày:
Bà và ơng Nguyễn Thành Tân đăng ký kết hôn ngày 20/10/1992 tại Ủy ban nhân
dân phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định. Quá trình chung sống vợ chồng có hai
con chung là: Cháu Nguyễn Đức Thuận, sinh ngày 28/12/1993 và Cháu Nguyễn Thị
Hồng Anh, sinh ngày 15/10/2000. Về nguyên nhân mâu thuẫn: sau khi cưới vợ chồng
chung sống hịa thuận một thời gian đến năm 2005 thì xảy ra mâu thuẫn vì lý do bất
đồng quan điểm sống, hai người đã ly thân nhau. Ông Tân đã bỏ sang Ba Lan làm ăn
cịn bà thì về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Thấy quan hệ hôn nhân không hàn gắn được, bà

đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn ông Tân. Về con chung chưa thành niên (cháu
Hồng Anh) bà xin nuôi, yêu cầu ông Tân cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000
VNĐ/tháng.


Về tài sản: Đối với nhà đất tại 3/55 (số mới 3/52) Phan Đình Giót, phường Năng
Tĩnh, thành phố Nam Định là tài sản của bố mẹ anh Tân để lại, nên bà Hằng rút yêu cầu
này, không yêu cầu Tòa giải quyết.
Đối với thửa đất tại số 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định, tuy
mang tên bà Hằng và ông Tân nhưng đây là tài sản riêng của bà Hằng vì một mình bà
Hằng lo tiền để mua trong thời kỳ ly thân, ông Tân khơng có cơng sức đóng góp gì. Đối
với tài sản trên thửa đất này (là nhà 4 tầng, 01 tum, gồm 5 phịng có trang thiết bị phịng
hát - Biên bản định giá BL 44) có sự góp vốn của ông Tuấn Anh và ông Hùng về tài
sản trên đất, nay 3 người khơng có tranh chấp nên khơng đề nghị Tòa án giải quyết. Tại
phiên tòa sơ thẩm bà Hằng đề nghị được giao nhà, đất và trang thiết bị phịng hát cho bà,
bà sẽ có trách nhiệm thanh tốn lại phần góp vốn cho ơng Tuấn Anh và ông Hùng.
* Bị đơn ông Nguyễn Thành Tân trình bày: Ơng nhất trí ly hơn bà Hằng và xin
được đóng góp cấp dưỡng ni con chung. Riêng nhà đất tại số 3/52 Phan Đình Giót
và số 11A Nguyễn Văn Cừ ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Bà Nguyễn Thị Hà - người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày: Tài
sản tại số 3/52 Phan Đình Giót là của bố mẹ bà để lại, đề nghị Tòa giải quyết bảo vệ
quyền lợi cho anh chị em bà. Các vấn đề khác bà khơng có ý kiến vì ơng Tân khơng ủy
quyền cho bà mà chỉ ủy quyền giao nộp giấy tờ với Tòa án. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà
Hà khai bổ sung trong thời gian bà Hằng xây nhà năm 2014 có vay của bà 10.000USD
nhưng bà khơng đề nghị giải quyết tại phiên tòa mà bà để hai bên tự giải quyết riêng.
* Ông Nguyễn Tuấn Anh - người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:
Thửa đất tại số 11A Nguyễn Văn Cừ mang tên bà Hằng và ông Tân nhưng bà Hằng
khai đây là tài sản riêng của bà nên năm 2014 ông cùng ông Hùng và bà Hằng đã thỏa
thuận góp vốn đầu tư xây dựng qn Karaoke. Tại phiên tịa sơ thẩm ơng Tuấn Anh có
ý kiến giữa ơng với bà Hằng, ơng Hùng khơng tranh chấp với nhau phần vốn góp đầu

tư xây dựng, mà tự giải quyết sau với nhau; đề nghị Tòa xét xử giao cho chị Hằng quản
lý phần trang thiết bị phịng hát là phần góp vốn của ơng Hùng.
Luật sư phía bị đơn trình bày: Nhất trí việc bà Hằng xin ly hơn ơng Tân và việc
đóng góp ni con chung cũng như việc bà Hằng tự nguyện rút yêu cầu về tài sản tại số
3/52 Phan Đình Giót. Riêng thửa đất số 11A Nguyễn Văn Cừ mặc dù cho đến nay không
thấy ông Tân cung cấp tài liệu chứng cứ là có gửi tiền về cho bà Hằng mua đất hay
không nhưng đây là tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nên đề nghị giao đất
cho bà Hằng quản lý, buộc bà Hằng có trách nhiệm trả chênh lệch cho ơng Tân một nửa
giá trị quyền sử dụng đất theo như kết quả định giá của Hội đồng định giá là
704.000.000đ : 2 = 302.000.000 đồng.
Tại Bản án Hơn nhân và Gia đình sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015
của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định quyết định:
Áp dụng các Điều 56, 59, 68, 69, 71, 72, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm
c khoản 1 Điều 192* Bộ luật tố tụng dân sự; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tịa án, Xử:
1. Về tình cảm: Xử ly hơn giữa bà Lê Thị Thu Hằng và ông Nguyễn Thành
Tân.
2. Về con chung: Giao cho bà Lê Thị Thu Hằng trực tiếp ni dưỡng, chăm sóc


cháu Nguyễn Thị Hồng Anh, sinh ngày 15/10/2000; ông Tân có nghĩa vụ đóng góp ni
con chung 1.000.000VNĐ/tháng, kể từ tháng 9/2015 đến khi con thành niên, tự lập
được.
Bên không trực tiếp ni con có quyền đi lại chăm sóc, thăm hỏi, giáo dục chung.
Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.
3. Về tài sản:
- Đình chỉ giải quyết mối quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất tại thửa 433, tờ
bản đồ số 6 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 551342 do Ủy ban nhân
dân thành phố Nam Định cấp ngày 28/12/2005 tọa lạc tại số 3/52 Phan Đình Giót,
phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định do bà Lê Thị Thu Hằng rút
đơn yêu cầu.

- Giao cho bà Lê Thị Thu Hằng quyền sở hữu, sử dụng khu nhà đất tại thửa số
2, tờ bản đồ số 9.1 và toàn bộ trang thiết bị phòng hát Karaoke theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BA 852187 do Ủy ban nhân dân thành phố Nam Định cấp ngày
20/4/2010 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định.
Ngồi ra, Tịa án cấp sơ thẩm cịn quyết định về án phí và thơng báo quyền kháng
cáo, theo quy định của pháp luật.
Ngày 29 tháng 9 năm 2015 bị đơn là Nguyễn Thành Tân có đơn kháng cáo với
nội dung: Nhà đất tại 11A Nguyễn Văn Cừ là tài sản chung giữa ông Tân và bà Hằng
nên không đồng ý việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định là tài sản riêng của bà Hằng, từ đó
giao cho bà Lê Thị Thu Hằng quyền sở hữu, sử dụng khu nhà đất tại 11A Nguyễn Văn
Cừ, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Đề nghị Tòa án xét xử cấp phúc thẩm quyết
định chia mỗi người được quản lý và sử dụng 1/2 nhà đất nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án. Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và có ý kiến đề nghị Hội
đồng xét xử giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm; Bị đơn do bà Nguyễn Thị Hà
đại diện vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng
cáo của bị đơn. Đồng thời, với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan bà Hà đề
nghị Hội đồng xét xử giải quyết, buộc bà Hằng trả bà Hà số tiền 10.000 USD mà bà
Hằng vay của của bà Hà để xây nhà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm:
Về thủ tục: Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng các thủ tục tại phiên tòa và các
thủ tục trước phiên tòa theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa phúc
thẩm các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật.
Về nội dung: Theo khoản 3 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy
định: “Trong trường hợp khơng có căn cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có


tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”. Tuy bà
Hằng khai đất này là tài sản riêng bà tạo lập được trong thời kỳ ly thân nhưng chứng cứ

chứng minh do bà Hằng đưa ra chưa đủ cơ sở để thể hiện rõ ràng (bà Hằng mua đất
của ai, giấy tờ mua bán đất...). Quá trình thu thập chứng cứ, Tòa án cấp sơ thẩm chưa
làm rõ được các chứng cứ chứng minh lý do tại sao ông Tân lại có tên trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mà bà Hằng khai là tài sản riêng, do đó chưa đủ căn cứ để
tuyên xử cho bà Hằng được sở hữu tài sản trên.
Xét thấy những thiếu sót trong điều tra thu thập chứng cứ của cấp sơ thẩm đã làm
ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của đương sự. Do đó, việc đương sự kháng cáo
một phần Bản án sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của Tòa án nhân dân
tỉnh Nam Định là có căn cứ.
Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm - Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội căn cứ
khoản 3 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn về
nội dung tuyên xử cho bà Hằng có quyền sử dụng tồn bộ giá trị quyền sử dụng diện
tích 60m2 đất tại số 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định, tỉnh Nam
Định, hủy một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của
Tòa án nhân dân Nam Định và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết
lại vụ án.
Căn cứ tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của các bên đương
sự và Kiểm sát viên.
XÉT THẤY
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thành Tân nằm trong hạn luật
định. Tại phiên tịa phúc thẩm ơng Tân vắng mặt, nhưng đã có ủy quyền hợp lệ cho bà
Nguyễn Thị Hà, theo giấy ủy quyền ngày 29/3/2016, có mặt. Những người có quyền và
nghĩa vụ liên quan ơng Nguyễn Đức Kháng, bà Nguyễn Thị Hương vắng mặt, nhưng đã
có bà Hà đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 06/7/7/2015). Vì vậy, sự vắng
mặt của các đương sự không ảnh hưởng đến việc xét xử.
Về nội dung: Sau khi xét xử sơ thẩm, các bên đương sự không kháng cáo về phần
quan hệ hôn nhân và con chung, mà chỉ có bị đơn kháng cáo về phần tài sản liên quan
đến việc giải quyết thửa đất số 2, tờ bản đồ số 9.1 và căn nhà trên đất, tọa lạc tại 11A
Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam định.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Về tài sản, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết
các tài sản sau:
- Nhà đất tại 3/55 (số mới 3/52) Phan Đình Giót, phường Năng Tĩnh, thành phố
Nam Định;
- Thửa đất số 2, tờ bản đồ số 9.1 tại số 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành
phố Nam Định và tài sản trên đất gồm nhà 4 tầng, 01 tum cùng trang thiết bị phòng
hát Karaoke.


Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, bà Hằng rút u cầu, đề nghị Tịa khơng
xem xét, giải quyết đối với nhà đất tại 3/55 (số mới 3/52) Phan Đình Giót, phường
Năng Tĩnh, thành phố Nam Định và các tài sản trên thửa đất tại số 11A Nguyễn Văn
Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định. Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết đối với
nhà đất tại 3/55 (số mới 3/52) Phan Đình Giót, phường Năng Tĩnh, thành phố Nam
Định là có căn cứ.
Tại phiên tịa hơm nay, bà Nguyễn Thị Hà trình bày trong thời gian bà Hằng xây
nhà năm 2014, bà có cho bà Hằng vay 10.000 USD; nay bà đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét, buộc bà Hằng trả nợ cho bà. Về vấn đề này, tại phiên tòa sơ thẩm, bà
Hằng có thừa nhận vay của bà Hà số tiền nêu trên, nhưng giữa bà Hà và bà Hằng đã có
sự thống nhất khơng u cầu Tịa giải quyết nên Tịa án cấp sơ thẩm không giải quyết
là đúng. Sau khi xét xử sơ thẩm bà Hà cũng khơng có kháng cáo về nội dung này.
Do đó, căn cứ vào điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử khơng có cơ sở
xem xét, giải quyết u cầu nêu trên của bà Hà.
Về kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thành Tân, Hội đồng xét xử thấy rằng: Về
thửa đất số 2, tờ bản đồ số 9.1 tại số 11A, Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam
Định, ông Tân cho rằng đây là tài sản chung vợ chồng vì được tạo lập trong thời kỳ
hơn nhân bằng số tiền do ơng làm ăn, tích lũy. Ơng Tân và bà Hằng đã cùng nhau bàn
bạc mua đất, làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà
Hằng không thừa nhận lời khai trên của ông Tân và khẳng định thửa đất nêu trên là tài
sản riêng của bà vì bà mua bằng nguồn tiền của riêng bà khi đi lao động tại Hàn Quốc

và vay em trai là ông Lê Duy Hùng, thời điểm này hai vợ chồng đã sống ly thân. Hội
đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Q trình chung sống ơng Tân và bà Hằng thường
xuyên xa nhau vì phải đi làm ăn xa. Thửa đất nêu trên do bà Hằng đứng ra nhận chuyển
nhượng của ơng Hồng Tuấn vào ngày 02/7/2008 với số tiền 383.000.000 đồng và
ngày 20/4/2010 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Hằng và ông
Tân. Như vậy, thửa đất tại số 11A Nguyễn Văn Cừ nêu trên được tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cả vợ, chồng.
Tại điều 33 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Tài sản chung vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra... Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi
kết hôn là tài sản chung vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng....Trong
trường hợp khơng có căn cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài
sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”. Thực tế thửa đất nêu
trên không phải là tài sản được tặng cho hay thừa kế riêng, mà do bà Hằng đứng ra
nhận chuyển nhượng. Như vậy, trong trường hợp này bà Hằng phải chứng minh được
thửa đất nêu trên bà Hằng nhận chuyển nhượng bằng tiền riêng của mình. Tại phiên
tịa bà Hằng khai có nhờ mẹ gửi tại Ngân Hàng Cơng Thương 350.000.000 đồng. Số
tiền này là của riêng bà Hằng, được tạo lập khi đi lao động tại Hàn Quốc. Khi nhận
chuyển nhượng đất bà đã rút ra để thanh toán và số tiền cịn thiếu thì vay em trai là
ơng Lê Duy Hùng; đồng thời bà Hằng cho rằng về thủ tục đăng ký, kê khai để cấp
giấy chứng nhận


quyền sử dụng đất do bà một mình đứng tên, khơng hiểu vì sao giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất lại có cả tên ơng Tân. Do đó, cần xác minh làm rõ về nguồn tiền nhận
chuyển nhượng đất. Việc kê khai, đăng ký có tên cả ơng Tân, bà Hằng hay một mình bà
Hằng vì thực tế giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có cả tên bà Hằng, ông Tân.
Đối với căn nhà trên đất nêu trên: Ông Tân kháng cáo cho rằng căn nhà trên
thửa đất tại số 11A Nguyễn Văn Cừ là tài sản chung vợ chồng, q trình xây dựng ơng
Tân có nhờ anh trai là ơng Nguyễn Đức Kháng trơng coi. Tại phiên tịa phúc thẩm bà

Hằng và bà Hà (đại diện cho ông Tân tại phiên tịa) đều thống nhất xác nhận có việc
ông Kháng từ Miền Nam ra để trông coi thợ trong q trình xây nhà. Tại phiên tịa
phúc thẩm ơng Hùng khai ông là người bỏ tiền ra xây nhà hết hơn 01 tỷ đồng bằng
nguồn tiền do bố mẹ ông vay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam với số tiền 300.000.000 đồng, vay chị gái ơng hết 500.000.000 đồng. Trong khi đó
phía ơng Tân cho rằng nhà là do vợ chồng xây. Vì vậy, cũng cần phải xác minh, làm
rõ tiền xây nhà do ai bỏ ra, ơng Tân có biết Hợp đồng góp vốn giữa bà Hằng, ông
Tuấn Anh, ông Hùng không; lý do vì sao việc xây nhà lại có sự giúp đỡ của anh trai
ông Tân, trong khi bà Hằng khai việc xây nhà là thực hiện hợp đồng góp vốn, khơng
liên quan đến ơng Tân vì thời điểm đó hai người đã sống ly thân, khơng cịn quan tâm
đến nhau. Tại phiên tòa sơ thẩm, Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ơng
Tân có ý kiến khơng đề nghị Tòa giải quyết tài sản trên đất. Tuy nhiên, ơng Tân vắng
mặt tại phiên tịa, Luật sư tham gia tố tụng không phải với tư cách đại diện cho ông
Tân, sau khi xét xử sơ thẩm, ông Tân có kháng cáo về phần giải quyết căn nhà trên đất
nên cần phải được xem xét nội dung kháng cáo này của ông Tân.
Như vậy, các chứng cứ về nguồn tiền nhận chuyển nhượng đất, việc kê khai,
đăng ký quyền sử dụng đất, cũng như việc xây dựng nhà trên đất cịn có nhiều vấn đề
chưa được làm rõ, cần cho đối chất, xác minh làm rõ các vấn đề nêu trên mới có đủ cơ
sở xác định thửa đất tại số 11A Nguyễn Văn Cừ nêu trên là tài sản riêng của bà Hằng
hay tài sản chung vợ chồng; cơng sức đóng góp của các bên trong trường hợp xác định
thửa đất nêu trên là tài sản chung vợ chồng; căn nhà xây dựng bằng nguồn tiền của ai,
mục đích xây dựng, mới có cơ sở xác định chủ sở hữu căn nhà. Những nội dung này
Tòa án cấp phúc thẩm khơng thể khắc phục bổ sung được. Tịa án cấp sơ thẩm chỉ căn
cứ vào lý do thửa đất được tạo lập trong thời kỳ ông Tân và bà Hằng ly thân và ông
Tân cùng Luật sư của ông Tân không đưa ra được chứng cứ chứng minh ông Tân có
gửi tiền về mua đất cùng bà Hằng để bác yêu cầu của ông Tân xác định đất là tài sản
chung vợ chồng, khi chưa làm rõ các nội dung nêu trên là chưa đủ căn cứ vì chưa được
đánh giá tồn diện các tình tiết khách quan của vụ án. Vì vậy, đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát cấp cao tại phiên tịa là có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử
nhận thấy cần hủy cả phần giải quyết về tài sản trên đất để giải quyết lại như đã phân

tích trên.
Từ các căn cứ trên, Hội đồng xét xử nhận thấy có cơ sở chấp nhận kháng cáo của
bị đơn ông Nguyễn Thành Tân, hủy phần giải quyết về tài sản của Bản án sơ


thẩm nêu trên là nhà đất tại thửa số 2, tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ,
xã Lộc An, thành phố Nam Định, để giải quyết lại theo thủ tục chung.
Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị đơn không phải chịu án phí
phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm khơng có kháng cáo, kháng nghị nên
Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 3 Điều 308; khoản 1 Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 33,
59, 61 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014;
QUYẾT ĐỊNH:
Bản án sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của Tòa án nhân dân
tỉnh Nam Định về phần giải quyết về tài sản là nhà, đất tại thửa số 2, tờ bản đồ số 9.1
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 852187 do Uỷ ban nhân dân thành phố
Nam Định cấp ngày 20/4/2010 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố
Nam Định.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử lại phần tài sản
nêu trên theo thủ tục chung.
3. Ơng Nguyễn Thành Tân khơng phải chịu án phí phúc thẩm, được hồn lại
200.0 đồng theo Biên lai số BB/2012/07416 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Nam
Định.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm khơng bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Các thẩm phán (đã ký)
================================================

BUỔI THỨ TƢ, THỨ NĂM, VẤN ĐỀ: QUAN HỆ PHÁP LUẬT GIỮA CHA,
MẸ, CON; QUAN HỆ CẤP DƢỠNG GIỮA CÁC THÀNH VIÊN
GIA ĐÌNH
I. Trả lời/ phân tích/ làm sáng tỏ các câu hỏi sau:
1. Phân tích nguyên tắc và căn cứ xác định con chung của vợ chồng.
2. Trình bày các hình thức và thủ tục xác định con sinh ra do sinh đẻ. Quan điểm
của bạn về pháp luật thực định với việc bảo đảm quyền được khai sinh của trẻ em?
3. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của việc nhận ni con ni ?
4. Phân tích các điều kiện nhận ni con nuôi và căn cứ chấm dứt việc nuôi con
nuôi theo Luật NCN năm 2010.


5. Các nghĩa vụ và quyền nhân thân của cha mẹ đối với con?
6. So sánh quan hệ cha, mẹ con phát sinh do sự kiện sinh và quan hệ cha, mẹ con
phát sinh do sự kiện nhận nuôi con ni
7. Giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ nhân
thân và tài sản nào? Nêu căn cứ phát sinh các quyền và nghĩa vụ đó.
8. Phân tích nội dung cơ bản của chế định hạn chế quyền cha mẹ đối với con chưa
thành niên và nêu quan điểm cá nhân về mặt tích cực, hạn chế của chế định này.
9. Phân tích các điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên gia
đình.
10. Phân tích một số nhận định

II. TÌNH HUỐNG
2.1. Ơng Xu và bà Lê là vợ chồng.
Tháng 3.2014, do mâu thuẫn, ông Xu yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng.
Bản án có hiệu lực ngày 22.8.2014 của Tịa án quyết định: Ơng Xu được sở hữu ngơi
nhà 36A tổng diện tích 250 m2 tọa lạc tại đường Y, phường 5, quận G, thành phố H; bà
Lê nhận khối tài sản chung còn lại với giá trị tương đương; các bên có nghĩa vụ làm thủ
tục chuyển đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật.

Ngay sau khi chia tài sản, ơng Xu và bà Lê ly thân. Ơng Xu sử dụng nhà 36A cho
công ty X thuê. Theo hợp đồng, tiền cho thê nhà mỗi tháng 70 triệu đồng.
Tháng 2.2017, bà Lê sinh một bé trai và khai sinh cho con tên Nguyễn Tú, họ tên
cha là Nguyễn Xu.
Tháng 5.2017, ông Xu chết không để lại di chúc. Bà Lê khởi kiện yêu cầu Tòa án
xác định 1.470.000.000 đồng - số tiền có từ hợp đồng cho thuê nhà 36A (giữa ơng Xu và
cơng ty X tính từ thời điểm lập hợp đồng cho thuê nhà đến thời điểm giải quyết tranh
chấp) là tài sản chung của vợ chồng. Bà Lê cũng đồng thời yêu cầu chia di sản thừa kế
của ơng Xu vì quyền lợi của bà và con trai là Tú.
Anh, chị hãy cho biết, Tòa án giải quyết yêu cầu của bà Lê như thế nào cho đúng
pháp luật? (Viện dẫn căn cứ pháp lý khi phân tích).
2.2. Năm 1981, mẹ đẻ ơng Dũng lập “văn tự” tặng cho ơng căn nhà 4A diện tích
100 m2 tại xã G, huyện B, tỉnh TG. Tháng 2.1984, ông Dũng làm thủ tục kê khai và
đứng tên chủ sở hữu nhà, đất này.
Năm 1981, ông Dũng kết hôn với bà Nguyệt. Con nuôi hợp pháp của ông Dũng và
bà Nguyệt là Mỹ.
Tháng 8.1986, ông Dũng đến địa phương khác làm ăn rồi chung sống với bà Mai
như vợ chồng. Hai người có con chung là Lâm, Nhung.


Ngày 12. 4. 2005, bà Nguyệt chết. Ông, Dũng đưa bà Mai và hai con về chung
Dũng sống tại nhà 4A (toạ lạc tại xã G, huyện B, tỉnh TG). Hai người sử dụng tài sản
chung (được tặng cho khi cưới) là 200 triệu đồng để nâng cấp cải tạo nhà .
Tháng 7.2018, ông Dũng đột tử không để lại di chúc. Chị Mỹ khởi kiện yêu cầu
phân chia di sản thừa kế do các bên liên quan không thỏa thuận được.
Hãy tư vấn về đường lối giải quyết tranh chấp trên theo quy định của pháp luật
(Yêu cầu: Xác định rõ di sản thừa kế mà ông Dũng để lại, đối tượng hưởng di sản của
ông cũng như phần mà các đối tượng được hưởng)
2.3 Anh Trung và chị Hà là vợ chồng hợp pháp. Họ có con chung là Ngân, sinh
năm 2009.

Năm 2014, anh Trung và chị Hà được Tịa án giải quyết cho ly hơn. Theo phán
quyết của Tịa án, anh Trung được quyền trực tiếp ni con chung đến tuổi thành niên và
có khả năng lao động cịn chị Hà có nghĩa vụ cấp dưỡng ni con.
Tháng 8. 2016, chị Hà ra nước ngoài định cư và chung sống như vợ chồng với
anh Thụy (Anh Thụy là người Việt Nam định cư tại Liên Bang Nga từ năm 1995). Ngay
sau khi sống cùng chị Hà, anh Thụy đã tiến hành giám định ADN để xác định huyết
thống giữa anh và cháu Ngân – đừa trẻ do chị Hà sinh ra. Sau khi có kết quả giám định
xác định mình là cha đẻ của cháu Ngân, anh Thụy đã liên lạc với anh Trung và thương
thảo về nguyện vọng được nhận con. Anh Trung đồng ý.
Tháng 10. 2017, Anh Thụy trở về Việt Nam làm thủ tục nhận con.
Tại Ủy ban nhân dân huyện X, tỉnh H, nơi anh Trung và cháu Ngân cư trú, anh
Thụy đã yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết việc nhận con với sự nhất trí của anh
Trung, chị Hà kèm kết luận giám định ADN (xác định tư cách cha – con giữa anh và
cháu Ngân) mà anh đã thực hiện ở nước ngồi.
Hỏi, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết quyền nhận con của anh Thụy
theo thủ tục như thế nào cho phù hợp tinh thần pháp luật?
2.4.Anh Tú (sinh năm 1997) là con ni bà Bình. Quan hệ nuôi con nuôi này xác
lập hợp pháp năm 2012.
Từ năm 2015, do anh Tú thường xuyên có hành vi hành hạ, ngược đãi mình, bà
Bình đã làm “đơn từ con” với ý nguyện chấm dứt quan hệ mẹ nuôi – con nuôi. Đơn đã
được Chủ tịch UBND xã E, huyện B, tỉnh K nơi bà Bình thường trú xác nhận ngày
22.6.2017.
Tháng 2.2018, bà Bình chết khơng để lại di chúc. Anh Tú khởi kiện yêu cầu chia
thừa kế (di sản bà Bình để lại là 600 triệu đồng hiện do anh Lâm - con đẻ bà Bình quản
lý).
Trên cơ sở quy định của pháp luật, anh, chị hãy cho biết:
- Tịa án có phải thụ lý giải quyết yêu cầu của anh Tú với tư cách anh là con nuôi
yêu cầu chia di sản của mẹ nuôi?



- Khi giữa bà Bình và anh Tú đang tồn tại quan hệ, với chứng cứ bà Bình bị anh
Tú ngược đãi, hành hạ, anh Lâm có quyền u Tịa án giải quyết chấm dứt mối quan hệ
mẹ con giữa các chủ thể quan hệ vì lợi ích của bà Bình?
III. Đọc bản án, quyết định, tình huống thực tiễn và trình bày quan điểm cá
nhân
1. Đọc tình huống thực tiễn1 và căn cứ cơ chế pháp lý (có đối chiếu quy định

của pháp luật hiện hành) hãy cho biết, với những quan điểm giải quyết vụ việc thể
hiện trong tình huống thì nhóm quan điểm nào phù hợp với tinh thần pháp luật?
“Chị A sống chung với anh B cùng xã. Ngày 10/6/2013, sau một năm chung sống,
anh B đã đi khỏi địa phương. Ngày 20/9/2013, chị A sinh cháu C và đăng ký khai sinh
cho C theo họ của mẹ.
Ngày 12/4/2017, chị A kết hôn với anh D. Khi đăng ký kết hôn, chị A và anh D đã
làm thủ tục bổ sung hộ tịch, để phần khai về cha của cháu C là anh D và cũng đổi họ cho
cháu từ họ mẹ sang họ của anh D.
Năm 2018, anh B quay về nơi cư trú, khiếu nại về việc khai sinh cho cháu C và
cho rằng, trong giấy khai sinh của cháu C phải ghi anh B là cha. Sự việc đã dẫn đến
tranh chấp, mâu thuẫn và hiện có các quan điểm khác nhau về vấn đề này. Cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, công chức tư pháp xã X, huyện Y, tỉnh Z đã giải
quyết đúng quy định của pháp luật. Mặc dù cháu C sinh ra trước ngày chị A và anh D
đăng ký kết hôn nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật HNGĐ năm 2014, con
sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ
chồng, do đó, khi chị A và anh D đã làm thủ tục đăng ký kết hôn, đồng thời yêu cầu Ủy
ban nhân dân xã X giải quyết việc nhận con của anh D thì công chức tư pháp - hộ tịch đã
hướng dẫn anh chị làm thủ tục bổ sung hộ tịch để bổ sung phần khai về cha vào sổ đăng
ký khai sinh và giấy khai sinh cho cháu C
Cách giải quyết này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư số
15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch: “Trường hợp con

do người vợ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, đã được đăng ký khai sinh khơng
có thơng tin về người cha, vợ chồng có văn bản thừa nhận là con chung thì khơng phải
làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung
thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh của người con”.
Mặt khác, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi
1

Nguồn: />

họ trong trường hợp thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc
ngược lại. Do đó, anh D có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân xã X đổi họ của cháu C từ
họ của mẹ thành họ của cha.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 7 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định, việc thay
đổi họ, chữ đệm, tên cho người dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Hộ
tịch phải có sự đồng ý của cha, mẹ người đó và được thể hiện rõ trong tờ khai; đối với
người từ đủ 9 tuổi trở lên thì cịn phải có sự đồng ý của người đó. Trong trường hợp
trên, chị A và anh D đã đồng ý, thể hiện trong tờ khai được lưu tại hồ sơ của Ủy ban
nhân dân xã X.
Cũng theo quan điểm này, nếu nảy sinh vấn đề tranh chấp về việc nhận cha, mẹ,
con thì Ủy ban nhân dân xã X khơng có thẩm quyền giải quyết, bởi theo khoản 1 Điều
89 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì người khơng được nhận là cha, mẹ của một
người có thể yêu cầu Tịa án xác định người đó là con mình. Do vậy, anh B muốn được
nhận là cha của cháu C thì cần phải gửi đơn đến Tịa án nhân dân huyện Y để yêu cầu
thụ lý giải quyết.
Quan điểm thứ hai cho rằng, việc nhận cha, con giữa ông D và cháu C là khơng
đúng quy định. Theo đó, việc thay đổi họ từ họ mẹ sang họ cha cũng khơng đúng quy
định. Hay nói cách khác, cơng chức tư pháp - hộ tịch xã X đã giải quyết vụ việc là
không đúng.
Quan điểm này cho rằng, để nhận cha, mẹ, con thì cần phải có chứng cứ chứng

minh quan hệ cha, mẹ, con theo đúng quy định tại Điều 11 Thơng tư số 15/2015/TTBTP. Các chứng cứ có thể là một trong các loại giấy tờ sau: Văn bản của cơ quan y tế,
cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác
nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con. Trường hợp khơng có các văn bản nêu trên, thì
phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ
cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung
của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng.
Khoản 2 Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định trường hợp con do
người vợ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, đã được đăng ký khai sinh khơng có
thơng tin về người cha, vợ chồng có văn bản thừa nhận là con chung thì khơng phải làm
thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông
tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh của người con. Việc
hướng dẫn đăng ký nhận cha, mẹ, con, bổ sung hộ tịch trong một số trường hợp đặc biệt
tại Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP cần được hiểu là có điều kiện áp dụng. Điều
kiện để áp dụng trường hợp đặc biệt này là các mối quan hệ cha ruột - con, mẹ ruột - con
tương đối rõ ràng, chỉ là cần các thủ tục pháp lý để hợp pháp hóa mối quan hệ đó. Việc
loại bỏ các loại giấy tờ chứng minh được quy định trong Điều 11


Thông tư số 15/2015/TT-BTP nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính khơng cần thiết
cho các trường hợp đặc biệt trên, tránh rườm rà, gây phiền hà cho người dân.
Trong trường hợp này, việc công chức tư pháp - hộ tịch xã X áp dụng khoản 2
Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP để giải quyết cho tình huống nảy sinh giữa chị A,
anh D, anh B và cháu C là chưa hiểu được dụng ý của nhà làm luật
Mặt khác, Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định cơ quan đăng ký hộ
tịch có trách nhiệm giải thích rõ về trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc lập văn bản
thừa nhận con chung tại khoản 2 Điều 13 nếu khơng đúng sự thật và khi có cơ sở xác
định các thông tin cung cấp cho cơ quan đăng ký hộ tịch không đúng sự thật, cơ quan
đăng ký hộ tịch có quyền từ chối giải quyết. Như vậy, trong tình huống nêu trên, việc chị
A và anh D có văn bản thừa nhận cháu C là con chung (được lưu trong hồ sơ) là không
đúng sự thật. Trong trường hợp này, công chức tư pháp - hộ tịch xã X có quyền từ chối

giải quyết bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha (anh D) trong Sổ đăng
ký khai sinh và giấy khai sinh của người con (cháu C)…”.
2. Đọc trích Bản án số: 10/2017/DSST ngày 30 tháng 5 năm 2017 của TAND

thành phố Việt Trì (đính kèm sau); chỉ rõ các đoạn trích và trên cơ sở pháp lý, cho
biết quan điểm người đọc về tiêu chí xác định quyền được hưởng (hoặc không được
hưởng) di sản thừa kế của con riêng thể trong Bản án của Tòa án. Đối chiếu với
quy định của pháp luật hiện hành về xác định quyền thừa kế của con riêng đối với
di sản của cha dượng, mẹ kế
Trích Bản án số: 10/2017/DSST ngày 30 tháng 5 năm 2017 "V/v tranh chấp chia
thừa kế”:
Ngày 30 tháng 5 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xét xử sơ
thẩm cơng khai vụ án thụ lý số 48/2016/TLST-DS ngày 30/5/2016 giải quyết tiếp ngày
02/3/2017 về “ Tranh chấp chia thừa kế” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
1169/2017/QĐXX-ST ngày 04 tháng 4 năm 2017 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Lê Xuân T – Sinh năm 1949 Địa chỉ: Tổ 28, khu 3, phường N,
thành phố V, tỉnh P. (Có mặt tại phiên tòa)
Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến H – Sinh năm 1961 Địa chỉ: Khu 2A, phường N, Thành
phố VT (Có mặt tại phiên tịa)
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Chị Nguyễn Thị L1 - sinh năm 1965. Địa chỉ: Khu 2B, phường N, thành phố V,
tỉnh P. (Có mặt tại phiên tịa)
2/ Chị Nguyễn Thị L2 – sinh năm 1963. Địa chỉ: Khu 6, xã B, Huyện L, tỉnh P.
( Vắng mặt tại phiên tòa)


×