Câu 1: Triết học là gì? Trình bày hình thức ra đời của triết học?
Khái niệm:
Phương Đông: Trung Quốc xem triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng nhận thức,
thường là con người, xã hội, vũ trụ. Triết học là biểu hiện cao của trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc
của con người về thế giới thiên - địa - nhân, định hướng nhân sinh quan cho con người.
Ấn độ xem triết học là tri thức dựa trên lí trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt
con người đến với lẽ phải.
Phương Tây: Triết học Phương Tây là giải thích vũ trụ, định hướng nhận thức và hành vi,
nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Khái niệm Max xít: Triết học là hệ thống các quan điểm lí luận chung nhất về thế giới và
vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc:
Triết học ra đời ở cả phương Đông và Phương Tây vào khoảng những năm thế kỷ 8-9tcn
Có 2 nguồn gốc cơ bản đó là Nhận thức và Xã hội
Nguồn gốc nhận thức:
+ Đầu tiên giải thích thế giới là bằng tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy. Tư
duy đó thiếu logic, mơ hồ, rời rạc trong giải thích thế giới.
+ Sự phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực khái quát trong quá trình nhận thức làm
cho các quan điểm, quan niệm chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới đó
hình thành.
+ Tư duy triết học bắt đầu từ các triết lý, từ tình u sự thơng thái, dần hình thành các hệ
thống những tri thức chung nhất về thế giới.
Nguồn gốc xã hội:
+ Triết học không ra đời trong xã hội mông muội dã man.
+ Triết học chỉ ra đời khi xã hội có phân cơng lao động xã hội.
Câu 2: Thế giới quan là gì? Có những loại hình thế giới quan nào? Thế giới quan là
quan điểm của con người về thế giới
Theo giáo trình Triết học Mác- Lenin đưa ra định nghĩa như sau: Thế giới quan là toàn bộ
những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con
người trong thế giới đó. Trong thế giới quan có sự hồ nhập giữa tri thức và niềm tin.
1.
Thế giới quan là gì?
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm
tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người (bao hàm cả cá nhân, xã hội và nhân
loại) trong 2 thế giới đó. Nó đóng vai trị định hướng đối với toàn bộ cuộc sống của con người, từ
thực tiễn cho đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như tự nhận thức bản thân, xác định lý tưởng,
hệ giá lối sống cũng như nếp sống của mình.
2.
Quan hệ thế giới quan và nhân sinh quan
Nhân sinh quan là một bộ phận của thế giới quan, gồm những quan niệm về cuộc sống của
con người: lẽ sống của con người là gì? mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao
và sống như thế nào cho xứng đáng?
3.
Các loại hình thế giới quan
4.1. Thế giới quan huyền thoại
Thế giới quan huyền thoại xuất có nguồn gốc xã hội nguyên thủy trong giai đoạn sơ khai
lịch sử bằng cách xây dựng nên các huyền thoại nhằm phản ánh các kết quả cảm nhận ban đầu
của người nguyên thủy về nhận thức khách quan tự nhiên, đời sống xã hội. Ví dụ như dân tộc Việt
Nam có truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ để giải thích về nguồn gốc của dân tộc hay truyền
thuyết Sơn Tinh- Thủy Tinh,….
Đặc điểm của thế giới quan huyền thoại là yếu tố thực và ảo, cái thần và cái người, lý trí
và tín ngưỡng hịa quyện với nhau. Do con người khơng giải thích được các hiện tượng đặc trưng
trong xã hội nên thường đưa ra các yếu tố tưởng tượng có tính huyền bí để giải thích. Thế giới
quan huyền thoại không phản ánh hiện thực một cách khách quan.
4.2. Thế giới quan tôn giáo
Thế giới quan tôn giáo phản ánh hiện thực khách quan một cách hư ảo, ra đời trong bối
cảnh trình độ nhận thức của con người cịn hạn chế. Thế giới quan tơn giáo giải thích dựa trên cơ
sở thừa nhận sự sáng tạo của một loại năng lực thần bí, siêu nhiên.
Đặc trưng cơ bản của thế giới quan này đó chính là niềm tin dựa vào sự tồn tại và sức
mạnh của lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người hoàn toàn bất lực và hoàn toàn phụ thuộc
vào thế giới siêu nhiên đó.
Trong thế giới quan tơn giáo, con người là kẻ cầu xin và phục tùng. Ở một khía cạnh nào
đó, thế giới quan tơn giáo thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi đau khổ, hướng đến một cuộc
sống hạnh phúc. Bởi vậy, đã giúp cho thế giới quan tôn giáo tồn tại trong đời sống tinh thần ngày
nay.
4.3. Thế giới quan kinh nghiệm
Thế giới quan kinh nghiệm là định hướng nhận thức cơ bản của một cá nhân hay xã hội
dựa trên kinh nghiệm, trải nghiệm của họ. Trải nghiệm có thể được hiểu là bao gồm tất cả nội
dung của ý thức hoặc nó có thể được giới hạn trong kinh nghiệm của các giác quan mà thôi.
4.4. Thế giới quan triết học
Thế giới quan triết học được ra đời trong điều kiện trình độ tư duy và thực tiễn của con
người và có bước phát triển cao hơn so với thế giới quan khoa học của tơn giáo và huyền thoại.
Điều đó làm cho tính tích cực trong tư duy của con người có bước thay đổi về chất.
4.
Các vấn đề về thế giới quan triết học
- Thế giới quan triết học bao giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trị là nhân tố cốt
lõi: Thế giới quan triết học được xây dựng dựa trên hệ thống lý luận, phạm trù, quy luật. Không
đơn giản chỉ là khái niệm, phạm trù, quy luật; thế giới quan triết học cịn nỗ lực tìm cách giải
thích, chứng minh tính đúng đắn của các quan điểm bằng lý luận, logic.
- Triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối các thế giới quan khác: Triết học là hạt
nhân lý luận của thế giới quan, là bộ phận quan trọng nhất của triết học bởi vì nó chi phối các
quan điểm, quan niệm cịn lại của thế giới quan như quan điểm, quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ,
kinh tế, chính trị, văn hố…
- Thế giới quan triết học quy định các thế giới quan và quan niệm khác thế giới quan duy
vật biện chứng là đỉnh cao của thế giới quan do đó phải dựa trên nguyên lý về mối liện hệ phổ
biến và phát triển. Có thể khẳng định rằng, thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống những
quan niệm khoa học chung nhất về tự nhiên, xã hội và con người.
5.
Ví dụ minh hoạ
- Người nguyên thủy tin vào thần mưa, thần gió,...
- Khoa học: những điều đúng đắn đã được chứng minh, thừa nhận
6.
Liên hệ thực tiễn
Từ suy nghĩ, định hướng mang ý nghĩa tinh thần sẽ dẫn đến các hoạt động đúng đắn.
Người hiểu đúng ý nghĩa trong cuộc sống của thế giới quan là người ln có ý chí, nghị lực và
quyết tâm để giúp bản thân và xã hội không ngừng tiến bộ.
Câu 3: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, khả tri luận và bất khả tri luận trong triết học.
* Vấn đề cơ bản của triết học là những vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại, giữa vật chất và ý thức. Lý do nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định được cơ
sở, tiền đề để giải quyết những vấn đề của triết học khác. Điều này đã được chứng minh rất rõ
ràng trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
- Hai mặt vấn đề cơ bản của triết học
+ Mặt thứ nhất – Bản thể luận: Trả lời cho câu hỏi giữa ý thức và vật chất, cái nào có
trước, cái nào có sau? Và cái nào quyết định cái nào?
Ta có thể giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học dựa trên 3 cách sau:
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thứcÝ thức có trước, vật chất
có sau, ý thức quyết định đến vật chấtÝ thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết
định lẫn nhau.
Hai cách giải quyết đầu tiên tuy có đối lập nhau về nội dung, tuy nhiên điểm chung của hai
cách giải quyết này đều thừa nhận một trong hai nguyên thể (ý thức hoặc vật chất) là nguồn gốc
của thế giới. Cách giải quyết một và hai thuộc về triết học nhất nguyên.
Triết học nhất nguyên bao gồm hai trường phái: trường phái triết học nhất nguyên duy vật
và trường phái triết học nhất nguyên duy tâm.
Cách thứ ba thừa nhận ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, cả hai nguyên thể (ý
thức và vật chất) đều là nguồn gốc của thế giới. Cách giải thích này thuộc về triết học nhị nguyên.
+ Mặt thứ hai – Nhận thức luận: Con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không?
Đại đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm cũng như duy vật đều cho rằng con
người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên:
Các nhà triết học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới. Song do vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức nên sự nhận thức đó là sự phản ánh
thế giới vật chất vào óc con người. Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả
năng nhận thức thế giới, nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy. Một số
nhà triết học duy tâm khác theo “Bất khả tri luận” lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của
con người.
* Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, khả tri luận và bất khả tri
luận trong triết học.
- Cơ sở để phân biệt chủ nhĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đó giải quyết mặt thứ nhất của
vấn đề cơ bản của triết học
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã hình thành trong lịch sử triết
học hai trường phái triết học lớn – chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy vật là quan điểm của các triết gia, học thuyết coi vật chất, tự nhiên có
trước và quyết định ý thức, tinh thần của con người. Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật khẳng định
rằng thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người; ý thức xét cho
cùng chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào trong đầu óc con người.Trong quá trình
hình thành, phát triển của lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật có ba hình thức biểu hiện cơ bản
sau:
Chủ nghĩa duy vật chất phác (thời cổ đại): Hình thức này xuất hiện, tồn tại ở nhiều dân
tộc trên thế giới, nhất là ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp. Mặt tích cực của chủ nghĩa duy
vật cổ đại là khẳng định về sự tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người của thế giới tự
nhiên, lấy giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên. Tuy nhiên, hạn chế của chủ nghĩa duy vật cổ
đại là tính trực quan. Những quan điểm duy vật thời kỳ này chủ yếu dựa vào các quan sát trực tiếp
chứ chưa dựa vào các thành tựu của các khoa học cụ thể, bởi lẽ vào thời này, các môn khoa học cụ
thể chưa phát triển. Điều đó thể hiện ở quan niệm duy vật thời kỳ này đồng nhất vật chất với vật
thể cụ thể nào đó. Có thể khẳng định, quan điểm của chủ nghĩa duy vật cổ đại về thế giới nhìn
chung là đúng đắn song cịn nặng tính ngây thơ, chất phác.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc (thế kỷ XVII-XVIII): Hình thức này của chủ nghĩa
duy vật tồn tại trong giai đoạn khoa học cụ thể, đặc biệt là cơ học có sự phát triển mạnh mẽ. Sự
phát triển rực rỡ của cơ học và của các khoa học cụ thể khác một mặt tạo cơ sở khoa học cho các
quan điểm duy vật trong việc giải thích thế giới, song mặt khác lại khiến cho các quan điểm này
mang nặng tính máy móc, siêu hình. Tính máy móc của quan điểm này biểu hiện ở chỗ các nhà
duy vật máy móc xem xét giới tự nhiên cũng như con người như là một hệ thống máy móc phức
tạp mà thơi. Tính chất siêu hình của quan điểm này biểu hiện ở chỗ các đại biểu của nó xem xét sự
vật trong trạng thái cô lập, tách rời, không quan hệ với nhau, cũng như trong trạng thái tĩnh tại,
không vận động, không phát triển.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Hình thức này ra đời vào giữa thế kỷ XIX trong quá trình
khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cổ đại và của chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu
hình thế kỷ XVII-XVIII. Đại biểu của chủ nghĩa duy vật biện chứng là C.Mác (1818-1883),
Ph.Angghen (1820–1895), V.I.Lênin (1870–1924). Dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học cụ
thể vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa ra quan niệm
đúng đắn về sự tồn tại của thế giới trong sự vận động, phát triển khách quan của nó. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng, một mặt, khẳng định thế giới vật chật tồn tại khách quan, độc lập với ý thức
con người; mặt khác, nó cũng khẳng định ý thức khơng phải là nhân tố lệ thuộc hồn tồn vào vật
chất, mà trái lại, nó cịn có khả năng tác động làm biến đổi vật chất bên ngồi thơng qua hoạt
động của con người. Nói cách khác, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức không phải là mối quan hệ một chiều mà là mối quan hệ biện chứng, mối quan hệ hữu
cơ tác động hai chiều.
+ Chủ nghĩa duy tâm là quan điểm của các triết gia, học thuyết coi ý thức, tinh thần có
trước giới tự nhiên, có trước thế giới vật chất. Trong quá trình hình thành, phát triển của lịch sử
triết học, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản sau:
Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng yếu tố tinh thần
quyết định vật chất không phải là tinh thần, ý thức con người mà là tinh thần của một thực thể
siêu nhiên nào đó tồn tại trước, ở bên ngoài con người và thế giới vật chất. Thực thể tinh thần này
sinh ra vật chất và quyết định toàn bộ các quá trình vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức con
người có trước các sự vật, hiện tượng bên ngoài. Sự tồn tại của các sự vật bên ngoài chỉ là phức
hợp của các cảm giác ấy mà thôi. Trong cuộc sống, quan niệm cho rằng ý thức hay ý chí con
người đóng vai trị quyết định, bất chấp mọi hoàn cảnh, điều kiện vật chất khách quan là biểu hiện
của quan điểm duy tâm chủ quan.
- Cơ sở để phân biệt thuyết bất khả tri và khả tri luận đó là giải quyết mặt thứ hai của vấn
đề cơ bản của triết học.
Việc giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, biểu hiện ở việc trả lời câu hỏi:
Con người có thể nhận thức được thế giới hay không? làm xuất hiện trong lịch sử triết học hai
quan điểm trái ngược nhau – thuyết khả tri luận (có thể biết) và thuyết bất khả tri (không thể biết).
+ Thuyết khả tri: thuyết có thể biết khẳng định con người hồn tồn có khả năng nhận thức
thế giới. Đa số các nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) theo thuyết có thể biết. Trái lại, một số
triết gia đi theo thuyết không thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức đó của con người.
+ Thuyết bất khả tri: thuyết khơng thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được
thế giới, hay chí ít cũng khơng thể nhận thức được bản chất của thế giới. Bởi vì bản chất của một
sự vật nói riêng, của thế giới nói chung là cái nằm ở phía sau, ẩn giấu qua vơ vàn hiện tượng, bề
ngoài. Con người, dù cố gắng lắm, cũng chỉ nhận thức được cái hiện tượng, bề ngoài đó chứ
khơng thể biết được cái bản chất tận cùng đó của chúng. Như vậy, thuyết khơng thể biết thể hiện
thái độ hoài nghi, bi quan về khả năng nhận thức thế giới của con người.
* VÍ DỤ:
- Nước, lửa, khống khí....
- Con người khơng thể biết sự vật, hiện tượng nào đó có tồn tại khơng nếu khơng dùng
giác quan cảm nhận hoặc đo đạc thông tin về vật, hiện tượng đó.
Câu 4: Thế nào là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm? Các hình thức cơ bản của
chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm? ()
4.1 Khái niệm chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ
nghĩa triết học nhất nguyên cho rằng vật chất là chất cơ bản trong tự nhiên, và tất cả mọi thứ, bao
gồm cả trạng thái tinh thần và ý thức, là kết quả của sự tương tác vật chất. Theo chủ nghĩa duy vật
triết học, tâm trí và ý thức là sản phẩm phụ của các quá trình vật chất (như sinh hóa của não người
và hệ thần kinh), mà khơng có chúng thì tâm trí và ý thức không tồn tại. Khái niệm này tương
phản trực tiếp với chủ nghĩa duy tâm, trong đó tâm trí và ý thức là những thực tại bậc nhất mà vấn
đề là chủ thể và tương tác vật chất là thứ yếu.
4.2 Ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
4.2.1 Chủ nghĩa duy vật chất phác
- Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời Cổ
đại Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất vật chất
với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra những kết luận mà về sau người ta thay
mang năng tính trực quan , ngày thơ , chất phác . Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về
vật chất và cấu tra vật chất , những chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là đúng vì
nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới , không viên đến Thần linh , Thượng để hay
các lực lượng siêu nhiên.
4.2.2 Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của chủ nghĩa duy
vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thể kỷ XVIII và điển hình là ở thể kỳ thứ
XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cô điển đạt được những thành tưu nực rỡ nên trong khi
tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chiu
sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hinh, cơ giới - phương pháp nhìn thế giới như
một cô máy không lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản là ở trong trang thái biệt lập
và tình tại. Tuy khơng phản ánh đúng hiện thực trong toan cục nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình
đã góp phần khơng nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tấm và tôn giao, đặc biệt là thời kỳ
chuyển tiếp từ đêm trường Trung cổ sang thời Phục hưng.
4.2.3 Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biên chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác
và Ph.Angghen xây dựng vào những năm 40 của the ky XIX sau đó được VILenin phát triển, Với
sự kế thừa tinh hoa của các học thuyet triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của
khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được
hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cô đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và la đỉnh cao
trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện
thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà cịn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng
tiên bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
4.3 Hai hình thức của chủ nghĩa duy tâm
4.3.1 Chủ nghĩa duy tâm khách quan
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là
là thi tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người . Thực thể tinh thân khách
quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như ý niệm , tinh thần tuyệt đối , lý tính
thế giới , v.v.
4.3.1 Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người . Trong khi
phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực , chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật
, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác
4.4 Cho ví dụ minh họa
4.4.1 Ví dụ chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Theo quy luật “phủ định của phủ định”:
- Một con gà mái được được coi là cái khẳng định, nhưng khi con gà mái đó đẻ trứng thì
quả trứng đó sẽ đươc coi là cái phủ định của con gà. Sau đó quả trứng gà trải qua thời gian vận
động và phát triển thì quả trứng lại nở ra con gà con. Vậy con gà con lúc này sẽ được coi là cái
phủ định của phủ định, mà phủ định của phủ định sẽ trở thành cái khẳng định. Sự vận động và
phát triển này luôn diễn ra liên tục vận động và phát triển và có tính chu kỳ.
Câu 5: So sánh sự khác nhau giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình trong việc nhận thức thế giới.
1.1.
Khái niệm siêu hình
Nghĩ xuất phát của từ siêu hình là dùng để chi triết học, với tính cách là khoa học siêu cảm
tính, phi thực nghiệm
1.2 Khái niệm biện chứng
Nghĩa xuất phát của từ biện chứng là nghệ thuật tranh luận để tìm chân lý bằng cách phát
hiện mẫu thuẫn trong cách lập luận
1.3 Nội dung phép siêu hình
1.3.1 Chỉ nhìn thấy sự vật riêng biệt mà khơng nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự
vật ấy
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và
giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
1.3.2 Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể
khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại. Nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về
số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngồi đối tượng.
1.3.3 Chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên đi sự vận động của những
sự vật ấy
- Phương pháp siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà
khơng nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự
vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng
thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà
khơng thấy rừng”.
1.3.4 Chỉ nhìn thấy bộ phận mà khơng thấy tồn thể
- Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết
con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái
khơng biến đổi trong một không gian và thời gian xác định.
- Song phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực
không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm.
1.4 Nội dung của phép biện chứng
1.4.1 Xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các yếu tố của nó với cái khác
- Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau.
1.4.2 Xem xét thế giới trong trạng thái vận động, chuyển hóa khơng ngừng
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là
phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay
đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
1.4.3 Khơng những nhìn thấy bộ phận mà nhìn cả thấy toàn thể
- Như vậy phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận
trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” cịn có cả cái “vừa là…
vừa là…” nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa khơng phải là nó; thừa nhận
cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
- Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp
tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
1.5 Ví dụ minh họa
- Liên hệ việc vận dụng phương pháp biện chứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
của bản thân
Ví dụ :
Người nơng dân xay hạt lúa thành gạo ăn, con người dùng hóa chất độc hại tiêu diệt sinh
vật.
Sự vật sẽ khơng bị xóa bỏ hoàn toàn, là cơ sở cho sự xuất hiện sự vật mới và sẽ tiếp tục
tồn tại và phát triển trong sự vật mới.
Câu 6: Trình bày các hình thức của CNDV và phép biện chứng trong lịch sử. Cho ví
dụ minh họa.
Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử, bao gồm
trong đó tồn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường duy vật trong việc giải
quyết vấn để cơ bản của triết học, đó là: “Vật chất là tính thứ nhất, ý thức hay tinh thần chỉ là tính
thứ hai của mọi tồn tại trong thế giới” - tức là thừa nhận và minh chứng rằng: suy đến cùng, bản
chất và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội chính là vật chất.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức, đó là:
Chủ nghĩa duy vật chất phác với hình thức điển hình của nó là các học thuyết triết học duy
vật thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình với hình thức điển hình của nó là các học thuyết triết học duy
vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu (tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật cận đại
nước Anh và Pháp).
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập từ giữa thế kỷ XIX.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức - trình độ phát
triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học, vì những lý do sau:
- Dó khơng chỉ đứng trên lập trường duy vật trong việc lý giải các tồn tại trong giới tự
nhiên (như chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đây) mà cịn đứng trên lập trường duy vật trong việc
giải thích các hiện tượng, q trình diễn ra trong đời sống xã hội lồi người - đó chính là những
quan điểm duy vật về lịch sử hay chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Do nó khơng chỉ đứng trên lập trường duy vật trong quá trình định hướng nhận thức và
cải tạo thế giới mà còn sử dụng phương pháp biện chứng trong quá trình ấy. Từ đó tạo nên sự
đúng đắn, khoa học trong việc lý giải thế giới và cải tạo thế giới.
- Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở kế thừa những tinh
hoa của lịch sử triết học và trên cơ sở tổng kết những thành tựu lớn của khoa học, của thực tiễn
trong thời đại mới; nó trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cách
mạng và của các lực lượng tiến bộ trong thời đại ngày nay.
Vd: Khi học các mơn vật lý, hóa học, học sinh thường được tham gia các buổi thí nghiệm
song song với các buổi học lý thuyết, các buổi thí nghiệm này chính là thực tiễn để kiểm tra lại
đúng đắn của lý thuyết mình vừa học. Đồng thời, trước khi đưa ra các chân lý thì các nhà khoa
học đã có q trình nghiên cứu thực tiễn để đưa ra quy luật.
Phép biện chứng
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ăngghen cho rằng: Phép biện chứng là
môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội
loài người và của tư duy.
Trong chũ nghĩa Mác — Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ,
tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan.
Phép biện chứng cổ đại
Là phép biện chứng xuất hiện trong triết học thời cổ đại. Các nhà triết học ở phương Đông
lẫn phương Tây thời cổ đại đã xem thế giới khách quan thay đổi trong những sợi dây liên hệ vơ
cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là
kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Phép biện chứng duy tâm
Được bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là biểu hiện của
các ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
Phép biện chứng duy vật
Ph.Ăngghen cho rằng: “Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Ví dụ phép biện chứng
Mùa thu đến, lá cây bắt đầu rụng xuống
Câu 7: Trình này điều kiện kinh tế - xã hội; nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự
nhiên của sự ra đời triết học Mác?)
* Khái niệm: Với sự ra đời của Triết học Mác-Lenin, Triết học là hệ thống quan điểm lí
luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật
vâm động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, trang bị cho con người thế giới
quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật đúng đắn để nhận thức và cải tạo
thế giới.
* Điều kiện kinh tế - xã hội:
1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển rất mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc là đặc điểm nổi bật trong đời sống kinh tế – xã hội ở
những nước chủ yếu của châu Âu.
Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công
nghiệp lớn nhất. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hồn thành. Cuộc
cách mạng cơng nghiệp cũng làm cho nền sản xuất xã hội ở Đức được phát triển mạnh ngay trong
lòng xã hội phong kiến.
Nhận định về sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất như vậy, C.Mác và Ph.
Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra
những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước
kia gộp lại”.
Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
được củng cố. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ trên cơ sở vật chất – kỹ
thuật của chính mình, do đó đã thể hiện rõ tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản xuất phong
kiến.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội càng thêm
gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt.
Của cải xã hội tăng lên nhưng chẳng những lý tưởng về bình đẳng xã hội mà cuộc cách
mạng tư tưởng nêu ra đã không thực hiện được mà bất công xã hội lại tăng thêm, đối kháng xã hội
thêm sâu sắc, những xung đột giữa vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
2. Sự xuất hiện của giai cấp vơ sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng
chính trị – xã hội độc lập
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp vô sản cũng đã
đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã
hội và giai cấp vô sản là giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa vơ sản với tư sản vốn mang tính chất
đối kháng càng phát triển, trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyông (Pháp) năm 1831, bị đàn áp và sau đó lại nổ ra vào
năm 1834, “đã vạch ra một điều bí mật quan trọng…[..]…đó là cuộc đấu tranh bên trong, diễn ra
trong xã hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những kẻ khơng có gì hết…”
Ở Anh, có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 thế kỷ XIX, là “phong trào
cách mạng vô sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị”.
Nước Đức cịn đang ở vào đêm trước của cuộc cách mạng tư sản, song sự phát triển công
nghiệp trong điều kiện cách mạng công nghiệp đã làm cho giai cấp vô sản lớn nhanh, nên cuộc
đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi cũng đã mang tính chất giai cấp tự phát và đã đưa đến sự ra đời một
tổ chức vô sản cách mạng là “Đồng minh những người chính nghĩa”.
Trong hồn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản khơng cịn đóng vai trị là giai cấp cách mạng.
Ở Anh và Pháp, giai cấp tư sản đang là giai cấp thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu
tranh của giai cấp vơ sản nên khơng cịn là lực lượng cách mạng trong quá trình cải tạo dân chủ
như trước.
Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng chế độ phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo
lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự
phát triển của phong trào cơng nhân Đức. Nó mơ tưởng biến đổi nền quân chủ phong kiến Đức
thành nền dân chủ tư sản một cách hồ bình.
Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử khơng chỉ có sứ mệnh là “kẻ phá hoại”
chủ nghĩa tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ
xã hội.
3. Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết
học Mác
Triết học, theo cách nói của Hêghen, là sự nắm bắt thời đại bằng tư tưởng. Vì vậy, thực
tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng vơ sản, địi hỏi phải được soi sáng bởi lý luận
nói chung và triết học nói riêng.
Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đặt ra đã được phản ánh
bởi tư duy lý luận từ những lập trường giai cấp khác nhau, làm hình thành những học thuyết với
tính cách là một hệ thống những quan điểm lý luận về triết học, kinh tế và chính trị xã hội khác
nhau.
Điều đó được thể hiện rất rõ qua các trào lưu khác nhau của chủ nghĩa xã hội thời đó.
Sự lý giải về những khuyết tật của xã hội tư bản đương thời, về sự cần thiết phải thay thế
nó bằng xã hội tốt đẹp, thực hiện được sự bình đẳng xã hội theo những lập trường giai cấp khác
nhau đã sản sinh ra nhiều biến chủng của chủ nghĩa xã hội như: “chủ nghĩa xã hội phong kiến”,
“chủ nghĩa xã hội tư sản”, “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản”…
Sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến
bộ và cách mạng mới.
Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng của giai cấp cách mạng triệt để nhất trong
lịch sử, do đó, kết hợp một cách hữu cơ tính cách mạng và tính khoa học trong bản chất của mình.
Nhờ đó, nó có khả năng giải đáp bằng lý luận những vấn đề của thời đại đặt ra.
Lý luận như vậy đã được sáng tạo nên bởi C.Mác và Ph.Ăngghen, trong đó triết học đóng
vai trị là cơ sở lý luận chung: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. “Giống như triết học thấy
giai cấp vô sản là vũ khi vật chất của mình, giai cấp vơ sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần
của mình”.
* Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên của triết học Mác
1. Nguồn gốc lý luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm tầm cao của trí tuệ nhân loại, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Lênin viết: “Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một cách hoàn tồn rõ ràng
rằng chủ nghĩa Mác khơng có gì là giống “chủ nghĩa tông phái”, hiểu theo nghĩa là một học thuyết
đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngồi con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới”.
Người còn chỉ rõ, học thuyết của Mác “ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học
thuyết của những đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ
nghĩa xã hội”.
– Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và Phoiơbắc, là
nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen. Sau này, cả khi
đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen, các ông vẫn đánh giá cao tư tưởng biện chứng
của nó. Chính cái “hạt nhân hợp lý” đó đã được Mác kế thừa bằng cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần
bí để xây dựng nên lý luận mới của phép biện chứng – phép biện chứng duy vật.
Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, C.Mác đã dựa vào truyền thống của
chủ nghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật triết học của Phoiơbắc. Đồng thời đã
cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính chất siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó.
Từ đó Mác và Ăngghen xây dựng nên triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ.
Với tính cách là những bộ phận hợp thành hệ thống lý luận của triết học Mác, chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng đều có sự biến đổi về chất so với nguồn gốc của chúng. Khơng thấy
điều đó, mà hiểu chủ nghĩa duy vật biện chứng như sự lắp ghép cơ học chủ nghĩa duy vật của triết
học Phoiơbắc với phép biện chứng Hêghen, sẽ không hiểu được triết học Mác.
Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ, cả phép
biện chứng của Hêghen.
Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của Hêghen
về cơ bản mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa”.
Giải thốt chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên “hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội
loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”.
– Sự hình thành tư tưởng triết học ở Mác và Ăngghen diễn ra trong sự tác động lẫn nhau
và thâm nhập vào nhau với những tư tưởng, lý luận về kinh tế và chính trị – xã hội.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A. Xmit và Đ.
Ricacđô không những làm nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà cịn là nhân tố khơng thể
thiếu được trong sự hình thành và phát triển triết học Mác.
Chính Mác đã nói rằng, việc nghiên cứu những vấn đề triết học về xã hội đã khiến ông
phải đi vào nghiên cứu kinh tế học và nhờ đó mới có thể đi tới hoàn thành quan niệm duy vật lịch
sử, đồng thời xây dựng nên học thuyết về kinh tế của mình.
Chủ nghĩa xã hội khơng tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và
Sáclơ Phuriê là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
Đương nhiên, đó là nguồn gốc lý luận trực tiếp của học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội –
chủ nghĩa xã hội khoa học.
Song, nếu như triết học Mác nói chung, chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng là tiền đề lý
luận trực tiếp làm cho chủ nghĩa xã hội phát triển từ khơng tưởng thành khoa học, thì điều đó
cũng có nghĩa là sự hình thành và phát triển triết học Mác không tách rời với sự phát triển những
quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội của Mác.
Vì vậy, cần tìm hiểu nguồn gốc lý luận của triết học Mác không chỉ ở nguồn gốc lý luận về
triết học mà cả trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
• Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, những thành tựu khoa học tự nhiên là những tiền
đề cho sự ra đời triết học Mác. Điều đó được cắt nghĩa bởi mối liên hệ khăng khít giữa triết học và
khoa học nói chung, khoa học tự nhiên nói riêng.
Sự phát triển tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do các khoa học cụ thể đem lại.
Vì thế, như Ăngghen đã chỉ rõ, mỗi khi khoa học tự nhiên có những phát minh mang tính chất
vạch thời đại thì chủ nghĩa duy vật khơng thể khơng thay đổi hình thức của nó.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát
minh quan trọng.
Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới. Phương pháp tư duy siêu hình nổi bật
ở thế kỷ XVII và XVIII đã trở thành một trở ngại lớn cho sự phát triển khoa học. Khoa học tự
nhiên không thể tiếp tục nếu không “từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư duy biện chứng,
bằng cách này hay cách khác”.
Mặt khác, với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp cơ sở tri thức khoa học
để phát triển tư duy biện chứng vượt khỏi tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, đồng thời thoát
khỏi vỏ thần bí của phép biện chứng duy tâm.
Tư duy biện chứng ở triết học cổ đại, như nhận định của Ăngghen, tuy mới chỉ là “một
trực kiến thiên tài”; nay đã là kết quả của một cơng trình nghiên cứu khoa học chặt chẽ dựa trên
tri thức khoa học tự nhiên hồi đó.
Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật
biện chứng: Định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng, Thuyết tế bào và Thuyết tiến hóa của
Đácuyn.
Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn
tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch
ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
Đánh giá về ý nghĩa của những thành tựu khoa học tự nhiên thời ấy, Ăngghen viết: “Quan
niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều
bị tan ra, tất cả cái gì là cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta
cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự
nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu”.
Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp cơng nhân, địi hỏi
phải có lý luận mới soi đường mà cịn vì những tiền đề cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân
loại tạo ra.
Câu 8: Trình bày khái niệm và chức năng của triết học Mác Lênin
* Khái niệm triết học Mác – Lênin:
Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và các lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo thế giới.
* Chức năng của triết học Mác – Lênin:
- Thế giới quan:
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người trong thế
giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác - Lênin đem lại thế giới
quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
+ Khái niệm thế giới quan:
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm
tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí con người (bao hàm cả cá nhân, xã hội và nhân loại)
trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người.
+ Các hình thức của thế giới quan:
Xét theo quá trình phát triển thì ta có thể chia thế giới quan ra thành 03 loại hình cơ bản:
∙Thế giới quan huyền thoại
∙Thế giới quan tơn giáo và
∙Thế giới quan triết học.
+ Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng:
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trị đặc biệt quan trọng định hướng cho con
ngƣời nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết học để con người xem
xét, nhận thức thế giới xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét chính mình. Nó giúp cho con
người cơ sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích
ý nghĩa của cuộc sống.
Thế giới quan duy vật biện chứng cịn giúp con người hình thành quan điểm khoa học định
hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình.
Trên một ý nghĩa nhất định, thế giới quan cũng đóng một vai trị của phương pháp luận. Giữa thế
giới quan và phương pháp luận trong triết học Mác - Lênin có sự thống nhất hữu cơ.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế
giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế
giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất
định.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trị là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế
giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.
- Phương pháp luận:
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm những ngun tắc xuất phát có vai trị chỉ
đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết
quả tối ưu.
Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác –
Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và thực
tiễn.
+ Khái niệm phương pháp luận:
Là hệ thống các nguyên lý, quan điểm (trước hết là những nguyên lý, quan điểm liên quan
đến thế giới quan) làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các phương pháp, xác định phạm vi,
khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu tìm tịi cũng như việc lựa
chọn, vận dụng phương pháp.
+ Vai trò của phương pháp luận duy vật biện chứng:
Được thể hiện trước hết là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương
pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ thống nhữung nguyên tắc phương pháp
luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
* Liên hệ chức năng của triết học Mác Lênin trong thực tiễn:
- Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học con người
cần phải có tri thức khoa học cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn xã hội.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn không được xem thường hoặc tuyệt đối hoá
phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mị
mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong công tác.
- Ngược lại, nếu tuyệt đối hố vai trị của phương pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa
giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mọi
người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Câu 9: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận.)
- Định nghĩa vật chất của Lênin : “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Nội dung định nghĩa vật chất của Lênin :
+ Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngồi ý thức và
khơng lệ thuộc vào ý thức
+ Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con
người cảm giác
+ Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng
+ Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng
trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này
+ Trong nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách quan
+ Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội
+ Tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Câu 10: Vận động là gì? Nêu các hình thức của vận động.
Định nghĩa vận động:
Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Anghen viết:
“Vân động hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ, kể cả sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
- Vận động là phương thức tồn tại vật chất:
+ Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng đều vận động:
Vận động là vận động của vật chất, khơng thể có vật chất khơng vận động và cũng khơng
có vận động ngồi vật chất
Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của
mình.
→ Trong hoạt động nhận thức: phải nhận thức sự vật trong quá trình vận động của nó
Vận động là tự thân: nguyên nhân và nguồn gốc của vận động là nằm trong thế giới vật
chất. Nó được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật
chất.
Vất chất là vô cùng, vô tận, không sinh ra, không mất đi và vận động là một thuộc tính
khơng thể tách rời vật chất nên vận động khơng thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra.
Những hình thức vận động cơ bản:
- Có 5 hình thức vận động:
+ Vận động cơ học: Sự di chuyển vị trí của các vật thể trong khơng gian
+ Vận động vật lý: Vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá
trình nhiệt điện.
+ Vận động hoá học: Vận động của các nguyên tử, các q trình hố hợp và phân giải các
chất
+ Vận động sinh học: Sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường
+ Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế xã
hội.
- Các hình thức vận động được sắp xếp thứ tự từ trình độ thấp đến trình độ cao , tương ứng
với trình độ kết cấu vật chất.
- Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng tồn tại biệt lập mà mối quan hệ
mật thiết với nhau.
Quan điểm vận động:
- Khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động.
- Khi tiến hành cải tạo sự vật, hiện tượng phải thơng qua những những hình thức vốn có,
đặc trưng của chúng.
Câu 11: Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về vận động và đứng im.
Định nghĩa vận động trong Triết học Mác Lênin
Vận động là một phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương
thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù khơng gian và thời gian), đó là sự thay đổi của tất
cả mọi sự vật hiện tượng, mọi q trình diễn ra trong khơng gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì vận động khơng chỉ là sự thay đổi vị
trí trong khơng gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất,
vận động là mọi sự biến đổi. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của
mình.
Vận động và đứng im:
Khái niệm vận động là gì:
Vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn .Theo F.Ănghen vận động là mọi sự biết đổi nói
chung .Thế giới vật chất nằm trong sự vận động biến đổi không ngừng.
Vận động là mọi sự biến đổi nói chung, tức là mọi sự biến đổi từ đơn giản đến
phức tạp.
Bản chất vận động:
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Vận động không do ai sáng tạo ra và cũng khơng mất đi mà nó tồn tại vĩnh viễn.
Nguồn gốc của vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định (tự thân vận
động), do mâu thuẫn nội tại bên trong sự vật tạo ra.
Năm hình thức cơ bản của vận động:
Vận động cơ học: Sự di chuyển vị trí của các vật thể trong khơng gian.
Vận động vật lý: Vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các
quá trình nhiệt, điện......
Vận động hóa học: Vận động của các nguyên tử, các q trình hịa hợp và phân
giải các chất.
Vận động sinh học: trao đổi chất của cơ thể sống với môi trường.
Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của hình thái kinh tế xã hội
Khái niệm đứng im là gì:
Khái niệm đứng im: đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng
trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể.
Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời.
Đứng im là tương đối, vì trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối
quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
Đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ khơng
phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng
bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó cịn là nó chưa bị
phân hóa thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển hóa
tiếp theo.
Đứng im cịn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của
sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Theo Engels thì "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành
cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt".
Quan điểm của vận động:
Quan điểm vận động là nội dung chủ yếu của phép biện chứng. Nội dung ba quy
luật của phép biện chứng là phần cơ bản trong quan điểm biện chứng về vận động. Quan điểm
biện chứng về vận động có nội dung sâu sắc và là cơ sở lý luận đúng đắn đối với việc nhận thức
các vấn đề khoa học cụ thể.
Kết luận vật chất tồn tại thông qua các dạng cụ thể của nó, do đó trong sự tồn tại
của vật chất tất yếu phải có sự đứng im. Tuy nhiên, đứng im chỉ là tương đối bởi; Đứng im chỉ
xảy ra trong mối quan hệ với một hệ thống này, nhưng trên thực tế lại nằm trong trạng thái vận
động của mối quan hệ với hệ thống khác. Đứng im chỉ là một trạng thái đặc thù của vận động
trong cân bằng, trong sự ổn định tương đối, tức sự vận động vẫn cịn trong giới hạn, trong sự bảo
tồn cấu trúc và chất của sự vật. Trạng thái ấy cũng chỉ là tạm thời, nó chỉ xuất hiện trong một
thời gian và không gian nhất định, sự vận động tuyệt đối sẽ làm cho sự vật biến đổi chuyển thành
cái khác. Qua việc chứng minh vật chất vận động hay đứng im đã cho thấy rõ việc vận động luôn
luôn xảy ra đối với vật chất và có thể khẳng định một điều rằng : “Vận động là phương thức tồn
tại của vật chất” theo đúng quan điểm của Ăngghen và Mác Lê-Nin, điều này hồn tồn có thể
xảy ra.
Câu 12: Phân tích quan điểm của triết học MácLênin về nguồn gốc tự nhiên của
ý thức
Khái Niệm: Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song
với phạm trù vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con
người và có sự cái biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất”
Nguồn gốc của ý thức:
- Quan niệm của CNDT: Ý thức là một lực lượng siêu nhiên như chúa trời, thần linh thổi
vào con người từ đó con người có ý thức.
- Quan điểm CNDVBC: Ý thức ra đời từ 2 nguồn gốc tự nhiên và xã hội:
* Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
- Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc
+ Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, phản ánh là sự tái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác
động qua lại của chúng.
+ Các vật thể càng ở bậc thang cao bao nhiêu thì sự phản ánh càng phức tạp bấy
nhiêu:
Ví dụ: một vật vơ cơ cũng có đặc tính phản ánh như mặt nước, mặt gương… đây là sự
phản ánh đơn giản, thụ động, khơng có phân biệt lựa chọn.
Phản ánh ở sinh vật sống là bước phát triển mới về chất trong sự tiến hố. Đầu tiên là ở
tính kích thích→ tính cảm ứng→ phản xạ.
Có thể chia ra thành:
- Phản ánh vật lý, hóa học: đây là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô
sinh, thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa (thay đổi vị trị, kết cấu…). Sự phản ánh này mang
tính thụ động, chưa có sự định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
- Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn,m đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh,
phản ánh sinh học được thể hiện qua các kích thích, tính cảm ứng, phản xạ… ( thay đổi chiều
hướng phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc..).
- Phản ánh tâm lý: là ảnh ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện trên
cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
- Phản ánh năng đơng sáng tạo, là hình thức phản ánh cao nhất. Nó chỉ được thực hiện ở
dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất đó là bộ nào người.
Não người có thuộc tính chung là phản ánh, sự phản ánh ở bộ não người rất phức
tạp Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới. Ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát
triển cao của thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngồi vào đầu óc con người.
Sự phản ánh này được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh
có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới.
Như vậy bộ não người và sự tác động của thế giới vật chất xung quanh nên bộ não
người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
VD: Quan sát hiện tượng nhật thực, hình ảnh nhật thực trong não chính là kết quả của sự
phản ánh hiện tượng nhật thực ở bên ngoài vào trong não. Do đó hình ảnh nhật thực bên ngồi
chính là chất liệu để xây dựng nên hình ảnh bên trong não của chúng ta. Như vậy não người và
thế giới khách quan chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Câu 13: Phân tích quan điểm của triết học Mác- Lênin về nguồn gốc xã hội của ý
thức
1. Ý Thức là gì?
- Theo định nghĩa của triết học Mác – Lenin là một phạm trù được quyết định với phạm
trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có
sự cải biến và sáng tạo.
2. Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy tâm
- Khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về ý thức.
- Tức ý thức có trước sự vật có sau.
- Chủ Nghĩa Duy Tâm thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con người, khẳng định
mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, chủ thể.
Như quan điểm của Béccơly cho rằng ‘‘Tồn tại nghĩa là được cảm nhận.’’
- Chủ nghĩa duy tâm cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó khơng phải là ý
thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người, quyết định sự
tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy.
3. Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên:
- Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của
nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan, trong đó, thế giới khách quan tác
động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới
khách quan. Như vậy, ý thức là sự phản ánh của con người về thế giới khác quan.
- Phản ánh là gì ?
Là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác, trong quá trình
tác động lẫn nhau giữa chúng.
Phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hóa học, phản ánh sinh học,
phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (tức phản ánh ý thức).
+ Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Thể hiện
qua những biến đổi về cơ, lý, hóa ( thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý – hóa qua q trình kết
hợp, phân giải các chất) khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vơ sinh. Hình
thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
+ Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu hình.
Tương ứng quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua
tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc
thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, cấu trúc,… Khi
nhận sự tác động trong mơi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh
tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điểu khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế
phản xạ khơng điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngồi mơi trường lên cơ thể sống.
+ Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ có hệ
thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện đối với những tác
động của mơi trường sống.
+ Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh năng động, sáng tạo chỉ có ở con người. Đây là
sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thơng tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới,
phát triển ý nghĩa của thông tin.
Nguồn gốc xã hội:
- Nhân tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động
và ngôn ngữ.
- Lao động:
+ Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể
+ Là q trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới
tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.
+ Là q trình trong đó bản thân con người đóng vai trị mơi giới, điều tiết sự trao đổi vật
chất giữa mình.
+ Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện
thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được.
- Ngơn ngữ:
+ Là ‘‘cái vỏ vật chất’’ của ý thức, tức hình thức vật chất nhân tạo đóng vai trị thể hiện và
lưu giữ các nội dung ý thức.
+ Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động.
+ Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu cần phải có
phương tiện để giao tiếp, trao đổi tri thức, tình cảm, ý chí,… giữa các thành viên trong cộng đồng
con người. Nhu cầu này làm cho ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động
sản xuất cũng như trong sinh hoạt xã hội.
Câu 14: Trình bày quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất và kết cấu theo
chiều ngang của ý thức
- Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lênin là một phạm trù song song với phạm trù
vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có
sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý thức là sự phản ánh khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể hiện rằng nội dung của ý thức
do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan vì nó nằm
trong bộ não con người.
+ Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải
cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức.
+ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang tính chất xã hội: Ý thức không phải là một
hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sửxã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.
- Kết cấu theo chiều ngang của ý thức:
a) Tri thức:
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái
tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ. Tri thức là phương
thức tồn tại của ý thức, là điểu kiện để ý thức phát triển. tri thức gồm tri thức thông thường, tri
thức khoa học, tri thức lý luận, tri thức kinh nghiệm...
b) Tình cảm:
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ trong các quan hệ. Tình cảm là một hình
thái đặt biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của
con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm là biểu hiện và sự phát triển trong mọi
lĩnh vực đời sống của con người, là một yếu tố phát huy sức mạnh động lực thúc đẩy hoạt động
nhận thức.
c) Ý chí:
Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí là quyền lực của con người đối với bản thân con người
đó, nó điều khiển, điều chính hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác, cho
phép con người tự kiền chế, tự làm chủ ban thân và quyết đoán trong hành động.
- Ví dụ: Trước khi để tàu vũ trụ bay lên mặt trăng an tồn, con người đã tìm hiểu và có rất
nhiều thơng tin về mặt trăng. Sau khi đặt chân lên mặt trăng, con người sẽ khám phá những thông
tin mới và loại bỏ những thông tin sai lầm về mặt trăng.
Câu 15: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Ỹ nghĩa phương pháp luận.
Khái niệm vật chất:
Vật chất là phạm trù để chỉ thực tại khách quan được cảm giác của con người ghi lại, chụp
lại. Vật chất là cái phản ánh, là hiện thực khách quan, khơng phụ thuộc vào cảm giác, khơng vì
cảm giác của con người mà bị biến đổi hay mất đi.
Khái niệm về ý thức:
Ý thức trong triết học Mác – Lênin là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc
của con người một cách có cải biến và sáng tạo. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan trong bộ não con người, là phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách
quan.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Mối quan hệ của vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau.. Mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong triết học gồm:
Vật chất quyết định ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất là cái có trước, là nguồn gốc của ý thức. Lý
giải cho câu hỏi vật chất và ý thức cái nào có trước, Mác – Lênin giải thích rằng:
Ý thức là sự phản ánh chủ động, sáng tạo của thế giới vật chất, sự thật khách quan. Ý thức
mang tính chủ quan của thế giới vật chất, tùy thuộc vào khả năng nhận thức của mỗi người. Vì
thế, nội dung của ý thức là do vật chất quyết định, đồng thời mọi hình thức biểu hiện, mọi sự biến
đổi của ý thức đều do vật chất. Theo đó, bản thân thế giới khách quan (hoặc các dạng tồn tại của
vật chất) chính là nguồn gốc của ý thức. Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Nếu khơng có vật chất tự nhiên, vật chất trong xã hội thì khơng thể có ý thức. Mặc dù ý
thức có tính sáng tạo nhưng đều phải lấy cơ sở từ vật chất và tuân theo những quy luật của vật
chất. Vì vậy nó quyết địnhn sự vận động và phát triển của ý thức.
Ví dụ: Ở nước ta, trình độ tin học và ngoại ngữ của học sinh nông thôn sẽ thấp hơn trẻ em
thành phố do điều kiện học tập, cơ sở vật chất không đầy đủ. Nếu được đáp ứng đầy đủ cơ sở vật
chất thì kết quả, trình độ tin học, ngoại ngữ của trẻ em nông thôn cũng sẽ được tăng lên đáng kể.
Ý thức tác động trở lại vật chất – vật chất và ý thức cái nào có trước
Mặc dù là thứ có sau nhưng ý thức khơng hề thụ động mà nó có thể tác động ngược trở lại
vật chất bằng các hoạt động thực tiễn của con người. Mọi hoạt động của con người đều do ý thức
chỉ đạo nên ý thức sẽ trang bị cho con người những hiểu biết về thế giới khách quan. Trên cơ sở
những hiểu biết đó, con người xây dựng được các kế hoạch, phương pháp, phương tiện… để thực
hiện mục tiêu của mình.
Ý thức tác động ngược trở lại thế giới vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với thế
giới khách quan. Qua hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi và cải tạo hiện thực theo
nhu cầu phát triển. Mức độ tác động sẽ phụ thuộc vào nhu cầu, ý chí, điều kiện mơi trường,…
Tuy nhiên, ý thức khơng thể thốt ly hiện thực khách quan mà sức mạnh của ý thức được
chứng tỏ bằng việc nhận thức khách quan, xây dựng các kế hoạch, mục tiêu để tác động ngược trở
lại khách quan. Nếu sự tác động này là tích cực thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Hoặc kìm hãm
lịch sử, phá vỡ sự phát triển nếu như ý thức tác động tiêu cự lên vật chất, phản ánh sai lệch các
quy luật khách quan.
Xã hội phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng cao, nhất là trong thời đại ngày nay.
Ví dụ: Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức đúng về kinh tế đất nước, xu hướng phát triển
để kịp thời chuyển nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Nhờ đó mà kinh tế
nước nhà đã có nhiều khởi sắc và có thể phát triển như hiện nay.
Ý nghĩa phương pháp luận – vật chất và ý thức cái nào có trước
Tôn trọng sự thật khách quan, xuất phát từ sự thật khách quan trong mọi hoạt động
Ý thức mà con người tiếp thu được từ các hoạt động quan sát, phân tích sẽ tác động ngược
trở lại vật chất. Để cải tạo thế giới khách quan, con người phải căn cứ vào những thuộc tính, quy
luật của khách quan để đánh giá, xác định các phương pháp, kế hoạch để không làm ảnh hưởng
đến sự phát triển của thực tế khách quan, của xã hội.
Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế làm căn cứ cho các hoạt động. Tuyệt đối
không được lấy ý thức chủ quan của mình khi đưa ra các chính sách, chiến lược.
Phát huy tính năng động và sáng tạo tích cực của ý thức
Sau khi biết được vật chất và ý thức cái nào có trước, chúng ta cần biết cách phát huy tính
sáng tạo của ý thức và sức mạnh to lớn của yếu tố con người. Theo đó, con người cần phải nhận
thức đúng quy luật khách quan, tích cực và chủ động phát huy khả năng của mình, tìm tòi, sáng
tạo cái mới.
Mỗi người cần thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức và nâng cao năng lực của mình.
Khơng được thụ động, ỷ lại, lười suy nghĩ, lười lao động. Phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí, bệnh bảo thủ trì trệ hoặc ác thái độ tiêu cực, thụ động,…
Mỗi quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này,
vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức
khơng hồn tồn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thơng qua hoạt động thực tiễn của
con người.
Ví dụ: Trước 1 trận đánh làm quyết tâm thư, tự phê bình và phê bình, rút ra những nhược
điểm để tiến bộ, ưu điểm để phát huy và tự khắc phục những mặt tiêu cực.
Câu 16: Trình bày cơ sở lý luận, yêu cầu và ý nghĩa của nguyên tắc khách quan.
+ Cơ sở lý luận :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về
tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau :khi nhận
thức khách thể ( đối tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể tư duy phải nắm
bắt, tái hiện nó trong chính nó mà khơng được thêm hay bớt một cách tùy tiện .
- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển
nhất định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong q
trình nhận thức đối tượng ta khơng được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về
đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, khơng được ”bắt”
đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối tượng thỏa
mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lơgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo
trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lơgíc phát triển của chính đối tượng đó.
- Tồn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự
tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu vào
“thế giới” bên trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện
tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm
như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách quan, là phù hợp
với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu cầu phát huy tính
năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng .
- Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tịan bộ bản chất của mình ra thành
các hiện tượng điển hình. Con người khơng phải chỉ nhận thức những cái gì bộc lộ ra trước chủ
thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể không bổ sung
những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học ….Thiếu những
điều này tư duy sẽ khơng mang tính biện chứng, sẽ khơng thể hiện bản tính sáng tạo thơng qua trí
tưởng tượng của chính mình. u cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể đòi hỏi chủ
thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tìm ra bản chất của nó. Những biến đổi, cải
tạo đó là chủ quan nhưng khơng phải tùy tiện, mà là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp
quy luật của hiện thực thuộc lĩnh vực nghiên cứu .
- Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và cái tinh thần chứa đầy
những cái chủ quan, những cái lý tưởng và luôn chịu sự tác động của các lực lượng tự phát của tự
nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí,lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác nhau ) của con người.
Ơû đây đối tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy bằng hệ thống những mối liên
hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách quan trong xem xét các hiện tượng xã
hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể và
ngun tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là nguyên tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao
hàm yêu cầu xuất phát từ chính đối tượng, từ những quy luật vận động và phát triển của nó, khơng
được thêm bớt tùy tiện chủ quan, mà nó cịn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với những
quan hệ tư tưởng, các nhân tố khách quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận các quan hệ vật
chất khách quan tồn tại xã hội là nhân tố quyết định.còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng
được quy định bởi đời sống vật chất của con người và các quan hệ kinh tế của họ nhưng chúng có
ảnh hưởng ngược lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát triển
khơng ngừng chứ khơng phải là cái gì đó kết thành một cách máy móc. Phân tích một cách khách
quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên
cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó.
- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và
năng lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với
khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội
….những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá,
những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp tiên
tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem xét các
hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc này dễ dẫn
đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách
quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp
+ Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc khác
của lơgíc biện chứng. Nó thể hiện ở u cầu cụ thể sau :
• Trong hoạt động nhận thức
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được
tùy tiện đưa ra những nhận định chủ quan .
Hai là : Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa
học có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả tuyết đó bằng thực
nghiệm
• Trong hoạt động thực tiễn :
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.
Hai là : Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế họach, tìm
kiếm các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn nắng họat động
của con người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra .Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức
có nghĩa là phát huy vai trị tri thức, tình cảm, ý chí, lý trí ….tức là phát huy vai trò nhân tố con
người trong họat động nhận thức và họat động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan, vươn lên
làm chủ thế giới
Câu 17: Phân tích khái niệm và tính chất của mối liên hệ phổ biến.
* Khái niệm mối liên hệ
Là 1 Phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động, ràng buộc, quy định, chuyển hóa lẫn nhau
giữa các yếu tố, các mặt trong 1 sự vật hiện tượng hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
* Khái niệm mối liện hệ phổ biến
Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính phổ biến của mối liên hệ, của các sự vật hiện tượng
trong thế giới và các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật hiện tượng trong thế giới. Mối liên hệ phổ
biến nhất là liên hệ giữa các mặt đối lập, mối liên hệ giữa lượng và chất, mối liên hệ giữa bản chất
và hiện tượng.
* Nội dung
- Tính khách quan
+ Các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau
của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập khơng
phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ
đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
+ Sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng là cái vốn
có của nó,tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người?
- Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm
chuyên hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó,
tồn tại độc lập khơng phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến
+ Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ
không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng
khác. ... Các mối liên hệ này có vị trí, vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật,
hiện tượng.
+ Khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự
vật, hiện tượng hay quá trình khác
- Theo quan điểm biện chứng thì khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn
tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng khơng có bất
cứ sự vật, hiện tượng nào khơng phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành
với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn
nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn
nhau.
- Tính đa dạng phong phú
+ Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác
nhau, giữ vị trí, vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà cịn nhấn
mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ
được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay q trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ
thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng
một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở
những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có
những tính chất và vai trị khác nhau. Như vậy, khơng thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trị cụ
thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện
xác định.
+ Phân loại liên hệ: mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu,
mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp
- Liên hệ bên trong và liên hệ bên ngồi.
•
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố, các
bộ phận, các thuộc tính, các mặt khác nhau… trong cùng một sự vật. Nó giữ vai trị quyết định đối
với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
•
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau. Nhìn
chung, nó khơng có ý nghĩa quyết định. Mối quan hệ này thường phải thông qua mối liên hệ bên
trong để phát huy tác dụng.
- Liên hệ chủ yếu và thứ yếu; liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
Cách phân loại này nói đến vai trị quyết định đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
+ Vận dụng tính chất của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn
* Mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó:
+ Quan điểm tồn diện: Khi xem xét bất cứ 1 sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải đặt nó
trong quan hệ với sự vật hiện tượng khac, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các q trình
phát triển của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm ra mối liên hệ bản chất chủ yếu …
* Về Mặt thực tiễn:
+ Ý nghĩa 1: Để cải tạo sự vật thì phải có giải pháp đồng bộ, tồn diện. Chọn lĩnh vực nào
là chủ yếu.
Trong Cơng tác quản lý thì phải phân cấp quản lý.
+ Ý nghĩa 2: Chống quan niệm siêu hình:
Khơng thấy được trọng tâm, trọng điểm, đánh giá tràn lan các mối liên hệ , khơng thấy đâu
là chủ yếu đó là siêu hình. Chống chủ nghĩa chết chung và thuận nghị biện. Trong đó, chủ nghĩa
chết chung là Kết hợp 1 cách vô nguyên tắc giữa các sự vật hiện tượng.
+ Ý nghĩa 3: Khi giải quyết 1 vấn đề cần xem xét các yếu tố cấu thành liên hệ mật thiết,
phải xem xét yếu tố lịch sử hình thành trong mối tương quan với hiện tại.
Câu 18: Phân tích nội dung cơ bản và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối quan
hệ phổ biến
1.
Khái niệm mối liên hệ
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới.
Mối quan hệ được hiểu là sự tác động qua lại giữa hai (hoặc nhiều hơn hai) đối tượng hoặc
hai (hoặc nhiều hơn hai) nhóm đối tượng có liên quan với nhau. Trong biện chứng, khái niệm mối
liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng,
hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
2.
Mối liên hệ phổ biến
Khái niệm mối liên hệ phổ biến được sử dụng với hai hàm nghĩa cụ thể như sau:
Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ (ví dụ: khi khẳng định rằng mối liên hệ là
cái vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật, hiện tượng nào,
lĩnh vực nào).
Đồng thời, khái niệm này cũng dùng để chỉ: những liên hệ tồn tại (được thể hiện) ở nhiều
sự vật, hiện tượng của thế giới (tức là dùng để phân biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc thù chỉ
biểu hiện ở một hay một số các sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vững nhất định).
Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt trog 1 sự vật hiện tượng
3.
Nội dung mối quan hệ phổ biến
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của
các mối liên hệ. - Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau
của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập khơng
phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ
đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng thì khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn
tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng khơng có bất
cứ sự vật, hiện tượng nào khơng phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành
với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn
nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn
nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm biện chứng của chù nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ khẳng định tính khách quan,
tính phổ biến của các mối liên hệ mà cịn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ.
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng
hay q trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau
đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện
tượng nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trị khác nhau.
Như vậy, khơng thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trị cụ thể của các mối liên hệ khác
nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối liên
hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu,
mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, v.v. của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự
thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự
vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
4.
Ý nghĩa mối quan hệ phổ biến
Nguyên tắc toàn diện
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, đa dạng, do
đó muốn nhận thức đúng và từ đó có phương pháp tác động có hiệu quả vào mỗi sự vật phải có
quan điểm tồn diện. Quan điểm tồn diện địi hỏi phải xem xét đầy đủ các mối liên hệ của sự vật
đó với các sự vật khác; liên hệ trực tiếp và cả mối liên hệ gián tiếp; đồng thời xem xét các mối
liên hệ giữa các yếu tố, thuộc tính bên trong của sự vật. V.I. Lênin viết: “ Muốn thực sự hiểu
được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan
hệ gián tiếp” của sự vật đó.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt
động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống
phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trị khác nhau của mỗi mối
liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có
hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không
những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà cịn phải tránh và khắc
phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
5.
Ví dụ minh họa
Ví dụ 1:
Giữa tri thức cũng có mối liên hệ phổ biến. Khi chúng ta làm đề kiểm tra toán, lý, hóa,
chúng ta phải vận dụng kiến thức văn học để đánh giá đề thi.
Khi giải đề lý, hóa, chúng ta phải vận dụng cơng thức tốn học để tính tốn. Khi học các
kiến thức về mơn xã hội, chúng ta phải vận dụng phương thức tư duy lơ gíc của các mơn tự nhiên.
Ví dụ 2:
Khi bạn muốn trồng một cái cây. Bạn phải có hạt giống và đất. Bạn phải tưới nước cho nó
mỗi ngày. Đồng thời phải cho nó quang hợp, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Chỉ có như vậy thì hạt mới nảy mầm. Nếu như khơng có những điều kiện kết, hạt giống sẽ
khơng bao giờ nảy mầm. Có thể thấy rằng giữa hạt giống và môi trường xung quanh có mối liên
hệ nhất định.
6.
Vận dụng
Vận dụng vào cơng cuộc đổi mới đất nước
Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, tư tưởng…) chứ không ở một lĩnh vực nào.
Như Đại hội VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “Một là phải giữ vững định
hướng XHCN trong quá trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có
bước đi hình thức và cách làm phù hợp”.
Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội.
Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ chức, cán
bộ, phong cách và lề lối làm việc.
Đổi mới tồn diện trên tất cả lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm như xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường để tạo ra động lực nhằm phát huy, kiến trúc nền kinh tế trong
nhân dân, khai thác vốn đầu tư và trình độ cũng như vốn của nước ngoài, nâng cao tay nghề, tiếp
thu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã gia nhập
WTO, tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế VN ngày càng đi lên hội nhập tồn cầu hóa kinh tế
thế giới.
Đó là sự vận dụng hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào sự nghiệp cách mạng VN
đặc biệt là vận dụng nguyên lý của mối liên hệ phổ biến.
Câu 19: Làm rõ cơ sở lý luận và nội dung của nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch
sử - cụ thể.
* Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử, cụ thể :
-Nguyên lý về mối liên phổ biến của phép biện chứng duy vật:
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các
mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ
tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những
mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép
biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái
chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, v.v.. Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới
vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi
nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ
đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những
mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa
dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự hiên, xã hội và tư duy.
- Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể:
Quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể là những quan điểm cơ bản thuộc về phương pháp
luận của phép biện chứng duy vật. Chúng được xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm duy
vật biện chứng về tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ
của tất thảy các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Nội dung chính của quan điểm tồn diện
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều mối
quan hệ của nó. Thực hiện điều này sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc hạn chế được sự phiến
diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình
huống thực tiễn, nhờ đó tạo ra khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế
và xử lý chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.
- Nội dung chính của quan điểm lịch sử cụ thể
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong các mối quan hệ và tình huống
xác định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định; cũng tức là: khi nhận thức và xử lý các tình
huống thực tiễn cần phải tránh quan niệm chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch sử cụ
thể; tránh chiết trung, nguỵ biện.
Như vậy, khi thực hiện quan điểm tồn diện cần phải ln ln gắn với quan điểm lịch sử
cụ thể thì mới có thể thực sự nhận thức chính xác được sự vật và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả
đối với các vấn đề thực tiễn.
Ví dụ 1:
Khi phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần vận dụng lý thuyết hệ thống,
tức là: xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu tố, bộ phận nào với những mối quan hệ ràng
buộc và tương tác nào, từ đó có thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn khơng có ở
mỗi yếu tố (thuộc tính “trời”); mặt khác, cũng cần phải xem xét sự vật ấy trong tính mở của nó,
tức là xem xét nó trong mối quan hệ với các hệ thống khác, với các yếu tố tạo thành mơi trường
vận động, phát triển của nó…
Ví dụ 2:
Quan điểm toàn diện: Khi bạn nhận xét về một người nào đó thì khơng thể có cái nhìn
phiến diện ở vẻ bên ngoài. Cần chú ý đến các yếu tố khác như bản chất con người, các mối quan
hệ của người này với người khác, cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Chỉ
khi hiểu hết về người đó bạn mới có thể đưa ra các nhận xét.
* Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn
-Tình hình dịch bệnh COVID-19 hiện nay
Cho đến hết quý I năm 2021, tình hình dịch bệnh ở nước ta vẫn trong tầm kiểm soát. Các
ca nhiễm mới trong nước hầu hết đều được phát hiện khi đã ở trong khu vực cách ly. Các ca
nhiễm trong cộng đồng chỉ là cá biệt và được phát hiện, khoanh vùng và đưa đi cách ly ngay sau
khi nghi mắc hay có kết quả xét nghiệm dương tính.
Tuy vậy, với việc các biến chủng mới liên tục xuất hiện với tính chất lây lan nhanh hơn so
với chủng loại ban đầu và sự lơ là chủ quan của một số địa phương cũng như người dân nên tình
hình dịch bệnh từ quý II/2021 trở nên cực kỳ phức tạp và nghiêm trọng. Đặc biệt là sau kỳ nghỉ lễ
30/4 – 01/05. Tính đến ngày 13/9/2021, Việt Nam có tổng số khoảng 613.000 ca mắc, số tử vong
là 15,279 người . Mỗi ngày trong nước ghi nhận khoảng 10.000 ca dù vẫn có hàng nghìn các ca
bệnh khỏi và đủ điều kiện về cách ly tại nhà. Tình hình dịch bệnh nghiêm trọng nhất là ở các tỉnh
phía Nam bao gồm: TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Long An.
- Đánh giá sự vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể trong cơng tác phịng chống dịch
COVID 19 ở Việt Nam
Công tác chống dịch của nước ta luôn được Đảng, Nhà nước và Chính phủ quan tâm, chỉ
đạo rất mạnh mẽ. Do đó Nhà nước cũng đã đưa ra những chính sách phù hợp, linh hoạt, mạnh mẽ
theo hướng đổi mới, sáng tạo vận dụng theo quan điểm lịch sử - cụ thể như kim chỉ nam để phù
hợp với từng thời điểm diễn ra trên thực tế. Cơng tác phịng chống dịch COVID 19 ở nước ta đạt
được những kết quả, cũng có những hạn chế trong công tác này, cụ thể như sau:
Những kết quả đạt được
Thứ nhất, Việt Nam đã huy động mọi nguồn lực và cả hệ thống chính trị vào cuộc. Ngay
từ những ngày đầu khi dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, Việt Nam đã chủ động huy động sức
mạnh của cả hệ thống chính trị trên tồn quốc cùng phịng chống dịch. Hàng loạt văn bản chỉ đạo
của Đảng, Chính phủ được ban hành, nhiều phương án, biện pháp phòng chống được triển khai
nhằm nhắc nhở người dân mức độ nguy hại của dịch bệnh, đồng thời nâng cao nhận thức và sự
đồng thuận, thống nhất giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Các
hoạt động phòng chống dịch không chỉ được thực hiện bởi ngành y tế, mà cịn có sự tham gia của
lực lượng vũ trang, ngoại giao, các cơ quan thơng tấn, báo chí. Các chủ trương, chính sách của
Đảng và Chính phủ được nhân dân ủng hộ, chung tay thực hiện.
Thứ hai, tạo ra khuôn khổ hành lang pháp lý và thể chế tương đối đầy đủ, rõ ràng, minh
bạch và hiệu quả đối phó với dịch bệnh và nhấn mạnh bảo vệ quyền con người. Để đối phó với
dịch bệnh, Việt Nam đã có khung pháp lý và thể chế tương đối đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và hiệu
quả. Về pháp lý, có thể khẳng định, các chỉ đạo, bước đi trong công tác lãnh đạo của Đảng và
Chính phủ đều dựa trên cơ sở đánh giá thực tiễn và luật pháp (đơn cử là Luật phòng, chống bệnh
truyền nhiễm có hiệu lực từ 1/7/2008.). Trong thời gian đối phó với đại dịch COVID-19, Nhà
nước đã đưa ra nhiều văn bản cấp thiết đối với tình hình, trong đó có Quyết định số 447/QĐ-TTg
cơng bố dịch bệnh trên cả nước, đồng thời bắt buộc thực hiện các quy định trong các văn bản, chỉ
thị của Thủ tướng như Chỉ thị 16/CT-TTg.
Thứ ba, Việt Nam có những quyết sách nhanh chóng, kịp thời và quyết liệt. Căn cứ tình
hình thực tế, Chính phủ Việt Nam đưa ra những chỉ thị, nghị định, mang tính hành động nghiêm
khắc, quyết liệt. Ngày 28/1/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành Chỉ
thị số 05/CT-TTg về phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do virus SARS-CoV-2 gây
ra. Đồng thời, để đẩy lùi những khó khăn về mặt kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành những chính sách, nghị định về hỗ trợ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đời sống nhân dân và
phát triển doanh nghiệp; Chính phủ ban hành Nghị quyết 42/NQ-CP về các biện pháp hỗ trợ
người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Đến đợt dịch thứ 4 kể từ tháng 05/2021, do tình
hình dịch bệnh tại Việt Nam chuyển biến có nhiều ca lây nhiễm cộng đồng khơng kiểm sốt được
do đó các Chỉ thị 15, Chỉ thị 16 và Chỉ thị 19 đều là những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về
các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 được ban hành để phù hợp từng địa phương trong
những thời điểm khác nhau. Không chỉ có những quyết sách kịp thời, Việt Nam cịn thường xuyên
cập nhật và tuyên truyền cho người dân qua nhiều kênh thơng tin.
Thứ tư, Chính phủ Việt Nam đưa ra những quyết sách tạo sự công bằng. Trong ứng phó
với dịch bệnh, Việt Nam đã có cách tiếp cận công bằng với mọi đối tượng khác nhau trong xã hội,
không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Các chỉ thị của Đảng và Chính phủ đều bảo đảm để
mọi người dân đều được tiếp cận với các cơ sở, dịch vụ y tế và vật tư y tế.
Thứ năm, trong ứng phó với dịch COVID-19, trách nhiệm giải trình được thể hiện qua
trách nhiệm trong nội bộ và trách nhiệm đối với xã hội. Trách nhiệm trong nội bộ được nêu rõ
trong các văn bản chỉ đạo của Ban Bí thư và Chính phủ. Chẳng hạn, chỉ thị 19/CT-TTg của Thủ
tướng nêu rõ: “Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tiếp tục (...) đề cao kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm của người đứng đầu, thực
hiện nghiêm các biện pháp phịng, chống dịch”. Theo đó, các cơ quan có trách nhiệm thực hiện
nghiêm túc các chỉ đạo và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, giải trình với Chính phủ, Thủ tướng
các vấn đề trong q trình phịng chống dịch bệnh.
5.2. Những vấn đề còn hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, cơng tác phịng chống dịch COVID 19 cũng còn những bất cập
do dịch bệnh phức tạp với biến thể mới xảy ra trên diện rộng, nguồn lực trong nước chưa kịp thời
đáp ứng đầy đủ, cụ thể:
Thứ nhất, hành lang pháp lý và thể chế đối phó với dịch bệnh còn cứng nhắc chưa phù hợp
với thực tế. Đặc biệt kể từ đợt dịch thứ 4 bùng phát, tại một số địa phương có những khung pháp
lý khi áp dụng vào thực tế còn cứng nhắc, chưa phù hợp. Điển hình là vấn đề “Giấy đi đường” tại
khu vực TP Hà Nội, theo đó từ những ngày triển khai loại giấy tờ này để kiểm soát người đi lại đã
gặp khơng ít khó khăn. Tại Cơng văn số 2562/UBND-KT của UBND TP Hà Nội thì kể từ “0h
ngày 23/8/2021, người lao động tại các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất,
kinh doanh dịch vụ được phép hoạt động phải xuất trình Giấy đi đường hoặc danh sách kèm theo
có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi đơn vị hoạt động”. Và thời điểm TP Hà Nội đưa
ra thông báo muộn, dẫn đến sáng hơm sau khi ban hành cơng văn thì ghi nhận tại UBND một số
phường, số lượng người đến “xin xác nhận” khá đông. Gần đây nhất tại TP Hà Nội đề nghị xét
cấp giấy đi đường mẫu mới từ 6/9/2021. Muốn có mẫu giấy đi đường mới cấp cho nhân viên sử
dụng từ ngày 6-9, ngay trong ngày chủ nhật hôm nay, các doanh nghiệp sẽ phải "vắt chân lên cổ"
triển khai các bước đề nghị xét duyệt và cấp giấy, mà mỗi bước đều phải qua các cơ quan cơng
quyền.
Thứ hai, các quyết sách của chính phủ Việt Nam phát huy hiệu lực và đạt hiệu quả chưa
cao. Việc giãn cách xã hội quá nhiều ngày từ khi dịch bùng phát mạnh khiến nhiều người gặp khó