Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Những tác động của Luật Quốc tế đến quá trình phát triển, hoàn thiện pháp luật về biển của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.19 KB, 9 trang )

0

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................1
1. Khái quát pháp luật về biển của Việt Nam theo tiến trình lịch sử.............1
2. Những tác động của Luật Quốc tế đến quá trình phát triển, hoàn thiện
pháp luật về biển của Việt Nam......................................................................2
2.1 Cơ sở mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia.........................2
2.2 Nội dung tác động của luật quốc tế đến q trình phát triển, hồn
thiện pháp luật về biển của Việt Nam.........................................................3
KẾT LUẬN.......................................................................................................7
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................8


1

MỞ ĐẦU
Năm 1961, trong cuộc nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ Hải quân Việt
Nam, Bác Hồ đã nói: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày,
có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Từ sau
ngày giải phóng đất nước đến nay, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng ghi
nhận thơng qua việc xây dựng pháp luật về biển điều chỉnh những lĩnh vực
quan trọng như an ninh – quốc phịng, giao thơng vận tải biển, xây dựng bản
đồ biển và giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên biển,… Điều gì đã làm
nên sự tiến bộ đó? Em xin được tìm hiểu đề tài: Phân tích những tác động của
Luật Quốc tế đến q trình phát triển, hồn thiện pháp luật về biển của Việt
Nam.
NỘI DUNG
1. Khái quát pháp luật về biển của Việt Nam theo tiến trình lịch sử


Lịch sử Luật Biển Việt Nam được chia thành bốn giai đoạn:
 Luật Biển trước khi các nước phương Tây tới (trước 1874)
 Luật Biển dưới thời thực dân (1874 – 1954)
 Luật Biển trong giai đoạn Việt Nam bị phân chia (1954 – 1976)
 Luật Biển từ khi Tổng tuyển cử đất nước thống nhất (từ 1976 trở đi)1
Tuy nhiên, để thấy rõ được sự tác động mạnh mẽ của Luật quốc tế tới
q trình hồn thiện, phát triển pháp luật về biển của Việt Nam sau này, ta
phải đi sâu vào giai đoạn Luật Biển trong giai đoạn Việt Nam bị phân chia.
Chúng ta biết rằng, từ năm 1954 đến tháng 4/1975, đất nước phải chịu nỗi đau
chia cắt: miền Nam tiếp tục chiến đấu chống Mĩ-ngụy, miền Bắc đi lên Xã hội
chủ nghĩa, là hậu phương vững chắc cho miền Nam. Trong quan hệ quốc tế,
Việt Nam đã ký với Trung Quốc các hiệp định nghề cá 1957, 1960, 1963,
Hiệp định về nghiên cứu biển năm 1961 trong vịnh Bắc Bộ. Mặc dù khơng có
tun bố chính thức, Việt Nam được coi là nước có quan điểm mở rộng lãnh
1 Nguyễn Hồng Thao, Những điều cần biết về Luật Biển, Nxb Công an nhân dân


2

hải tới 12 hải lý. Tuy nhiên, Tình hình đất nước rối ren, thù trong giặc ngoài
cộng với sự cản trở từ phía Mĩ về việc tham gia Hội nghị lần thứ nhất năm
1958 của Liên hợp quốc về Luật Biển đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa khiến chính quyền Đảng ta thời đó khơng chú trọng nhiều đến việc xác
lập chủ quyền trên Biển Đông. Khác với đất liền, biển là một khơng gian mở,
khơng thể có sự phân chia một cách dứt khốt, độc lập hồn tồn giữa các bộ
phận với nhau. Do đó, các nước, nhất là các cường quốc đều có những điều
chỉnh chiến lược, nhằm tăng cường ảnh hưởng, bảo vệ lợi ích của mình ở khu
vực này, trong đó có Biển Đơng. Thống kê cho thấy Việt Nam có tới 7/16
tranh chấp biển ở Biển Đơng với các nước có bờ biển kế cận và đối diện, bao
gồm cả quốc gia quần đảo; có vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền trên các

đảo thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa2,… Các tranh chấp này không
chỉ ảnh hưởng đến quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia ven Biển Đơng, mà
cịn ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều quốc gia khác, ảnh hưởng đến hịa bình,
ổn định và sự hợp tác phát triển trong khu vực. Tóm lại, trong giai đoạn này,
do hoàn cảnh chiến tranh và đất nước bị chia cắt, Việt Nam chưa có được một
khung pháp lý đầy đủ, phù hợp với xu hướng chung của luật biển quốc tế, do
đó đã hạn chế một phần sự mở rộng ra hướng biển của Việt Nam. Điều này
đặt ra thách thức to lớn cho Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp về chủ
quyền và hoàn thiện phát triển pháp luật về biển.
2. Những tác động của Luật Quốc tế đến q trình phát triển, hồn thiện
pháp luật về biển của Việt Nam
2.1 Cơ sở mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia
Sự gắn bó giữa hai chức năng cơ bản của Nhà nước là chức năng đối nội
và chức năng đối ngoại là một trong số yếu tố mang tính cơ sở cho việc tạo
mối quan hệ cho luật quốc gia và luật quốc tế - vốn là hai phương diện chủ
yếu khi Nhà nước thực hiện hai chức năng nói trên. Điều này làm cho sự
tương tác giữa hai hệ thống pháp luật ln chặt chẽ. Ngồi ra, cả luật quốc gia
2 Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Quốc tế về Luật Biển, Nxb Tư pháp


3

và luật quốc tế đều liên quan đến chủ thể là Nhà nước. Sự có mặt của Nhà
nước đảm bảo sự nhất quán giữa hai hệ thống pháp luật vì một mục tiêu
chung là sự tồn tại và phát triển. Hơn nữa, cả hai hệ thống pháp luật này đều
có những vai trị chung bắt nguồn từ chính sự khác biệt nhưng thống nhất về
các chức năng vốn có của pháp luật: Là cơ sở để thiết lập, tăng cường quyền
lực Nhà nước; góp phần tạo dựng những quan hệ mới, tạo mơi trường ổn định
để thiết lập, duy trì, phát triển các quan hệ quốc tế; là phương tiện để Nhà
nước quản lý kinh tế, xã hội3. Tính tất yếu của mối quan hệ giữa luật quốc tế

và luật quốc gia còn xuất phát từ một trong những nguyên tắc quan trọng nhất
của Luật Quốc tế - nguyên tắc Pacta sunt servanda, tức là tận tâm thiện chí
thực hiện các cam kết quốc tế. Nguyên tắc này đòi hỏi quốc gia thể hiện thông
qua nhiều hành vi cụ thể khác nhau trong đó có hành vi sửa đổi, bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật quốc gia sao cho các quy định của pháp luật quốc
gia vừa mang tính đặc thù của mỗi quốc gia vừa phù hợp với các cam kết
quốc tế của quốc gia.
2.2 Nội dung tác động của luật quốc tế đến quá trình phát triển, hoàn thiện
pháp luật về biển của Việt Nam
Thứ nhất, Luật quốc tế góp phần thúc đẩy hình thành pháp luật về biển
của Việt Nam. Trước khi tham gia sâu rộng vào quan hệ quốc tế, cụ thể là
Công ước luật biển 1982, Việt Nam chưa có quy chế pháp lý cụ thể và rõ ràng
về biển, chưa tương xứng với vị trí của quốc gia được thiên nhiên ưu đãi về
biển. Chỉ khi bắt đầu gia nhập các tổ chức quốc tế liên chính phủ, tham gia ký
kết điều ước quốc tế về biển,… bằng cách chuyển hóa luật quốc tế vào pháp
luật quốc gia, hay chính là nội luật hóa, Việt Nam mới bắt đầu hình thành
khung pháp lý cơ bản của pháp luật về biển. Đặt trong bối cảnh Việt Nam là
một nước đang phát triển, hệ thống pháp luật về biển còn hạn chế, nhưng
trong quá trình tham gia xây dựng Cơng ước Luật Biển 1982 tại các kỳ họp,
Việt Nam đã chủ động áp dụng các quy định phù hợp của dự thảo Công ước
3 Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh (đồng chủ biên), Luật Quốc tế - Lý luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục


4

vào các văn bản pháp luật về biển của Việt Nam như Tuyên bố của Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam ngày 12/05/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
Việt Nam; Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 1990; Nghị định số 30/CP ngày

29/1/1980 của Hội đồng Chính phủ về Quy chế cho tàu thuyền nước ngoài
hoạt động trên các vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam,… Trong đó, với
Tuyên bố năm 1977, Việt Nam có một vùng biển rộng khoảng ba lần lãnh thổ
đất liền. Khác với chính quyền Sài Gịn khi đó chỉ địi hỏi quyền ưu tiên đánh
cá và thiết lập vùng đánh cá rộng 50 hải lý từ ranh giới ngồi của lãnh hải,
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế rộng
200 hải lý, không chỉ giới hạn trong quyền đánh cá mà còn mở rộng thêm các
quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. “Đây là bước tiến ra biển lớn nhất
trong lịch sử Việt Nam”4. Các văn bản này đã góp phần tạo nên một trật tự
pháp lý ổn định trên biển Việt Nam, điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực
giao thơng vận tải, thủy sản, dầu khí, bảo vệ môi trường và nhiều lĩnh vực
khác.
Thứ hai, Luật quốc tế là cơ sở để Việt Nam rà soát và hoàn chỉnh các luật
lệ cần thiết bảo vệ trật tự pháp lý, tài nguyên, môi trường vùng biển và thềm
lục địa Việt Nam, yêu cầu các nước khác tôn trọng pháp luật và lợi ích thích
đáng của Việt Nam trên biển. Việc khẳng định nguyên tắc bình đẳng về chủ
quyền giữa các quốc gia là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế đã tạo cơ sở
pháp lý cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam nhận thức được tầm quan
trọng của chủ quyền quốc gia trên biển, từ đó có những bước đi đúng đắn
trong việc hồn thiện pháp luật về biển của quốc gia mình. Trước khi Hội
nghị Luật Biển của Liên Hợp Quốc lần thứ ba thông qua Công ước, để đáp
ứng nhu cầu của công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động trên biển,
Việt Nam đã có những văn bản quy phạm pháp luật về biển, nhưng chưa đầy
4 Nguyễn Hồng Thao (chủ biên), Công ước Biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia


5

đủ, tồn diện, chưa thích hợp để xử lý mối quan hệ ngày càng phát triển, các

hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên biển, đặc biệt trong tình
hình tranh chấp phức tạp thì các văn bản đó chưa đáp ứng được. Cụ thể, khi ra
Tuyên bố năm 1982, Việt Nam chưa có đủ điều kiện khảo sát, tính đến những
tính chất riêng biệt của bờ biển Việt Nam như các khu vực không ổn định, các
khu vực cửa sông lớn, hệ thống các đảo ven bờ. Vì vậy, khi xác định đường
cơ sở thẳng ven bờ, Việt Nam đã bỏ qua điều này và xác định điểm cơ sở A6
(Hòn Hải) ở cách khá xa đất liền, cụ thể là 74 hải lý. Về cơ bản là vạch theo
xu hướng chung của đường bờ biển, nhưng sau khi phê chuẩn Công ước Luật
Biển 1982, Việt Nam vẫn chủ động xem xét điều chỉnh để có những sửa đổi,
bổ sung cần thiết sao cho phù hợp với tinh thần Cơng ước 1982, hoặc ít nhất
là khơng cản trở q trình thực thi và tn thủ điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên5. Sau này, với việc Quốc hội nước ta thông qua Luật biển Việt
Nam, chúng ta đã chuyển một thông điệp quan trọng đến cộng đồng quốc tế,
đó là: Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về
Luật biển năm 1982. Luật biển Việt Nam đã bổ sung, điều chỉnh các quy định
pháp lý về vùng tiếp giáp lãnh hải cho phù hợp với Công ước Luật biển năm
1982. Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngồi lãnh hải
Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngồi của lãnh hải (Điều
13). Việt Nam coi vùng tiếp giáp lãnh hải là một bộ phận của vùng đặc quyền
kinh tế, có chế độ pháp lý như vùng đặc quyền kinh tế (Điều 16). Ngoài ra,
Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa
và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh
xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam. Luật biển Việt Nam 2012
cũng phù hợp với Luật hàng hải quốc tế hơn khi bỏ quy định giành quyền ưu
tiên cứu hộ trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Nghị định 30-CP. Điều 33 quy
định: Trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, Nhà nước có đặc quyền trong việc
5 Nguyễn Hồng Thao (chủ biên), Công ước Biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia



6

thực hiện các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ người và tàu thuyền gặp
nạn hoặc nguy hiểm cần sự cứu giúp6.
Thứ ba, Luật quốc tế tạo điều kiện đảm bảo cho quá trình thực hiện của
pháp luật về biển của Việt Nam. Trong thời đại hội nhập toàn cầu như hiện
nay, khơng một quốc gia nào có thể đơn phương giải quyết tất cả các vấn đề,
đặc biệt là vấn đề có nhiều bên liên quan như biển đảo. Do vậy, nếu khơng có
sự hợp tác quốc tế thì khơng hoặc khó có thể giải quyết tranh chấp một cách
hiệu quả. Nội dung nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác trong luật
quốc tế cũng ghi nhận điều này. Sau ngày giải phóng, Việt Nam đã cùng các
quốc gia khác ký kết hàng loạt các điều ước quốc tế để cùng nhau hợp tác giải
quyết các vấn đề về Biển Đông như Công ước Luật Biển 1982, Công ước về
Tổ chức Hàng hải Quốc tế 1948 (Sửa đổi năm 1991, 1993), Công ước về tạo
thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế 1965, Công ước quốc tế về tìm
kiếm và cứu nạn hàng hải 1979, Hiệp định hợp tác khu vực về chống cướp
biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền tại Châu Á 7,… Thông qua việc
ký kết điều ước quốc tế, Việt Nam cùng các quốc gia thể hiện quyết tâm cùng
nhau xây dựng môi trường biển trong sạch, vững mạnh và chính những quy
phạm pháp luật quốc tế này sẽ là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện các
quy phạm tương ứng của pháp luật quốc gia.
Thứ tư, Luật quốc tế đồng thời đặt ra những thách thức đối với q trình
phát triển, hồn thiện pháp luật về biển của Việt Nam. Kể từ khi hội nhập, số
lượng tổ chức quốc tế và điều ước quốc tế về biển nói chung mà Việt Nam gia
nhập ngày càng nhiều, kéo theo đó là yêu cầu xây dựng, ban hành các văn bản
pháp luật tương thích. Hơn nữa, khơng phải mọi quy phạm pháp luật của Luật
quốc tế đều theo hướng có lợi đối với Việt Nam. Điều này đặt ra thách thức
đối với các nhà làm luật trong việc nội luật hóa các quy định của Luật quốc tế
làm sao để khơng gây phương hại đến lợi ích của quốc gia mà vẫn phải đảm

6 Nguyễn Hồng Thao (chủ biên), Công ước Biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia
7 Nguyễn Thị Kim Ngân, Chu Mạnh Hùng (đồng chủ biên), Giáo trình Luật Quốc tế: dùng trong các Trường
Đại học chuyên ngành Luật, Ngoại giao, Nxb Giáo dục


7

bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế. Ví dụ về việc thực thi Công ước
Luật Biển 1982 trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học biển. Giai đoạn 1975 –
1989, do nhiều lý do như an ninh - quốc phòng, kinh tế, đối ngoại mà việc cho
phép tiến hành nghiên cứu khoa học biển ở Việt Nam còn nhiều hạn chế 8.
Cùng với chính sách đổi mới, mở rộng quan hệ, công tác nghiên cứu khoa học
biển cũng phát triển. Nghị định 242/HĐBT ra đời khẳng định Việt Nam tôn
trọng quyền tiến hành nghiên cứu khoa học biển của các nước, tổ chức, cá
nhân nước ngoài dựa trên cơ sở khơng làm phương hại đến lợi ích của đơi
bên. Đi kèm với đó là thủ tục cấp phép nghiên cứu khoa học biển trong các
vùng biển Việt Nam cùng với chế tài khi có vi phạm. Tuy nhiên, Nghị định đã
khơng quy định rõ đầu mối quản lí tổng hợp và báo cáo nên tình trạng khơng
nắm được số lượng thực của tàu thuyền nước ngoài vào Việt Nam. Phải mới
đây nhất, Nghị định 41/2016/NĐ-CP quy định chi tiết việc cấp phép cho tổ
chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học biển trong vùng biển
Việt Nam mới khắc phục được nhược điểm này.
KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập, pháp luật nước ta đã có những bổ sung, điều
chỉnh sao cho phù hợp với các nguyên tắc cũng như những điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên. Thế nhưng, hệ thống luật về biển nhìn chung chưa
toàn diện, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền,
an ninh biển đảo. Vì thế, khẩn trương hồn thiện hệ thống pháp luật về biển là
vấn đề quan trọng và cấp bách đang đặt ra với chúng ta hiện nay. Thực hiện

tốt vấn đề này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề liên quan
đến biển đảo, đặc biệt là giải quyết tranh chấp chủ quyền trên các vùng biển,
đảo của Tổ quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước của Liên hợp quốc năm 1982 về luật biển.
8 Nguyễn Hồng Thao (chủ biên), Công ước Biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia


8

2. Luật biển Việt Nam năm 2012.
3. Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội,
2015.
5. TS. Nguyễn Thị Kim Ngân, TS. Chu Mạnh Hùng (đồng chủ biên), Giáo
trình luật quốc tế (dùng trong các trường đại học chuyên ngành luật và ngoại
giao), Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2012.
6. TS. Nguyễn Hồng Thao, Những điều cần biết về Luật Biển, Nxb. CAND,
Hà Nội, 1997
7. Bộ Tư pháp, Việt Nam với việc thực hiện Công ước về Luật Biển 1982,
Nxb Tư pháp, Hà Nội 2009
8. TS. Nguyễn Hồng Thao (chủ biên), PGS.TS. Đỗ Minh Thái, TS. Nguyễn
Thị Như Mai, ThS. Nguyễn Thị Hường, Công ước Biển 1982 và chiến lược
biển của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008
9. Lê Mai Anh - Trần Văn Thắng, Luật quốc tế - Lí luận và thực tiễn, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2001.
10. Lê Mai Anh, Luật biển quốc tế hiện đại, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005.
Trang Web:
1.

2.
3.
4.



×