Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Tài liệu Đề án: "CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DU LỊCH MÔI TRƯỜNG " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.3 KB, 37 trang )











Đề án: "CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
VẤN ĐỀ DU LỊCH MÔI TRƯỜNG "
LỜI MỞ ĐẦU

Du lịch ngày nay đã trở thành một ngành kinh tế phát triển nhanh và chiếm vị
trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của nhiều quốc gia. Việt Nam là một nước được
biết đến với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng được thế giới công nhận là di sản văn
hoá thế giới: Vịnh Hạ Long, Phong Nha, Kẻ Bàng, Thánh Địa Mĩ Sơn, Cố Đô Huế,
Phố Cổ Hội An, Nhã Nhạc Cung Đình Huế, . . . Cùng với điều kiện tự nhiên phong
phú và đa dạng. Nằm trên bán đảo Đông dương ở Đông Nam Á, về đường thuỷ Việt
Nam thuận tiện về địa lý là điểm gặp giữa Thái BìnhDương và Ấn Độ Dương. Về
đường bộ phía Bắc Việt Nam tiếp giáp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa; phía tây
tiếp giáp hai nước Lào và Campuchia; phía Đông và Nam tiếp giáp biển Đông và
Vịnh Thái Lan. Tổng chiều dài đường biển trên đất liền của Việt Nam là trên 3. 730
km, thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ biển và du lịch sinh thái như :Bãi Cháy- Hạ
Long, biển Thiên Cầm- Hà Tĩnh, Cửa Lò- Nghệ An, Vũng Tàu, Nha Trang- Khánh
Hoà, biển Phan Thiết. . . Bên cạnh đó thì Việt Nam còn có một hệ Sinh thái rừng
nguyên sinh còn chưa được khai thác như Cúc Phương- Ninh Bình, Pù Mát - Nghệ
An, . . . Việt Nam đã và đang là điểm đến lý tưởng của bạn bè du khách quốc tế. Để
làm được điều đó thì Việt Nam dần đần đẩy mạnh đầu tư và nâng cấp hạ tầng cơ sở
du lịch ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn. Một trong những biện pháp cơ bản để thu


hút khách du lịch là tạo ra các sản phẩm dịch vụ hấp dẫn đáp ứng nhu cầu và sở thích
của du khách, tuy nhiên nếu sản phẩm hấp dẫn nhưng môi trường du lịch kém thì
không tạo được nền tảng vững chắc cho sự phát triển của hoạt động du lịch. Môi
trường du lịch ở đây được hiểu như một khái niệm rộng gồm: môi trường tự nhiên và
văn hoá du lịch. Trong những năm qua cùng với sự phát triển của ngành du lịch nước
nhà, chúng ta đã làm đươc khá nhiều việc, tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực
cũng còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết như nạn ô nhiễm môi trường tự
nhiên tại các điểm du lịch, một số tệ nạn ăn xin, trộm cắp, đeo bám khách mua hàng
. vẫn chưa được giải quyết triệt để. Điều này làm giảm hình ảnh của Việt Nam - một
đất nước tươi đẹp và hiếu khách trong con mắt du khách quốc tế.

1
Chính vì mục đích muốn truyền tải một phần nào đấy về tình hình môi trường
du lịch hiện nay ở Việt Nam. Đề tài xoay quanh vấn đề về bảo vệ môi trường du lịch
hiện nay ở nước ta, đã làm được gì và chưa làm được gì? Từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm hạn chế phần nào những ảnh hưởng xấu đến môi trường dulịch nói riêng và
môi trường kinh tế xã hội nói chung. Do hạn chế về mặt kiến thức và tài liệu có hạn
cho nên đề tài chỉ phản ánh được tình hình môi trường du lịch ở Thành phố Hà Nội
và một số tỉnh phía Bắc hiện nay ở Việt Nam. Thủ đô Hà Nội - thành phố vì hoà bình
đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút ngày càng đông du khách trong nước
và quốc tế. Trong tháng 8 đầu năm 2004, Hà Nội đã đón 600. 000 khách quốc tế,
tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái, doanh thu du lịch đạt 3200 tỷ đồng. Những kết
quả đó phần nào khẳng định vai trò quan trọng của ngành Du lịch Hà Nội trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội hướng tới xây dựng Du lịch Hà Nội thành du lịch văn
hoá, du lịch sạch, chủ trương của lãnh đạo ngành du lịch Hà Nội là tăng cường kiểm
soát việc chấp hành các quy định của nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội và tăng
cường bảo vệ môi trường du lịch, hướng tới phát triển bến vững.











2
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DU LỊCH MÔI TRƯỜNG

1.1. Khái niệm chung về du lịch và môi trường
Như chúng ta đã biết rằng để phát triển du lịch thì điều kiện đầu tiên không thể
thiếu là tài nguyên thiên nhiên. Trong đó thì môi trường tự nhiên như môi trường
nước, không khí, đất đai đồi núi là yếu tố chính nhằm đem đến sự thoả mãn cho du
khách du lịch. Theo luật bảo vệ môi trường của nước ta công bố ngày10/1/1994: Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển
của con người và thiên nhiên. Khi du lịch ngày càng phát triển thì đồng nghĩa với tác
động không nhỏ đến môi trường tự nhiên như suy thoái đât đai, nguồn nước, cảnh
quan tự nhiên sẽ bị phá vỡ, dần dần thì vẻ đẹp tự nhiên của nó sẽ không còn nữa và
thay vào đó là các hệ thống xử lý rác thải mà thôi.
1. 1. 1. Du lịch sinh thái (hay con gọi là du lịch tự nhiên) đây là loại hình du
lịch ngày càng được ưa chuộng và phát triển với tốc độ nhanh trên phạm vi toàn thế
giới. Theo định nghĩa của Hiệp hội Du lịch sinh thái thế giới (Ecotorism society):
"Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên, là nơi bảo tồn
môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương". Cùng với khai thác tài
nguyên du lịch thì con người phải quan tâm đến sự tồn tại và phát triển cuả môi
trường tự nhiên bằng các biện pháp lâu dài. Khi mà khoa học công nghệ ngày càng
phát triển, sự ra đời của các loại máy móc thì mặt trái của vấn đề ô nhiễm môi trường

và suy thoái hệ sinh khí quyển ngày càng cao. Làm cho tài nguyên du lịch ngày bị
cạn kiệt, mất đi thẩm mĩ của nó. . . Loại hình du lịch sinh thái thực chất là loại có quy
mô không lớn, nhưng có tác dụng hoà nhập với môi trường tự nhiên ở điểm du lịch,
khu du lịch và nền văn hoá ở đó. Chính loại hình du lịch nay Tổ chức Du lịch thế
giới đã khẳng định đối với các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của
du khách cùng người dân ổ vùng có du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng vv. . . đồng
thời chú trọng việc tôn tạo nhằm bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch để có điều
kiện phát triển hoạt động của du lịch trong tương lai.

3
Loại hình du lịch sinh thái có nhiệm vụ: bảo tồn tài nguyên của môi trường tự
nhiên; bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên mà họ
đang chiêm ngưỡng ;thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương
trong việc quản lý bảo vệ và phat triển du lịch đang triển khai thực hiện trong điểm
du lịch, khu du lịch vv. . . Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói lên loại hinh du lịch
sinh thái vừa bảo đảm sự hài lòng đối vơí du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp
dẫn đối với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du
lịch. Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động
du lich và cũng là cơ hội tăng thu nhập từ hoạt động du lịch đối với các nhóm dân cư
trong cộng đồng địa phương, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu
nhập từ du lịch. Cho đến nay vẫn chưa có sự xác định hoà hảo về loại hình du lịch
sinh thái. Loại hình du lịch này quả vẫn còn mới mẻ, mặc dù những năm 1997-1998
Tổ chức Du lịch thế giới và Liên Hợp Quốc đã nêu một số quan điểm chuyển mạnh
sang loại hình du lịch sinh thái phù hợp với điều kiện mới của sự phát triển du lịch.
Nói chung du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào những hình thức truyền thống
sẵn có, nhưng có sự hoà nhập vào môi trường tự nhiên và nền văn hoá bản địa, du
khách có thêm những nhận thức về đặc điểm của môi trường tự nhiên, về nhưng nét
đặc thù vốn có văn hoá cổ điển, vùng, khu du lịch và có phần trách nhiệm tự giác để
không xảy ra những tổn thất, xâm hại đối với môi trường tự nhiên và nền văn hoá sở
tại.

1. 1. 2. Phát triển bền vững trong du lịch.
Theo Hội đồng Thế giới về Môi trường và phát triển thì "Phát triển bền vững là
sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ
tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ". Sự phát triển của một quốc gia phải
được đảm bảo một cách thống nhất và đồng thời trên 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi
trường. Bền vững về kinh tế thể hiện một cách khái quát ở sự ổn định và không
ngừng gia tăng sức sản xuất của quốc gia, thông thường được hiển thị bằng chỉ tiêu
tổng sản phẩm quốc gia trên đầu người (GDP/người). Bền vững ở xã hội thể hiện ở
sự phân chia thu nhập và phúc lợi xã hội, thông thường đươc hiển thị bằng tính công
bằng trong phân bố các tầng lớp giàu nghèo trong xã hội. Bền vững về môi trường

4
thể hiện ổ sự sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và điều kiện môi
trường xã hội, phục vụ nhu cầu các thế hệ hiện tại mà vẫn để lại cho các thế hệ tương
lai nhưng tài nguyên và điều kiên môi trường cần thiết cho sự phát triển của họ.
Ngày nay song song với việc phát triển du lịch là đi đôi với việc tàn phá môi trường
tự nhiên xung quanh. Những việc phá hoại môi trường này chỉ đem lại cho quốc gia
và doanh nghiệp một chút ít lợi ích trước mắt, còn về lâu dài đây chính là mối nguy
hại đe doạ đến sự sống còn của môi trường, từ năm 1990 ý nghĩa của việc phát triển
du lịch môi trường, một xu thế phát triển lâu dài đã được biết tới. Cho nên chủ
trương của Tổng cục du lịch Việt Nam hiên nay khuyến khích các doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành tập trung vào phát triển du lịch bền vững hay còn gọi "du lịch sinh
thái ", " du lịch xanh". Ở đây hàm hai ý nghĩa, một là khái niệm về tính" liên tục",
hai là khái niệm về tính" bảo tồn ". Để làm được điều đó thì phải có chiến lược lâu
dài về việc bảo vệ môi trường xã hội nói chung và môi trường du lịch nói riêng.
Nhưng trên thực tế cho thấy, phát triển bền vững đòi hỏi phải bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên cho sản xuất lương thực, chất đốt trong khi vẫn mở rộng sản xuất để đáp ứng
nhu cầu của số dân tăng nhanh, hay ngày càng nhiều công trình kiến trúc mọc lên
ngay khu bảo tồn thiên nhiên thì thật là mâu thuẫn. Khi mà diện tích đất hoang dã,
đất không thích hợp cho con người sử dụng tiếp tục tăng, thu hẹp địa bàn cư trú của

các loài hoang dã. Các rừng nhiệt đới, hệ sinh thái, rạng san hô, rừng ngập mặn ven
biển, các bãi biển và nhiều địa bàn cư trú duy nhất khác đang bị phá huỷ dẫn đến
nguy cơ diệt chủng của một số loài.
Tóm lại, phát triển du lịch môi trường bao gồm các yếu tố như sau: khai thác
và phát triển tài nguyên, bảo tồn sinh thái, khống chế sự thay đổi của môi trường sinh
thái đồng thời bảo vệ duy trì cân bằng môi trường tự nhiên, đồng thời khôi phục
những nguồn tài nguyên đã bị huỷ hoại. Tức khi có mục tiêu phát triển một khu du
lịch nào đó, chúng ta phải xây dựng kế hoạch phát triển dựa trên những đặc trưng thế
mạnh của khu vực đó, đồng thời phải có quyết định đúng đẳn trong việc có ứng dụng
những yếu tố trên.

5
1. 2. Các tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên và môi trường.
Tác động của hoạt động du lịch đến môi trường sẽ có thể dẫn đến những hậu
quả làm thay đổi đặc điểm sử dụng tài nguyên, hay đặc tính của môi trường. Đầu tiên
là tác động đến tài nguyên thiên nhiên; phát triển du lịch và các hoạt động có liên
quan góp phần làm cho các tài nguyên thiên nhiên bị xuống cấp về mặt môi trường.
Đó là hậu quả của việc sử dụng đất đai, xây dựng các cơ sở dịch vụ du lịch và các
hoạt động liên quan đến việc vận hành và bảo dưỡng các công trình du lịch cần thiết
để duy trì các hoạt động giải trí cho du khách. Tác động về môi trưòng về hoạt động
du lịch đối với tài nguyên thiên nhiên được thể hiện một cách rõ nét nhất là những bộ
phân: tài nguyên nước, tài nguyên không khí, tài nguyên đất, tài nguyên sinh học.
Tác động đến tài nguyên nước. Việc phát triển cơ sở vật chất du lịch chủ yếu tập
trung vào xây dựng các công trình dịch vụ phục vụ nhu câù của du khách. Có thể
phân loại các tác động về môi trườngcủa hoạt động này đối với tài nguyên nước ra
làm: tác động trước mắt và tác động lâu dài. Tác động trước mắt được thể hiện ngay
trong giai đoạn xây dựng, còn tác động lâu dài thường là do việc vận hành và bảo
dưỡng các công trình du lịch. Những tác động trước mắt bao gồm: việc thải bừa bãi
các vật liệu xây dựng, đất đá và các vật liệu nạo vét, đặc biệt là những nơi chặt phá
rừng ngập mặn, làm cho chất lượng nước giảm đi rât nhiều. Việc giải phóng mặt

bằng và san ủi đất để xây dựng các công trình và làm đường có thể sẽ gây ra xói mòn
và sụt lở đất, ảnh hưởng trực tếp đến chất lượng nước mặt. Các hoạt động trong quá
trình xây dựng sẽ làm ô nhiễm nguồn nớc, do việc vứt rác và đổ rác bừa bãi vào các
nguồn nước, cũng như thái một lượng xăng dầu nhất định trong quá trình vận hành
các thiết bị xây dựng. Một số tác động lâu dài bao gồm, đất bị sụt lở hoặc rác rưởi
trôi dạt sẽ làm tăng thêm lượng bùn và các chất cặn, vì thế mà chất lượng nguồn
nước kém đi. Một hậu quả đáng kể là xói mòn, nhiễm bẩn bởi nước thải, ô nhiễm
nước mặt bởi rác rưởi và các thứ khác. Nước thải chưa được xử lý tốt vì không có
hoặc không đủ thiết bị xử lý, hoặc thiết bị làm việc không đảm bảo chất lượng, do đó
tác động lâu dài đến chất lượng nước ngầm cũng như nước mặt. Hoạt động của du
khách cũng là nguyên ngân gây nên ô nhiễm nguồn nước như vứt rác bừa bãi ( khi
qua phà ) đổ các chất lỏng. . .

6
Thứ hai là tác động đến tài nguyên không khí. Bụi và các chất gây ô nhiễm
không khí xuất hiện chủ yếu là do hoạt động giao thông, do sản xuất và sử dụng năng
lượng. Tăng cường sử dụng giao thông cơ giới là nguyên nhân đáng kể gây nên bụi
bặm và ô nhiễm không khí. Trạng thái ồn ào phát sinh do việc tăng cường sử dụng
các phương tiện ồn ào như thuyền, phà gắn máy, xe máy. . . cũng như hoạt động của
du khách tại các điểm dịch vụ du lịch như ở các sàn nhảy. . . tạo nên hậu quả trước
mắt và lâu dài. Tiếp theo phải kể đến đó là tác động đến tài nguyên đất, khi một số
khu vực tự nhiên có giá trị như bãi tắm, cánh rừng xanh trong nhiều trường hợp bị
ngăn lại không cho dân địa phương vào vì chúng trở thành tài sẳn riêng của khách
sạn hoặc tư nhân kinh doanh ngành du lịch. Phát triển du lịch kéo theo việc xây dựng
kết cấu hạ tầng khách sạn và các công trình dịch vụ du lịch. Điều này tất yếu dẫn đến
việc xâm lấn những diện tích đất trước đây trồng trọt và chăn nuôi. Đây là bước
chuyển đổi dạng sử dụng đất với hiệu quả sử dụng cao hơn, nhưng lại làm giảm đi
quỹ đất nông nghiệp. Tác động đến tài nguyên sinh vật như : ô nhiễm môi trường
sống, cùng với việc mất đi cảnh quan tự nhiên, những khu đất trồng trọt và chăn nuôi
là nguyên nhân làm cho một số loài thực vật và động vật dần dần bị mất nơi cư trú.

Một số hoạt động thái quá của du khách như chặt cây, bể cành, săn bắn chim thú tại
những khu rừng tự nhiên cũng là nguyên nhân làm giảm sút cả số lượng và chất
lượng sinh vật trong phạm vi khu du lịch. Trong môi trường bảo tồn dã thú, việc vứt
rác bừa bãi gây tác động trực tiếp đến cuộc sống trước mắt cũng như lâu dài của các
loaì động vật; nhiều khi còn ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân viên phục vụ cũng
như du khách đến khu du lịch bởi các dịch bệnh phát sinh từ các chất thải không
được xử lý. Hoạt động của du khách có tác động lớn đến các hệ sinh thái. Các hoạt
động du lịch dưới nước như nhặt sò. ốc, khai thác san hô làm đồ lưu niệm, đi trên bãi
đá ngầm, đứng trên bãi san hô và thả neo tại những bãi san hô, nơi sinh sống của các
loại sinh vật dưới nước cũng sễ bị huỷ hoại. Các khu rừng nguyên sinh đặc biệt dễ bị
tổn thương khi có nhiều du khách. Những hoạt động như sự đi lại của xe, giẫm đạp
lên cỏ, hái hoa quả bừa bãi, c hặt cây laeo núi ồ ạt vv. . . làm mất dần nhiều loại động
thực vật. Ở các khu bảo tồn thú hoang dã, hoạt động của các đoàn xe và khách du
lich cũng có ảnh hưởng xấu đến môi trường sống làm cho sự yên tĩnh bị mất đi, các

7
sinh vật phải thay đổi tập tính, trở nên sợ sệt, thậm chí nhiều con thú bị chết vì tai
nạn do con người gây ra.
Mặt khác du lịch cũng là yếu tố không nhỏ tác động đến cộng đồng dân cư sở
tại. Bởi vì du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh
do sự tác động qua lại giữa khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở
tại và cộng đồng dân cư địa phương và thu hút kháhc du lịch. Các chủ thể này tác
động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ với các hoạt động du lịch mà du khách là
trung tâm. Đối với công đồng dân cư địa phương, du lịch là một cơ hội để tìm việc
làm, tạo thu nhập; đồng thời họ cũng là những nhân tố hấp dẫn khách du lịch bởi
lòng hiếu khách và phong tục tập quán, bản sắc văn hoá. Mặt khác, cộng đồng dân cư
nơi khác đến du lich cũng chịu tác đông nhiều chiều của hoạt động du lịch. Cộng
đồng được hiểu là một nhóm dân cư cùng sinh sống trên một lãnh thổ qua nhiều thế
hệ và có những đặc điểm chung về sinh hoạt và văn hoá truyền thống, sự dụng các
nguồn tài nguyên, môi trường. Cộng đồng là nền tảng của phát triển xã hội, cuôc

sống của cộng đồng dựa trên viêc khai thác tài nguyên nơi mình sinh sống cùng với
việc phát triển các phong tục, tập quán riêng mang dậm bản sắc của mỗi cộng đồng.
Việc khai thác càng tăng trong sự phát triển chung, vì vậy tác động và ảnh hưởng của
nó ở các mức độ khác nhau đên cuộc sống cộng đồng dân cư cũng ngày một gia tăng.
Tác động của du lịch lên cộng đồng có cả mặt tích cực và tiêu cực. Trong
bài viết này nhấn mạnh đến tác động không thuận. Trong một số các dự án
phát triển du lịch, người dân địa phương bị buôc phải rời khỏi nơi cư trú và rời bỏ
các ngành nghề truyền thống gắn bó với họ qua nhiều thế hệ. Cộng đồng dân cư
địa phương sẽ không được chia sẻ hoặc chia sẻ không thoả đáng lợi nhuận từ việc
phát triển du lịch
Nếu như các nhà kinh doanh không tuân thủ theo nguyên tắc phát triển du
lịch bền vững. Những mâu thẫn xã hội sẽ được nay sinh giữa các thành viên của cộng
đồng do có sụ tranh chấp các lợi thế để có được nguồn thu tốt hơn từ du lịch. Điều
này sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ gắn bó đặc trưng cho cuộc sống truyền thống của
cộng đồng. Bên cạnh đó, các lối sống mới được khách du nhập sẽ có tác động nhiều
mặt đến cộng đồng nhất là giới trẻ. Các xung đột mới có thể nảy sinh và gây ra chia

8
rẽ cộng đồng. Truyền thống văn hoá của địa phương có thể sẽ bị thương mại hoá để
đáp ứng nhu cầu của du khách. Đã có người cảnh báo những hiệu ứng như vậy và gọi
là sự xâm lăng văn hoá, thông qua hoạt động du khách không được quản lý tốt.
Ngoài ra, chất lượng cuộc sống cộng đồng cũng có thể bị ảnh hưởng do giá cả sinh
hoạt tăng vì cầu tăng vượt khả năng cung.
Những tác động không thuận lợi nói trên sẽ là những nguyên nhân gây ra xung
đột du lịch và kết quả là quá trình phát triển du lịch không bền vững và sẽ không đem
lại hiệu quả kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường như mong muốn. Ngay cả khi
không xảy ra xung đột giữa cộng đồng và phát triển du lịch nhưng nếu thiếu kiểm
soát và không có sự tham gia tích cực của cộng đồng thì sự suy thoái môi trường tự
nhiên và các thay đổi giá trị văn hoá sẽ làm mất dần tính hấp dẫn của các sản phẩm
du lịch. Để loại trừ được những tác động ngược chiều của sự phat triển du lịch đối

với cộng đồng dân cư và ngược lại, rất cần phát triển du lịch bền vững. Mục tiêu của
phát triển du lịch bền vững là đem lại lợi ích cho cộng đồng và phát triển du lịch bền
vững chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cộng đồng. Để phát triển du
lịch bền vững cần có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên để thoả mãn các nhu
cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người trong khi vẫn duy trì được sự phát
triển lâu dài cho thế hệ mai sau.
Nhưng chung quy thi khi nói đến con người và tổng thể mối quan hệ giữa nó
và con người thì chúng ta phải quan tâm đến cả hai khía cạnh, tích cực và tiêu cực
mà các yếu tố đem lại. Sự sống của con người chỉ có thể duy trì khi sống trong môi
trường không khí trong lành, có cây xanh và tính cộng sinh giữa các loài mà thôi.
Cũng như du lịch và các yếu tố liên quan đến nó như khách du lịch, Cộng đồng dân
cư, nhà cung cấp, chính quyền nhân dân sở tại. Tất cả đều nhằm mục đích phát triển
ngành du lịch, ngành được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói.
1. 3 Nhận định chung về phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi trường.
Theo tổ chức du lich thế giới (WTO) thì : " phát triển du lịch bền vững là việc
phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu về hiện tại của du khách và
người dân bản địa, trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài
nguyên cho phát triển du lịch trong tương lai ". Phát triển du lịch bền vững là đáp

9
ứng đầy đủ nhất, tiện nghi nhất các nhu cầu của khách du lịch, tạo sức hút du khách
đến các vùng, điểm du lịch ngày nay đồng thời bảo vệ và nâng cao chất lượng cho
tương lai.
Sự phát triển với quy mô lớn và tốc độ nhanh, mạnh của nganh Du lịch Việt
Nam trong những năm gần đây (đặc biệt là cuối những năm của thế kỷ 20) đã và
đang gây ra những bất cập, những hạn chế về môi trường. Theo quan điểm chung,
môi trường du lịch được hiểu là các điều kiện, các điều kiện cac yếu tố tự nhiên,
kinh tế xã hội va nhân văn của từng vùng lãnh thổ cụ thể, mà trong đó các hoạt động
du lịch tồn tại và phát triển. Rõ ràng sự phát triển ngành Du lịch luôn có mối liên hệ
mật thiết, chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của từng vùng và của cả

nước, liên quan đến các công việc cụ thể, các quá trình khai thác tài nguyên môi
trường. Trên thực tế ở nước ta, tại rất nhiều vùng, điểm du lịch truyền thống, nổi
tiếng và có nhiều tiềm năng đã và đang phải chịu những áp lực khá lớn từ phía các
khía cạnh môi trường. Đặc biệt là những khu vực đó xuất hiện ngày càng mạnh các
hiện tượng, các quá trình ô nhiễm, sự xuống cấp nhanh chóng của điều kiện môi
trường kinh tế, xã hội và nhân văn, sự suy giảm tới mức báo động của nhiều dạng tài
nguyên, các yếu tố môi trường tự nhiên, sinh thái. . . Đứng trước một thực tế như
vậy, để có thể phát triển ngành kinh tế này thì những vần đề về môi trường cũng cần
phải được đạt ra và giải quyết một cách nghiêm túc, đầy đủ sao cho vừa phát triển ,
vừa khai thác với hiểu quả cao nhất về du lịch nhưng lại phải đảm bảo sự phát triển
lâu dài .
Trên cơ sở phương pháp tiếp cận nghiên cứu tổng hợp, áp dụng các tiêu chí,
các nguyên tắc và những giải pháp phát triển bền vững kinh tế xã hội chung, môi
trường du lịch nói riêng. Môi trường du lịch có hâp dẫn khách du lịch hay không
trước tiên phải kể đến các yếu tố tài nguyên du lịch. Khách du lịch đến mục đích của
họ là tham quan, để thoả mãn" con mắt" của họ. Khi mà đời sống của con người
ngày càng tăng thì nhu cầu đi du lịch của ngưòi ta càng cao. Quanh năm suốt tháng
phải tiếp xúc với bụi bẩn, ồn ào của chốn đô thị, những ngày nghỉ con người ta
muón thoát khỏi cuộc sống bình thường đó, và họ đi du lịch. Chỉ đến những nơi có
thiên nhiên đẹp, trong lành. và yên tĩnh sẽ thoả mãn được nhu cầu của họ. Chính vì

10
điều đó, môi trường rất quan trọng trong kinh doanh du lịch. Sự suy giảm về trữ
lượng và chất lượng của các tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa cơ bản đối với cuộc
sống của con người như: đất đai, nước, rừng, thuỷ sản, khoáng sản và các dạng tài
nguyên năng lượng. Sự suy thoái này trong thập kỷ 21 có khả năng dẫn tới tình trạng
thiếu thốn nghiêm trọng về lương thực, hay về các nhu câu cần thiết của con người
nói chung. Ô nhiễm môi trường sống của con người với tốc độ nhanh và phạm vi lớn
hơn trước. Không khí, nước, đất đai, cac đô thị, khu công nghiệp, vùng ven biển, đại
dương ngày càng bị ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến không chỉ ngành du lịch, mà còn

nguy hai hơn đó là sức khoẻ, đời sống của con người cũng như sự suy tồn và phát
triển của các sinh vật khác trên trái đất. Để phần nào khắc phục được những bất cập
trên thì cần đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa phát triênr du lịch với các kế hoạch, các
phương án quy hoạch phát triển các ngành kinh tế khác theo một nội dung thống nhất
trong phat triển kinh tế xã hội chung của từng vùng, nghiên cứu và cho toàn lãnh thổ
của đất nước. Trong nguyên tắc này cần chú ý tới việc xem xét tỷ trọng của ngành du
lịch, đánh giá thực trạng cũng như dự kiến khả năng phát triển trên quan điểm kiểm
soát, khống chế chung, xuất phát từ khía cạnh quản lý khai thác hợp lý nguồn tài
nguyên và môi trường du lịch.
Du lịch và môi trường có mối quan hệ rất gắn bó với nhau, cũng như mối
quan hệ giữa con người và môi trường. Môi trường cung cấp nơi cư trú và các điều
kiện cho cuộc sống con người và muôn loài sinh vật; môi trường cũng là nơi tiếp
nhận, lưu trữ và xử lý những gì mà con người và các sinh vật khác thải ra. Chừng
nào còn giữ được sự cân bằng giữa các quá trình đó thì sự sống trong thiên nhiên và
cuộc soóng của con người vẫn có thể tiếp tục duy trì bình thường. Nhưng nếu sự
cân bằng đó bị phá vỡ mà chủ yếu do con người gây ra, thì việc duy trì sự sống và
cuộc sống bị đe doạ. Hoạt động du lịch có tác động đến môi trường về nhiều mặt.
Do nhu cầu phát triển du lịch, nhiều diên tích đất đai bị khai phá để xây dựng cơ sở
hạ tầng, như làm đường giao thông, khách sạn, các công trình thể thao, các khu vui
chơi giải trí. . . Điều đó gây phá hoại hoặc làm tổn hại tới cảnh quan thiên nhiên,
các hệ sinh thái. Các sân golf có thể gây nên tình trạng suy thái đất, ô nhiễm nguồn
nước, thậm chí gây nên sự cạnh tranh trong việc sử dụng nước cho sinh hoạt và sản

11
xuất, nhất là ổ những nơi hiếm nước. Hoạt động du lịch luôn ngắn liền với việc khai
thác các tiềm năng tài nguyên môi trường tự nhiên như cảnh đẹp hùng vĩ của núi
sông, biển. . và các giá trị văn hoá nhân văn. Trong nhiều trường hợp, hoạt động du
lịch tạo nên những môi trường nhân tạo như công viên vui chơi giải trí, nhà bảo tàng,
làng văn hoá. . . trên cơ sở của một hoạc tập hợp các đạc tính của môi truờng tự
nhiên như một hang động, một quả đồi, một khúc sông, một khu rừng. . . hay một

đền thờ, một quần thể di tích. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mà sự tồn tại của nó
gắn liền với môi trường, nên môi trường du lịch có tác động qua lại với tất cả các yếu
tố của môi trường chung. Sự suy giảm của môi trường nói chung ở một khu vực
đồng nghĩa với sự đi xuống của hoạt động du lịch cũng như chất lượng của môi
trường du lịch ở khu vực đó.
Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước đặc biệt là các
chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn nhà hàng, các hoạt động vận tải
thuỷ và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta , tình trạng rác thải bừa bãi tại các
địa điểm du lịch, vui chơi giải trí còn phổ biến, điều đó không những ảnh hưởng tới
vệ sinh công cộng và môi trường, mà còn gây cảm giác khó chịu cho du khách. Khi
hoạt động du lịch nhộn nhịp lên, thì khi đó cũng là điều đe doạ tới chất lượng không
khí. Trước hết là ô nhiễm không khí do giao thông vận tải. Tổ chức du lịch thế giới
đã thống kê có khoản 37%-45% du khách tới bằng đường bộ và khoảng 40%-45% du
khách tới bằng máy bay. Không giống như đối với ô tô, ô nhiễm từ máy bay ( trừ
tiếng ồn ) ít khi được nhân thấy trực tiếp. Thế nhưng riêng trong năm 1990, ngành
hàng không đã tiêu thụ hết khoảng 176 triệu tấn xăng máy bay, từ đó thải ra 550
triệu tấn khí nhà kính CO2 và 3, 5 triệu tấn ôxy nitơ, gây mưa axit và ô nhiễm quang
- hoá.
Không chỉ có không khí mà còn nhiều vấn đề khác như ô nhiễm tiếng ồn,
lượng nước thải mà sự phát triển du lịch còn tạo ra mối đe doạ tới các hệ sinh thái,
như phá những khu vực rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mát hoạc
chia cắt nơi cư trú các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển để
sản xuất các sản phẩm phục vụ cho khách du lịch như tiêu bản các thú rừng, hoa lan
rừng, tắc kè, đồi mồi, san hô. . . tại nhiều điểm du lịch của nước ta. Hàng năm tren

12
thế giới có khoảng 200. 000 ha rừng bị cháy, trên 500 loài thực vật Địa trung hải,
cùng một số động vật biển quý hiếm đang bị đe doạ tuyệt chủng. Hiện có rất nhiều
chương trình, dự án của các nước và tổ chức quốc tế đangg được tiến hành để cứu sự
đa dạng sinh học tại nơi đây. Tuy du lịch mang lại lợi ích kinh tế _ xã hội to lớn

nhưng các tác động tiêu cực của du lịch đối với môi trường càng ngày càng trở nên
rõ rệt hơn. Các quốc gia đều nhận thấy mối nguy hại này và đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật để ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêuu cực của du lịch đối với môi
trường, cả môi trường tự nhiên, nhân tạo và các đối tượng ý nghĩa về lịch sử, văn
hoá, khảo cổ học. Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên
quan đến bảo vệ môii trường, bản sắc văn hoá và thần phong mĩ tục trong hoạt động
du lịch. Ngoài Luật bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ và phat triển rừng, Luật tài
nguyên nước có các quy định chung, trong chương 2 của pháp lệnh du lịch có 6 điều
về bảo vệ, tồn tạo, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch để phát triển du
lịch bền vững, có quy định nghiêm cấm mọi hoạt động du lịch làm ảnh hưởng xấu tới
môi trường. Ngoài ra, còn có mọt số nghị định và chỉ thị của chính phủ về việc bảo
đảm trật tự trị an, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm tại các cơ sở lưu trú, các địa
điểm du lịch, mà còn nhằm bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch . Vấn đề cấp
bách hiện nay là phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, vì thực tế
đây là một trong các khâu yếu nhất, đặc biệt thể hiện rõ tại các cơ sở và địa điểm du
lịch.


13
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ MÔI TRƯỜNG Ở HÀ NỘI

2. 1. Thực trạng phát triển du lịch tại Hà Nội hiện nay.
Hà Nội, với vai trò là Thủ đô-trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học-
công nghệ và giao lưu của cả nước, thành phố hoà bình của thế giới -với tài nguyên
tự nhiên và nhân văn phong phú, đa dạng, với bề dày lịch sử gần 1000 năm, đã trở
thành một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài
nước.
Hà Nội nằm ở trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, ở vị trí trong khoản từ 20 25'
đến 21. 23' vĩ độ Bắc, 105. độ 15' đến 106 độ 03' kinh đông, tiếp giáp với các tỉnh :

Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hung Yên ở phía Đông Nam, Hà Tây và Vĩnh
Phúc ở phía tây. Hà Nội có khoảng cách dài nhất từ phía Bắc xuống phía Nam là trên
50 km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim
cao 462m(huyện Sóc Sơn);nơi thầp nhất thuộc phường Gia Thuỷ (quận Long
Biên)12m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bơ sông Hồng, giữa vùng đồng
bằng Băc Bộ trù phú và lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi là một
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Khí hậu Hà Nội cho kiểu khí hậu Băc Bộ với đặc điẻm là khí hậu nhiệt đới gió mùa
ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lanh và mưa ít. nằm trong vùng nhiẹt đói,
Hà Nội tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trơi rất dồi daò và cónhiệt độ cao, nhiệt độ
không khí trung bình hàng năm là 23, 6độ c do chịu ảnh hưỏng của biển và lượng
mưa khá lớn. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm 79%. lượng mưa trung bình
hàng năm và mỗi năm có khoảng 114 ngày mưa. Đặc điểm khí hậu Hà Nội rõ nét
nhất là sự thay đổi và khác biệt nóng, lạnh. Từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa nóng và
mưa còn những tháng còn lại thời tiết khô ráo. Giữa hai mùa lại có tiếp tháng 4 và
tháng 10 cho nên có thể nói rằng Hà Nội có đủ 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Bốn
mùa như vậy đã làm cho khí hậu Hà nội thêm phong phú, đa dạng, mùa nào cũng
đẹp, cũng hay. Mùa tham quan Hà Nội là mùa thu, rất thích hợp với du khách ở
những vùng hàn đới. Hà Nội có dãy Sóc Sơn(núi Sóc)là đợt kéo dài của khối Tam

14
Đảo, với ngọn núi cao nhất là 308m. Núi này khác nhau như Mã, núi Đền. Núi Sóc
toạ lạc tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn. Ngoài núi Sóc, Hà Nội còn có một đột khởi
lên giữa đất bằng như núi Sái(xã Thuỷ Lâm huyện Đông Anh), núi Phục Tương ở
trung tâm Hà Nội, thuộc vùng Bách Thảo có núi Nùng, còn gọi là Long Đỗ hay núi
Khán, tạo nên dáng Thăng Long xưa. Về sông ngòi, Hà Nội nằm ở trung tâm của tam
giác chảy sông Hồng. Sông Hồng dài 1183km từ Vân Nam xuống. Đoạn sông Hồng
qua Hà Nội dài 40km từ huyện Đông Anh đến huyện Thanh Trì. Sông Đuống là sông
thứ 2 của Hà Nội, tách ra khỏi sông Hồng từ ngã ba Xuân Canh( xã Xuân Canh,
Đông Anh)rồi qua xã Yên Thường cắt quốc lộ 1A ở Cầu Đuống, qua đất Gia Lâm 17

km rồi sang đất Bắc Ninh. Ngoài hai con sông lớn đó, đất Hà Nội còn có nhiều dòng
chảy khác, tuy nhỏ và ngắn song gắn chặt với lịch sử Hà Nội. Đó là sông Tô Lịch,
gấn với sự hình thành Hà Nội từ hơn 1. 500năm trước. Dòng chảy cũ liền ở đàu phố
chợ Gạo đã bị lấp từ đầu thế kỷ 20, nay chỉ con đoạn chảy giữa phố Thuỵ Khuê-
Hoàng Hoa Thám chợ Bưỏi rồi chảy ngoặt về phía nam Cầu Giấy, Ngã Tư Sở xuôi
về Cầu Bươu, hợp với sông Nhuệ, sông Nghĩa Trụ, sông Cheo Reo, Ngũ Huyện
Giang, sông Kim Ngưu. Đầm hồ ở Hà Nội cũng nhiều, lớn như Hồ Tây, nhỏ như Hồ
Hoàn Kiếm, hồ Thủ Lệ, hồ Bảy Mẫu, đầm Vân Trì. . . chính những lợi thế dư địa chí
đã tạo cho Hà Nội có một khả năng giao lưu trong nước và bạn bè thế giới. Hà Nội
xưa và nay xứng đáng là trung tâm của cả nước về mọi mặt. Đặc biệt là thích hợp
cho phát triển ngành du lịch, Hà Nôi có trên 300 vườn hoa, công viên và thảm cỏ,
hàng rào cây xanh với tượng đài, các bể phun nước làm tăng thêm vể đẹp Thủ đô.
Nói đến Hà Nội không thể nói đến vẻ đẹp của những sông hồ gắn với huyền thoại
thiêng liêng giữ nước của dân tộc Viêt Nam. Ngoài ra Hà Nội là tụ điểm của các trục
giao thông lớn của miền Bắc và cả nước, là nơi hội tụ của 6 tuyến đường bộ, cách
cảng Hải Phòng hơn 100km, cảng Cái Lân trong tương lai 180 hm, có Sân bay quốc
tế và chính nhờ lợi thế của các trục giao thông lớn, mà Hà Nội vừa là thị trường nhận
khách vừa là thị trường gián tiếp, thị trường gửi khách trung gian. . . Khách quốc tế
có thể từ sân bay Nội Bài dừng chân ở thủ đô để thuân tiện cho các tuyến đi du lịch
trong cả nước.

15
Hà Nội là nơi tập trung nhiều tri thức nhân tài, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật cao hơn hẳn các địa phương khác. Có thể nói đây là một nguồn tài nguyên quý
giá, một lợi thế nhất trong cả nước về nhu cầu hợp tác khoa học với các nước và các
địa phương khác trong cả nước. Hàng năm Hà Nội tổ chức một số lượng lớn hội
thảo, hội nghị với các tổ chức quốc tế song phương và đa phương lớn khác. Từ Hà
Nội du khách có thể tham gia các tour như Hà Nôi- Hà Tây, Hà Nội -Vĩnh Phú, Hà
Nội -Hải Phòng, Hà Nội -Quảng Ninh…
Có được thuận lợi như vậy, Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Hà Nội nói

riêng đã và đang làm được gì. Nhìn lại giai đoạn trước những năm 90 của thế kỷ
trước, du lịch chưa được coi trọng đúng mức, Việt Nam chưa được biết đến như một
điểm đến du lịch. Khách nước ngoài đến Hà Nội chủ yếu là các chuyên gia cố vấn
các nhà đầu tư, các nhà ngoại giao với tổng số khoảng 20. 000khách/năm. Cơ sở vật
chất của ngành Du lịch Hà Nội còn nghèo nàn với chưa đầy 50 khách sạn, quy mô
hoạt động nhỏ lẻ khoảng 10 doanh nghiệp làm lữ hành và hầu như chưa xuất hiện
hoạt động lữ hành mang tính chất du lịch thật sự.
Năm 1900 được lấy là năm Du lịch Việt Namvà từ đó hoạt động kinh doanh du
lịch bắt đầu mởi sắc. Lượng khách quốc tế vào Hà Nội năm 1994 đạt đến 300. 000
lượt tăng trên 5 lần so với năm 1990. Thị trường khách đã có sự tham gia của Pháp,
Nhật Bản, Đoài Loan. . . Ngành Du lịch Hà Nội đã có cơ hội tạo chuyển biến mới
trên đà phát triển. Một số doanh nghiệp lớn được thành lập, một số doanh nghiệp của
trung ương được tập trung về Hà Nội. Trước nhu cầu thị trường về khách sạn đạt
tiêu chuẩn về quốc tế tăng lên, một loạt các khách sạn liên doanh vốn nước ngoài
được kí kết xây dựng. Thành uỷ, UBND Thành phố cho phép tư nhân đầu tư xây
dựng một hệ thống khách sạn mini với qui mô không lơn về phòng, nhưng chất
lưọng tốt, khá đầy đủ các dịch vụ phục vụ cho chiến lược mở cửa của đất nước. Đáp
ứng yêu cầu của quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động du lịch trên con đường
đổi mới, Sở Du lịch Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 1216/QĐ-UB ngày
21/6/1994 của UBND TP. Hà Nội.
Giai đoạn từ năm 2000trở lại đây là thời cơ thuận lợi cho các ngành Du lịch.
kinh tế khu vực được phục hồi mạnh mẽ, thị trường khách du lịch Đông Nam A, Hàn

16
Quốc, Nhật Bản. . . đã khôi phục và phát triển nhanh. Thực hiện chủ trương của
đảng và nhà nước, chính quyền và nhân dân Hà Nội đã nỗ lực xây dựng và hoàng
thiện các cơ sở vật chất phục vụ phát triển Du lịch Thủ Đô. Hàng năm, Hà Nội đã
đầu tư hàng trăm triệu USD để nâng cấp và hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc
hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế; hệ thống giao thông trong thành phố và kết nối tới
các điểm du lịch; xây dựng và cải tạo hệ thống cấp điện, chiếu sáng; hợp tác với Nhật

Bản, Phần lan, Ngân hàng thế giới (WB)xây dựng hệ thống cấp nước, hệ thống thoát
nước. . . Thành phố Hà Nội thu hút được trên 400 dự án liên doanh có vốn đầu tư khá
lớn, riêng vốn đầu tư cho du lịch là 10175 triệu USD. Cùng với việc phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống dịch vụ cũng đã được phát triển cả về số
lượng và chất lượng, nhiều chương trình du lịch mới được ra đời, môi trường du lịch
ngày càng được cải thiện. Đặc biệt, Hà Nội có môi trường an ninh, an toàn tốt, do
vậy du khách có thẻ yên tâm tự do đi tham quan hay mua sắm hàng hoá. Hiện nay,
Hà Nội có trên 500 khách sạn với 10. 000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế và số lượng
khách sạn 5 sao lớn nhất toàn quốc, hàng trăm hãng lữ hành, vận chuyển khách du
lịch với các hướng dẫn viên hiểu biết lịch sử văn hoá, thông thạo các ngôn ngữ
Anh, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc. . . hệ thống nhà hàng không chỉ đơn thuần phục
vụ các món ăn thông thường mà còn giúp du khách được thưởng thức những nét văn
hoá ẩm thực đặc sắc của người Việt Nam.
Minh chứng cho sự thành công của du lịch Hà Nội, thống kê sơ bộ về lượng
khách du lịch như sau : Tổng khách du lịch năm 2000 là 2. 600. 000, năm 2001là 3.
000. 000, năm 2002 là 3. 781. 000, năm 2003 là 3. 880. 000, năm 2004 là 4. 000. 000
(lượt khách). Trong đó khách du lịch quốc tế là : năm 2000 lượng khách 500. 400,
năm 2001 là 700. 000 lượt khách, năm 2002 là 931. 000 lượt khách, năm 2003 là
850. 000, năm 2004 là 930. 000 lượt khách. Với doanh thu ; năm 2001 là 1. 400 tỷ
đồng, năm 2002 là 1. 650 tỷ đồng, năm 2003 là 2. 000 tỷ đồng, năm 2004 là 2. 200 tỷ
đồng. Và đã nộp ngân sách năm 2001 là 230 tỷ đồng, năm 2002 là 270 tỷ đồng, năm
2003 là 275 tỷ đồng, năm 2004 là 290 tỷ đồng. Năm 2003 vừa qua Việt Nam vinh
dự đã dược phục vụ tổ chức SEAGAME 22 và ASEAN paragames 2, hội nghị
thượng đỉnh các thành phố châu á lân lần thứ 3 ( ANMC 21), ASEM 5 và Liên hoan

17
du lịch Hà Nội đã thành công tốt đẹp, tạo thêm mối quan hệ với các nước bạn trên
vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đặc biệt là quảng bá về sản phẩm du lịch
Việt Nam với du khách quốc tế.
Mặt khác, được sự quan tâm của Nhà nước, Chính quyền Thành phố, thông

qua các chủ trương, chính sách đã được phát huy có hiệu lực vai trò quản lý của nhà
nước trong lĩnh vực du lịch, tạo tiền đề cho hoạt động du lịch ngày càng phát triển.
du lịch Hà Nội cũng tích cực thực hiện cải cách quản lý doanh nghiệp như sắp
xếp đổi mới các doanh nghiệp, thay đổi, luân chuyển cán bộ tại các doanh nghiệp, cổ
phần hoá doanh nghiệp, thành lập Tổng Công ty theo mô hình mới.
Với thực tế phân tích trên , chúng ta có thể đánh giá chung về những thành tựu
Du lịch đạt được như sau :Du lịch phát triển theo đúng định hướng:bền vững, giữ gìn
được truyền thống văn hoá lịch sử, môi trường, đảm bảo an ninh trật tự xã hội. Hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật đã được nâng cấp và hoàn thiện, chất lượng dịch vụ
được cải tiến. Về kinh doanh du lịch, nộp ngân sách cho Nhà nước ngày càng cao,
năm sau nhiều hơn năm trước và đều vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao. Lượng khách
đến du lịch Hà Nội ngày càng nhiều, ngày khách lưu trú cũng như ngày khách lữ
hành đều tăng. Đó là kết quả của công tác đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các sản
phẩm du lịch trên địa bàn Hà Nội cùng với công tác tuyên truyền quảng bá sâu rộng
của ngành Du lịch Thử đô.
Ngành Du lịch Hà Nội đã chủ động xây dựng qui hoạch, kế hoạch và phương
hướng phấn đấu đến những năm 2010-2020 sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
Thủ đô.
Trải qua ba giai đoạn phát triển, có thể nói ngành Du lịch Hà Nội đã có vị thế
đặc biệt quan trọng trong phạm vi quốc gia và khu vực, năng lực cạnh tranh cũng
từng bước nâng lên. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch
tăng mạnh, trong đó doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp chiếm số
lượng đông đảo. Các doanh nghiệp du lịch đã phát huy tinh thần tự chủ, năng động,
sáng tạo trong kinh doanh, tạo thêm việc làm cho hàng vạn lao động và tăng nguồn
thu, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nứơc.

18
Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế Du lịch Hà Nội theo hướng CNH-HĐH trong
thời gian tới, chúng ta có một số giải pháp như sau :
Tập trung đầu tư nâng cấp, cải tạo các khu chơi, giải trí, khu du lịch săn có,

đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu mới nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch phong
phú, đa dạng để thu hút du khách đén Hà Nội nhiều hơn, lâu hơn.
Cùng với Tổng cục Du lịch, Ban Chi đạo phát triển Du lịch Hà Nội, Sở Du lịch
Hà Nội phải là cơ quan chủ chốt thực hiện công tác quảng bá cho Du lịch Hà Nội,
góp phần tạo lập quan hệ, khơi nguồn khách. Công tác tuyên truyền quảng bá găn
liền với chương trình kỷ niện 1000 năm Thăng Long-Hà Nội và hoà nhập vứi xu
hướng phát triển du lịch thế giới trong thế kỷ 21.
Con người là yếu tố quyết định đối với chất lượng dịch vụ du lịch. Do vậy, các
doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức các đột đào tạo dài hạn, ngắn hạn nhăm cập
nhật tình hình mới, càng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật cho các
bộ trực tiếp tham gia kinh doanh và cán bộ quản lý của ngành.
2. 2. Vai trò của môi trường trong phát triển du lịch ở Hà Nội.
Như chúng ta đã biết, tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố quan
trọng nhất cấu thành nên sản phẩm du lịch . Hà Nội được mệnh danh là thành phố
vị hoà bình, điểm đến của thiên niên kỷ mới , đã và đang từng bước phát triển
ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đến năm 2010. Đẩy mạnh phát triển
du lịch, tập trung có chọn lọc một số điểm, khu và tuyến du lịch trọng điểm, giàu bản
sắc văn hoá dân tộc, có sức cạnh tranh cao ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng hiện đại.
Hà Nội là trung tâm du lịch lớn của Việt Nam, với tiềm năng về tự nhiên, có
diện tích hơn 900 km2. Phần lớn diện tích Hà Nội và vùng phụ cận là đồng băng với
độ cao trung bình 10 m. Vùng đồi núi Hà Nội có thể tổ chức nhiều loại hình du lịch
như leo núi, săn bắn, du lịch mạo hiểm, nghỉ dưỡng chữa bệnh, nghỉ cuối tuần. . . và
chỉ cách trung tâm thủ đô trên dưới 50km. Hà Nội có khí hậu thích hợp với hoạt
động du lịch, khách du lịch châu Âu, châu Mỹ rất thích đến Hà Nội trong thời gian từ
tháng 4 hàng năm. Hà Nội với đặc biệt với mùa thu vàng đã làm rung động biết bao
hồn thi sĩ. Hà Nội còn được gọi là" thành phố xanh " với các hàng cây bao bọc với

19
các loại cây như là xà cừ, bàng, phượng, hoa sữa. . . trải khắp phố phường, Hà Nội

xanh bốn mùa.
Phát triển các loại hình du lich trên địa bàn Hà Nội như du lich sinh thái, du
lịch thể thao. Đây cũng là thế mạnh của du lịch Hà Nội hiện nay khi mà đất đai ngày
càng khan hiếm thì còn sót lại những khu dành cho du lịch sinh thái ở Hà Nội như
công viên, hay vườn Bách thảo thì quả là hiếm. Nhưng ngược lại Hà Nội cú nhiều
con hồ đẹp được làm nơi vui chơi giải trớ như hồ Tõy, hồ Hoàn Kiếm, hồ Thiền
Quang …Trong đú phải núi đến là hồ Tõy, với cụng viờn nước hồ Tõy, điểm vui
chơi giả trớ lý tưởng cho khỏch du lịch mà đặc biệt là giới trẻ. Vị trớ: Thuộc quận
Tõy Hồ, phớa tõy bắc trung tõm thành phố Hà Nội.
éặc điểm: Hồ Tõy cú diện tớch rộng hơn 500ha với một bề dày lịch sử mấy
nghỡn năm. Đường vũng quanh hồ dài tới 17km. Ngành địa lý lịch sử đó chứng minh
rằng hồ Tõy là một đoạn sụng Hồng cũ cũn rớt lại sau khi sụng đó đổi dũng. . . Cú
thể do sụng hồ biến đổi như vậy mà đó xuất hiện nhiều truyền thuyết về hồ và tờn
gọi của hồ. Vớ như theo truyện "Hồ Tinh" thỡ cú tờn là hồ (hoặc đầm) Xỏc Cỏo, vỡ
truyện kể là cú một con cỏo chớn đuụi ẩn nấp nơi đõy làm hại dõn. Long Quõn mới
dõng nước lờn phỏ hang cỏo, hang sập thành ra hồ. Theo truyện "Khổng lồ đỳc
chuụng" thỡ hồ lại cú tờn là Trõu Vàng. Truyện kể rằng cú ụng khổng lồ cú tài thu
hết đồng đen của phương bắc đem đỳc thành chuụng. Khi thỉnh chuụng, tiếng vang
sang bờn phương bắc. Vỡ đồng đen là mẹ vàng nờn con trõu vàng phương Bắc nghe
tiếng chuụng liền vựng đi tỡm mẹ. Tới đõy nú quần mói đất, khiến sụt thành hồ.
Theo thư tịch thỡ thế kỷ 11, hồ này đi vào lịch sử với tờn là Dõm Đàm (Đầm mự
sương), tới thế kỷ 15 thỡ đó gọi là Tõy Hồ. Hồ cũn cú tờn là Lóng Bạc, trựng với tờn
nơi diễn ra những trận đỏnh ỏc liệt giữa quõn của Hai Bà Trưng và quõn Hỏn ở vựng
Tiờn Sơn tỉnh Bắc Ninh.
Hồ Tõy từ lõu lắm đó là thắng cảnh. Thời Lý - Trần, cỏc vua chỳa lập quanh
hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mỏt, giải trớ, như cung Thỳy Hoa thời Lý, điện
Hàm Nguyờn thời Trần nay là khu chựa Trấn Quốc, cung Từ Hoa thời Lý nay là khu
chựa Kim Liờn, điện Thuỵ Chương thời Lờ nay là khu trường Chu Văn An. . .
Những ngày súng yờn giú lặng, chơi thuyền Hồ Tõy là một thỳ tao nhó. Nếu làm một


20
cuộc đi dạo quanh hồ thỡ đồng thời cũng được thăm khỏ nhiều di tớch và thắng cảnh.
Làng Nghi Tàm, quờ hương nhà thơ "Bà huyện Thanh Quan" với chựa Kim Liờn cú
kiến trỳc độc đỏo; làng Nhật Tõn nguồn hoa đào mỗi độ xuõn về, tương truyền là nơi
Lạc Thị đời Hồng Bàng sinh ra một bọc trứng nở thành bảy con rồng. Rồi làng Xuõn
Tảo với đền Súc thờ Thỏnh Giúng, làng Trớch Sài cú chựa Thiờn Niờn thờ bà tổ
nghề dệt lĩnh, sang làng Kẻ Bưởi cú nghề làm giấy cổ truyền và đền Đồng Cổ nơi
bỏch quan hội thề thời Lý, làng Thụy Khuờ cú chựa Bà Đanh nổi tiếng một thời. . .
Và đặc sắc nhất là đền Quỏn Thỏnh. Lại cũn cả một số cụng trỡnh nhà ở mới xõy
dựng bờn hồ làm quang cảnh thờm đa dạng.
Thứ hai phải kể đến là Hồ Thiền Quang, hồ nằm lọt giữa bốn phố Nguyễn
Du, Trần Bỡnh Trọng, Trần Nhõn Tụng và Quang Trung thuộc quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội.
éặc điểm: Là một trong những "lỏ phổi xanh" của thành phố. Trong bản đồ Hà
Nội năm 1831 thỡ hồ cú cú tờn là Liờn Thuỷ. Thiền Quang (ỏnh sỏng nhà Phật) chỉ
là một làng nằm ở phớa đụng nam hồ tức nay là khu vực đầu phố Nguyễn éỡnh
Chiểu. Ngoài làng này ra, ở quanh hồ cũn cú cỏc làng Liờn Thuỷ ở phớa bắc và tõy,
Quang Hoa ở phớa tõy nam và Phỏp Hoa ở phớa nam. Cũng theo bản đồ ấy thỡ hồ
này khỏ rộng, phớa tõy lan tới phố Yết Kiờu, phớa đụng lấn sang phố Nguyễn Bỉnh
Khiờm, phớa bắc tới phố Trần Quốc Toản, phớa nam thụng sang hồ Bảy Mẫu.
Thứ hai, phải kể đến hồ Gươm hay cũn gọi là hồ Hoàn Kiếm. Sự kết hợp
giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đó tạo thành một tổng thể kiến trỳc Thiờn -
Nhõn hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kớnh, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nờn những
cảm giỏc chan hoà giữa con người và thiờn nhiờn. Đền và hồ đó trở thành những
chứng tớch gợi lại những kỷ niệm xưa về lịch sử dõn tộc, thức tỉnh niềm tự hào, yờu
nước chớnh đỏng, cũng như tõm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường
tồn của dõn tộc.
Đối với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm khụng chỉ là một nơi húng giú, một nơi
dựng để chơi thuyền mà cũn gắn liền với đời sống về nhiều phương diện: đờm giao
thừa, người người nụ nức du xuõn quanh hồ. Xuõn về, hồ là nơi gặp gỡ của thiện

nam tớn nữ đi lễ cỏc đền chựa lõn cận. Cỏc đụi uyờn ương trong ngày cưới tỡm đến

21
bờn hồ Gươm chụp ảnh lưu niệm. Hố đến, những buổi chiều oi bức, hồ là địa điểm
húng mỏt lý tưởng. Ai đó từng một lần ngắm hồ từ trờn cao vào đầu hạ sẽ khụng
khỏi thảng thốt trước bức tranh đầy màu sắc và nờn thơ của những cõy bằng lăng
tớm rạng rỡ xen giữa những phượng chỏy đỏ rực, cơm nguội chớn vàng, những tàng
cõy ngả xuống, vũng tay ụm lấy mặt nước hồ biếc xanh màu ngọc. Mựa thu, hồ Hoàn
Kiếm khụng những chỉ là một thắng cảnh đẹp với những rặng liễu rủ bờn bờ, nắng
vàng lấp lỏnh trờn mặt nước mà cũn là nơi nhõn dõn thủ đụ lui tới để xem phỏo hoa
nhõn những ngày hội lớn của dõn tộc như 19/8 và 2/9.
2. 3 Tác động của du lịch tới môi trương trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
Hà Nội ngày nay với khoảng hơn 2 triệu dân cư, được tập trung tù khăp mọi
miền đất nước về đây làm ăn sinh sống. Cho nên Hà Nội ngày càng nhiều phương
tiện giao thông, mày móc và các công trình kiến trúc mọc lên để thoả mãn nhu cầu
hiện đại hoá của xã hội. Diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, sông ngòi thì
bị ô nhiễm, hàng ngày với lượng chất thải sinh hoạt thải ra, nguy cơ ô nhiễm nặng.
Vấn đề nổi côm hiện nay Hà Nội đó là tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở các sông, hồ
và các mạch nước ngầm , chất thải rắn. . .
Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, với hệ thống sông ngòi như sông Kim
Ngưu, sông Nhuệ, sông Nghĩa Trụ. . . và một số đầm hồ là hệ thống điều tiết sinh
quyển cho cả thành phố. Vậy mà hiện nay đang phải chịu một tình trạng, dồng nước
đen ngòm với bao nhiêu là rác rưởi do sinh hoạt, do chất thải từ các nhà máy, mà
trong đó có cả hoạt động du lịch. Hiện nay, Hệ thống sông thoát nước gồm 4 con
sông thoát nước chíng là sông Lừ, Sét, Tô Lịch và sông Kim Ngưu, với tổng chiều
dài 36, 8 km, dẫn toàn bộ nước thải và nước mưa của thành phố vào sông Nhuệ qua
đập Thanh Liệt với lưu lượng tiêu là 30m3/s. Nhưng các song này hiện nay cũng bị
bồi lắng, thu hệp mặt cắt ở nhiều đoạn do cầu cống và xây dựng lấn chiếm. Giờ đây
Hà Nội chỉ còn 20 hồ với tổng diện tích mặt nước khoảng 592 ha. Hệ thống hồ điều
hoà bị giảm dần chức năng do bị bồi lắng, san lấp để xây dựng. Dung tích hữu ích

của các hồ giảm xuống một cách đáng kể. Trong 4 con sông thoát nước ở Hà Nội,
sông Kim Ngưu là sông chịu tải trọng chất bẩn lớn nhất và có độ nhiễm bẩn lớn nhất.

22
Theo chiều dài sông, có 14 cửa xả nước thải vào đó với hàm lượng chất lơ lửng từ
150 -220 mg/l ; BOD từ 50-140 mg /l ; NH4+ từ 19, 6 -26mg/l.
Thuộc loại oligoxaprophit. Hồ Tõy cú diện Mặt khỏc do khụng cú hệ thống xử
lý nứoc thải, nờn mụi trường nước bị ụ nhiễm nặng nề. Cỏc thụng số BODS ở sụng,
hồ, kờnh mưong, lờn tới 40-100 mg/l. Vượt quỏ tiờu chuẩn cho phộp là 25 mg/l.
Điều này gõy ảnh hưởng xấu đến chất lượng mụi trường và sức khoẻ của nhõn dõn.
Hiện nay nước cống ngầm nhất là cỏc kờnh mương hở, bị bồi lắng nặng : tổng cộng
cú tới 150-160 ngàn m
3
bựn cặn lắng đọng hằng năm. Về mựa khụ vận tốc dũng chảy
trong cống và kờnh mương rất nhỏ, chỉ khoảng 0. 05 -1. 1m/s. Độ ụ nhiểm ở cỏc
sụng hổ trong thành phố Hà Nội được liệt kờ như sau: cỏc hồ nội thành cú độ sõu
trung bỡnh 2- 3 một, cú khả năng tự làm sạch khỏ lớn. Tuy nhiờn cỏ một số hồ bị ụ
nhiểm nặng vỡ phải nhận trựn tiếp nước thải vào. Cao độ đỏy hồ dần dần bị nõng lờn
do lớp bựn bị lắng đọng bị tớch luỹ dần, đạt chiều dày từ 0. 5- 1 m. Diện tớch hồ bị
thu hẹp dần, điển hỡnh là cỏc Văn Chương, Linh Quang, và hồ Giỏm. Thụng thương
cỏc chỉ tiờu chất lượng nước ở đầu hồ( cỏch cửa cống thải 5- 10m) như sau: hàm
lượng cặn lơ lửng( SS) : 100- 150mg/l;BOD5: 35- 65mg/l; DO:0. 5- 2mg/l. Nước ở
cuối hồ cú SS là 50- 80mg/l; BOD5: 15- 25mg/l.
Cỏc hồ ở đầu hệ thống thoỏt nước do phải tiếp nhận trực tiếp nước thải nờn bị
nhiễm bẩn nặng, thường ở mức độ polyxapophit và a- mezoxaprophit, điển hỡnh là
cỏc hồ Văn Chưong, Trỳc Bạch, Ngoc Khỏnh, hồ Gảng Vừ, Thành Cụng, Thanh
Nhàn. Cỏc hồ Hoàn Kiếm, Thủ Lệ, Đống Đa do lượng nước thải vào ớt, dung tớch
hồ lại khỏ lớn nờn mức độ ụ nhiễmtớch mặt nước lớn ( 446 ha) và cú lượng nước
thải vào khụng đỏng kể, nờn phần lớn chất lượng nước hồ ở vựng Oligoxaprophit(ở
giữa hồ BOD5 từ 15- 20mg/l, DO >6mg/l). Nhưng ở vựng ven bờ, đặc biệt là khu

vực gần cống xả từ hồ Trỳc Bạch sang, BOD5 cú thời điểm đạt tới 25-28 mg/l. Cỏc
hồ ngoại thành (hồ Yờn Sở, Linh Đàm, Hạ Đỡnh, Phỏp Võn…)thưũng được sử dụng
để nuụi cỏ. Do việc bơm nước trực tiếp từ cỏc sụng mương vào, nờn vựng đầu hồ
thường cú BOD5 lớn ( trờn 30 mg/l), hàm lượng NH
4
+ từ 5-15mg/l. Đầu tiờn, cỏc hồ
nước cần phải cứu vỡ bị rỏc, nước thải làm ụ nhiễm. Hồ Bảy Mẫu trong cụng viờn
Lờ Nin đang bị ụ nhiễm nghiờm trọng. Nước hồ đục đặc lại, cỏ chết nổi dập dềnh.

23
Mựi ụ uế làm cho ai đến với cụng viờn Lờ Nin hẳn phải thất vọng vụ cựng. Cỏc hồ
khỏc tuy khụng đến nỗi như thế song lại cú nỗi khổ khỏc. Hồ nào mà càng cú nhiều
hộ dõn ở bờn thỡ càng cú nguy cơ bị thu hẹp đến bất ngờ. Như phự thuỷ vậy, sau
một đờm nhà rộng ra vài m2 cũn hồ thỡ bộ lại. Chỉ sau một vài thỏng trở lại một
quỏn ăn ở Phủ Tõy Hồ, tụi thật sự ngỡ ngàng vỡ sự “mở mang bờ cừi” của chủ quỏn
này. Mặt bằng lấn được từ hồ rất rộng. Đó thế, cũn cầu cọc đang hiờn ngang
đợi…tiếp tục lấn chiếm của chủ quỏn. Hồ Hào Nam cũng ở trong tỡnh trạng này.
Mấy hộ dõn ở gần đú giữ khụng cho người khỏc đổ xuống dự một xụ rỏc nhưng đến
đờm thỡ kĩu kịt đổ đất, đổ trạc để lấn hồ. Thế là tỡnh trạng “đất cú thổ cụng, sụng hồ
cú…dõn cạnh đú lấn chiếm” vẫn diễn ra khụng gỡ ngăn nổi. Chớnh quyền phường
chẳng lẽ bú tay vỡ dễ gỡ canh giữ về đờm và moi đất khỏi nước (?) Và nghiờm trọng
tột cựng khi lấn chiếm, lấp hồ lại chớnh là cỏn bộ trong cỏc cơ quan tư phỏp và
chớnh quyền sở tại.
Một phần Hồ Tõy và toàn bộ hồ Trỳc Bạch, hồ Thuyền Quang bị hàng quỏn
thương mại hoỏ. Người ta cũn coi hồ nước là nơi đổ rỏc và trỳt nước thải, là quỹ đất
gia đỡnh, là nơi bỏn hàng cơ động.
Tiếng kờu thầm lặng, mỏi mũn của những hồ nước tại Thủ đụ khụng thấu đến
đõu chăng mà tỡnh tỡnh mói khụng sỏng sủa hơn(!) Những cỏi hồ nếu may mắn
được kố lại thỡ gặp hoạ bị chiếm bờ hồ để kinh doanh rổi xả rỏc và nước thải trực
tiếp xuống nước làm cỏ chết, nước hụi tanh. Thế rồi biết đõu sẽ đến lỳc người ta sẽ

lại bàn về một dự ỏn tốn kộm và rất trời ơi như “thay nước Hồ Tõy”. Dự ỏn trờn trời
và thực tế dưới nước rất bất cập. Vậy là những cỏi hồ bị ốm, những cỏi hồ bị teo lại
đến chết, những cỏi hồ than thở giữa lũng Thủ đụ.
Tốc độ phỏt triển dõn số đụ thị hoỏ nhanh khiến tỡnh trạng lấn chiếm lũng
sụng, hồ làm nhà ở ngày một nhiều. Vụ hỡnh chung người dõn đó tự huỷ hoại mụi
trường sống của chớnh mỡnh. Bờn cạnh đú, do nhận một lượng nước thải lớn đến
480. 000 m
3
/ngày từ cỏc vựng dõn cư đụng ở Hà Nội mà cỏc sụng hồ ở Hà Nội ngày
càng ụ nhiễm. Cỏc hồ lớn ở Hà Nội tham gia điều hoà lượng nước thải, nước mưa
như hồ: Hoàn Kiếm, Bảy Mẫu, Ngọc Khỏnh, Hồ Tõy, Đống Đa… đều bị ụ nhiễm

24

×