Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tài liệu Tiểu luận “Tín dụng cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.73 KB, 16 trang )




Tiểu luận



“Tín dụng cơ sở lí luận và
thực tiễn ở Việt Nam”

1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ HIỆN NAY
1. Tính cấp thiết
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước, muốn vậy cần có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển
cao. Trong đó nhu cầu về vốn là hết sức cần thiết, được coi là yếu
tố hàng đầu, là tiền đề phát triển kinh tế.Đại hội đại biểu toàn quốc
giữ
a nhiệm kỳ khoá VII của đảng đã đề ra: “để công nghiệp hoá-
hiện đại hoá đất nước cần huy động nhiều nguồn vốn sẵn có với sử
dụng vốn có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định
nguồn vốn bên ngoài là quan trọng ”. Tín dụng ra đời rất sớm, ra
đời khi xã hội bắt đầu có sự phân công lao động xã hội và chế độ sở
hữu t
ư nhân về tư liệu sản xuất. Tín dụng đã tồn tại và phát triển ở
nhiều nền kinh tế với các mức độ phát triển khác nhau. Đặc biệt
hiện nay trong nền kinh tế thị trường, nền sản xuất hàng hoá phát
triển mạnh mẽ, cùng với sự tồn tại các mối quan hệ cung- cầu về
hàng hoá, vật tư, sức lao động thì quan hệ cung cầu về tiền vố
n đã
xuất hiện và ngày một phát triển như một đòi hỏi cần thiết khách


quan của nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu tiết kiệm và đầu tư.
Nhà nước đã sử dụng tín dụng như một công cụ quan trọng trong hệ
thống các đòn bẫy kinh tế để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Muốn tìm hiểu rõ về tín dụ
ng tôi đã chọn viết đề tài:
“Tín dụng: cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lí luận về tín dụng.
- Phân tích tình hình tín dụng ở Việt Nam.
- Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động tín dụng.

2
II. NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
1. Cơ sở lí luận về tín dụng
1.1. Khái niệm:
Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có
hoàn trả.
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức
tạp như: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo hành,ký thác,
phát hành giấy bạc.
Trong mỗi một hành vi tín dụng có hai bên cam kết với nhau
như sau:
- Một bên thì trao ngay một số tài hoá hay tiền tệ
- Còn m
ột bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của sổ
tài hoá trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất
định nào đó.
Nhà kinh tế pháp, ông Louis Baudin, đã định nghĩa tín dụng
như là “ Một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hóa tương lai”.

ở đây yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và cũng vì có sự xen lẫn đó
cho nên có thể có sự bấ
t trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm
của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên đương sự dựa vào sự tín
nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau vì vậy mới có danh từ thuật
ngữ tín dụng. Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai thực hiện.
Chẳng hạn hai người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên
ngày nay khi nói tới tín dụng người ta nói ngay tới các ngân hàng vì
các cơ quan này chuyên làm các việc như cho vay, b
ảo lảnh, chiết
khấu, kí thác và phát hành giấy bạc.

3
1.2. Cơ sở ra đời của tín dụng
Khi có sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì tín dụng ra đời. Sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất dẫn đến sở hữu tư nhân về sản phẩm làm ra. Xã
hội có sự phân hoá giàu nghèo. Những người nghèo khi gặp khó
khăn trong cuộc sống họ
phải vay mượn. Tín dụng ra đời. Trên
phương diện xã hội, do có sự phân công lao động xã hội hình thành
sản xuất hàng hoá và tiền tệ đã xuất hiện để sử dụng trong quá trình
sản xuất hàng hoá. Người sản xuất có lúc thiếu vốn bằng tiền để
tiến hành sản xuất kinh doanh nhưng có lúc thừa vốn bằng tiền. Để
điều chỉnh nhu cầu và khả năng vốn bằng tiền c
ủa các chủ thể trong
quá trình sản xuất hàng hoá đòi hỏi tín dụng ra đời.
Trong lịch sử phát triển kinh tế xã hội, hình thức đầu tiên của
tín dụng là tín dụng nặng lãi được ra đời vào thời kì cổ đại. Trong
xã hội nô lệ và nhất là ở xã hội phong kiến, tín dụng nặng lãi đã

phát triển và mở rộng hơn. Đặc điểm của tín dụng nặng lãi là lãi
suất rất cao, hình thức vậ
n động của vốn rất đa dạng, dưới nhiều
hình thức và mục đích vay vào tiêu dùng là chủ yếu. Khi phương
thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển, nền sản
xuất hàng hoá lớn được mở rộng, tín dụng tư bản chủ nghĩa về cơ
bản đã thay thế tín dụng nặng lãi. Tuy vậy tín dụng nặng lãi không
mất đi mà vẫn tồ
n tại và phát triển ở nhiều nền kinh tế với các mức
độ phát triển khác nhau. Hiện nay tín dụng nặng lãi vẫn tồn tại phổ
biến ở các nước chậm phát triển. Ngày nay cùng với sự phát triển
của xã hội, tín dung cũng không ngừng mở rộng và phát triển đa
dạng. Chủ thể tham gia tín dụng bao gồm tất cả các thành phần kinh
tế: Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân, tư nhân. tập thể, tất c
ả các cấp
từ trung ương đến địa phương, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ
trong nước,quốc tế. Các quan hệ tín dụng được mở rộng cả về đối

4
tượng và quy mô hoạt động. Thể hiện ở các ngân hàng có mặt ở hầu
hết mọi nơi. Hầu như toàn bộ các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh
đều sử dụng vốn tín dụng dưới hình thức vay ngân hàng, phát hành
trái phiếu, mua chịu hàng hoá. Khối lượng vốn tín dụng ngày ngày
càng lớn, các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng (tín dụng nhà
nước,ngân hàng, thuê mua, nặng lãi ).
1.3. Bản chất của tín dụng
Tín dụng rất phong phú và đa dạng về hình th
ức. Bản chất
của tín dụng thể hiện ở các phương diện sau: Một là người sở hữu
một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng một

thời gian nhất định. Lúc này, vốn được chuyển từ người cho vay
sang người vay. Hai là, sau khi nhận được vốn tín dụng, người đi
vay được quyền sử dụng để thõa mãn một hay một số mục đích nh
ất
định. Ba là, đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người vay hoàn trả
lại cho người cho vay một giá trị lớn hơn vốn ban đầu, tiền tăng
thêm được gọi là phần lãi.
Các Mác đã viết về bản chất của tín dụng như sau: “ Tiền
chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sơ hữu một thời gian và chẳng qua
chỉ tạm thời chuyển từ tay người tư h
ữu sang tay nhà tư bản hoạt
động, cho nên tiền không phải bỏ ra để thanh toán, cũng không phải
tự đem bán đi mà cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với một điều
kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát sau một kì hạn nhất định”.
Đồng thời CácMác cũng vạch ra yêu cầu của việc tiền quay trở về
điểm xuất phát là: “vẫn giữ được nguyên vẹ
n giá trị của nó và đồng
thời lại lớn lên trong quá trình vận động”. Đến nay các nhà kinh tế
đã có nhiều định nghĩa khác nhau về tín dụng nhưng đều phản ánh
một bên là đi vay và một bên là cho vay, nó dựa trên cơ sở của lòng
tin. Lòng tin được thể hiện trên khía cạnh: người cho vay tin tưởng

5
người đi vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và là quan hệ có
thời hạn, có hoàn trả. Đây là bản chất của tín dụng.
1.4. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
- Tín dụng góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra
thường xuyên, liên tục.
Do tính đa dạng trong luân chuyển vốn của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường, tại một thời

điểm nhất định trong nền
kinh tế có một số doanh nghiệp “thừa vốn” tạm thời do bán hàng
hoá có tiền nhưng chưa có nhu cầu sử dụng ngay( như chưa trả
lương cho công nhân viên ) đã làm nảy sinh nhu cầu cho vay vốn
để trách tình trạng ứa đọng vốn và có thêm lợi nhuận.Trong khi đó
có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời do hàng háo chưa bán
được, nhưng lại có nhu cầu mua nguyên vật liệu, thanh toán tiề
n
lương làm nảy sinh nhu cầu đi vay để duy trì sản xuất kinh doanh
mang lại lợi nhuận. Tín dụng với việc cung cấp tín dụng cho vay
kịp thời, đã tạo khả năng đảm bảo tính liên tục của quá trình sản
xuất kinh doanh,cho phép các doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu về
vốn luôn thay đổi và không để tồn đọng vốn trong quá trình luân
chuyển.
- Tín dụng góp phần tích tụ, tập trung vốn thúc đẩy sản xuất
kinh doanh.
Tập trung vốn phải dựa trên cơ sở tích luỹ. Trong thực tế, có
những lượng tích luỹ rất lớn được nắm giữ ở các chủ thể khác nhau
trong nền kinh tế. Nhưng rất nhiều người tích luỹ không muốn cho
vay trực tiếp hoặc không muốn có cổ phần trong các dự án đầu tư vì
ngoài lí do mất khả năng thanh khoản thì người tích luỹ còn bị hạn
chế bởi kh
ả năng, kiến thức về tài chính và pháp lí để thực hiện trực

6
tiếp đầu tư hoặc cho vay. Với hoạt động của hệ thống tín dụng có đủ
độ tin cậy, do tính chuyên môn hoá cao trong hoạt động tín dụng và
đa dạng hoá các doanh mục đầu tư thông qua nhiều nhà đầu tư của
nhiều dự án khác nhau vay, từ đó làm giảm bớt rủi do cá nhân của
những người tích luỹ, tạo nên quá trình tập trung vốn được thực

hiện nhanh chóng và có hiệu quả đã tạo khả
năng cung ứng vốn cho
nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn các doanh nghiệp, các
nhà đầu tư nhờ nguồn vốn tín dụng có thể nhanh chóng mở rộng sản
xuất, thực hiện các dự án đầu tư tạo những bước nhảy vọt về năng
lực sản xuất do tiếp cận được với phương tiện máy móc hiện đại, từ
đó thúc đẩy s
ản xuất phát triển.
- Tín dụng góp phần điều chỉnh ổn định và tăng trưởng kinh
tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư thường chỉ tập
trung vốn đầu tư vào các lĩnh vực có lợi nhuận cao, trong khi đó,
nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa các
ngành và các vùng, yêu cầu phải có những ngành then chốt, mũi
nhọ
n để tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Tín dụng thông qua cung cấp vốn, đặc biệt là vốn trung và dài
hạn đầy đủ, kịp thời với lãi suất và điều kiện cho vay ưu đãi, có vai
trò quan trọng trong việcgóp phần đảm bảo vốn đầu tư cho cơ sở hạ
tầng, hình thành các ngành then chốt, mũi nhọn và các vùng kinh tế
trọng điểm góp phần hình thành cơ cấu kinh tế tố
i ưu. Chẳng hạn,
với ưu đãi về vốn, lãi suất, thời hạn và điều kiện vay vốn với nông
nghiệp , nông thôn để xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, tín
dụng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tín dụng còn là phương tiện để nhà nước thực hiện chính sách
tiền tệ thích hợp để ổ
n định nền kinh tế khi nền kinh tế có dấu hiệu

7

bất ổn. Chẳng hạn như khi nền kinh tế phát triển chậm, sản xuất
đình trệ, nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ “nới lỏng”, ngân
hàng trung ương thực hiện mua các chứng khoán của các ngân hàng
thương mại, tạo áp lực giảm lãi suất dẫn đến chi phí vay vốn giảm,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thúc đẩy tăng
trưởng kinh t
ế và ngược lại. Hơn nữa, với sự tham gia của tín dụng
thông qua dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã giảm chi phí
lưu thông và an toàn trong thanh toán.
- Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực
hiện các chính sách xã hội khác của nhà nước.
Với các hình thức tín dụng, cơ chế và lãi suất thích hợp tín
dụng đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân ngay cả khi thu
nhập còn hạn chế.
Thông qua các ưu đãi về
vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn
vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tín dụng đã
đóng vai trò quan trọng nhằm thực hiện các chính sách việc làm,
dân số và các chương trình xoá đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng
xã hội.


- Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Hoạt động tín dụng không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế của
một quốc gia, mà còn mở
rộng trên phạm vi quốc tế. Trong điều
kiện kinh tế mở, vay nợ nước ngoài ngày nay trở thành một nhu cầu
khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra
bức thiết hơn đối với các nước đang phát triển. Việt Nam cũng như


8
nhiều nước đang phát triển khác, là nước nghèo, tích luỹ trong nước
còn hạn chế, trong khi cần lượng vốn rất lớn để phát triển kinh tế.
Nhờ có tín dụng, các nước có thể mua hàng hoá, nhập khẩu máy
móc, thiết bị và tiếp cận với những thành tựu khoa học kĩ thuật
mới cũng như trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới. Việc cấp tín
dụng của các nước không chỉ
mở rộng và phát triển quan hệ ngoại
thương, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế ở các nước
nhập khẩu. Tín dụng đã tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế
trực tiếp – một hình thức hợp tác kinh tế ở mức độ cao hơn.
1.5. Một số hình thức tín dụng chủ yếu
- Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụ
ng giữa các nhà
doanh nghệp với nhau và được biểu hiện dưới hình thức mua bán
chịu hàng hoá. Người bán chuyển hàng hoá cho người mua, người
mua được sử dụng hàng hoá trong một thời gian nhất định. Đến hạn
nhất định người mua phải trả tiền cho người bán thông thường bao
gồm cả lãi suất. Trong trường hợp này người mua không được
hưởng chiết khấu bán hàng. Cơ sở pháp lí để xác định nợ trong quan
hệ tín dụ
ng thương mại là các giấy nợ.
Do có tín dụng thương mại nên đã đáp ứng được nhu cầu vốn
cho các doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn trong thời hạn ngắn, giúp
cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá, các chủ doanh nghiệp
khai thác được nguồn vốn đáp ứng kịp thời cho sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên tín dụng thương mại cũng có những hạn chế nhất
định. Thứ nhất là hạn chế
về quy mô tín dụng. Nếu người cần vốn
có nhu cầu cao thì người bán không thể đáp ứng được. Thứ hai là

hạn chế về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay thường là ngắn. Ba là
hạn chế về số lượng người tham gia. Chỉ có một số doanh nghiệp
nhất định tham gia vào hình thức này. Đó là những doanh nghiệp

9
cần hàng hoá dự trữ để đưa vào sản xuất ngay, những doanh nghiệp
cần tiêu thụ hàng hóa. Bốn là chỉ thực hiện được trên cơ sở tín
nhiệm lẫn nhau.
- Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng,
các tổ chức tín dụng với các chủ thể xã hội.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng vừa là người đi vay vừa là
người cho vay ngân hàng là môi giơí trung gian giữa người có vốn
và người cần vốn. Ngân hàng là tổ
chức kinh doanh tập thể, Hoạt
động tín dụng là hoạt động dựa trên những nguyên tắc cho vay nhất
định. Nguyên tắc cơ bản là cho vay phải có hàng hoá tương đương
đảm bảo như có tài sản thế chấp hoặc phải có giấy tờ tín chấp. Cho
vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi. Tín dụng ngân hàng được
cung cấp dưới hình thức tập thể bao gồm: thương mại và bút tệ
trong đó chủ
yếu là bút tệ. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng
chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân và có quan hệ chặt chẽ với tín
dụng thương mại, bổ sung và hỗ trợ cho tín dụng thương mại. Các
thương phiếu trong lĩnh vực thương mại được thanh toán qua ngân
hàng. Nếu người trả không có tiền thì được ngân hàng cho vay. Như
vậy tín dụng ngân hàng đã tạo cơ sở cho tín dụng ngân hàng hoạt
động. Ngược lại hoạ
t động của tín dụng ngân hàng sẽ khắc phục
được những hạn chế của lĩnh vực thương mại
- Tín dụng nhà nước: là quan hệ giữa một bên là nhà nước còn

bên kia là cư dân và các tổ chức kinh tế xã hội.
Ở hình thức tín dụng này nhà nước vừa là người đi vay vừa là
người cho vay, nhà nước có thể cho đân cư vay dưới hình thức phát
hành các tín phiếu trái phiếu kho bạc, chính phủ nhà nước cho vay
thường là ch
ương chình tín dụng ưu đãi. Phạm vi hoạt động và huy
động vốn rộng lớn gồm cả trong nước và nước ngoài. Hình thức huy

10
động vốn rất phong phú. Có thể dưói hình thức cho vay trực tiếp
nước ngoài bằng công trái, bằng tiền, bằng vàng, bằng ngoại tệ dưới
hình thức là phiếu, tín phiếu, trái phiếu của chính phủ tín dụng ngắn
hạn, tín dụng dài hạn. Tín dụng nhà nước vừa mang tính lợi ích kinh
tế vừa mang tính cưỡng chế chính trị xã hội.
- Tín dụng không chính thống: là quan hệ tín dụng giữa cá
nhân với nhau không đặt dưới quan hệ
pháp luật
Hoạt động của quan hệ không chính thống không chịu sự quản
lí và giám sát của nhà nước, hoạt động trên cơ sở tin tưởng lẫn
nhau. Lượng vốn vay nhỏ, thời gian vay ngắn, lãi suất vay cao hay
thấp tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa người đi vay và người đi vay.
Thủ tục vay thường đơn giản, tiện lợi, bất cứ lúc nào cũng có sẳn.
Chính vì vậy mà trong nền kinh tế hi
ện đại loại hình này vẫn tồn tại
khá phổ biến, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng.
- Tín dụng thuê mua: là quan hệ tín dụng giữa các doanh
nghiệp thuê tài sản với các tổ chức tín dụng thuê mua như các công
ty thuê mua, các công ty tài chính
Tín dụng thuê mua là kiểu cho thuê tài sản chuyên dụng kèm
theo lời hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là khi kết thúc hợp đồng

cho người thuê theo giá thoã thuận từ đầu.
2. Thực tiễn tín dụng ở Vi
ệt Nam
Nước ta hiện nay hệ thống tín dụng bắt đầu phát triển mạnh.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có nền kinh
tế phát triển vững mạnh. Vì vậy nhu cầu về vốn ngày càng nhiều,
vốn được coi là yếu tố hàng đầu, là tiền đề phát triển kinh tế.

11
Đảng và nhà nước đã sử dụng phương pháp tín dụng là phương
pháp chủ yếu để giúp đỡ về tài chính cho các tổ chức kinh tế tập
thể.Bằng phương pháp tín dụng, ngân hàng cho các tổ chức kinh tế
tập thể vay vốn cố định và vốn lưu động để tăng thêm năng lực sản
xuất, áp dụng các thành tựu sản xuất vào trong đơn vị mình. Thực tế
đã ch
ứng minh rằng đầu tư tín dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với các tổ chức kinh tế tập thể. Trong nhiều cơ sở, đặc biệt là
trong các hợp tác xã nông- lâm- nghư. Vốn tín dụng chiếm một tỷ
trọng khá lớn trong toàn bộ vốn hoạt động của đơn vị.
Ở nước ta trước cách mạng tháng 8/45 và trong thời kì từ năm
54-75 ở miền nam các quan hệ tín dụng thể
hiện sự bóc lột của chủ
nghĩa đế quốc đối với dân tộc việt nam, của giai cấp tư sản với giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, của giai cấp phong kiến và
bọn cho vay nặng lãi đối cới những người sản xuất nhỏ là nông dân
và dân nghèo thành thị.
Việt nam, trước đây bọn đế quốc và các giai cấp thống trị
trong nước vừa thực hiện sự bóc lột thông qua các hình th
ức tín
dụng tư bản chủ nghĩa vừa duy trì sự bóc lột bằng tín dụng nặng lãi.

Tình hình nay đã tác động rất xấu đến nền kinh tế và xã hội nước ta.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 quan hệ giai cấp trong xã
hội việt nam đã có nhiều thay đổi và tín dụng đẫ bắt đầu đem theo
những nội dung kinh tế xã hội mới, hạn chế dần mặt bóc lột và
chuyển sang phục vụ
quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, tín
dụng cũng được mở rộng và phát triển đa dạng, hình thức phong
phú. Tất cả các thành phần kinh tế đều có thể là chủ thể tham gia tín
dụng. Các quan hệ tín dụng được mở rộng. Các hệ thống ngân hàng
và các tổ chức tín dụng có mặt ở hầu hết mọ
i nơi. Hệ thống ngân

12
hàng việt nam đã có vai trò quan trọng trong việc huy động và cho
vay vốn tới các thành phần kinh tế.
Thực hiện nhiệm vụ chủ yếu mà thống đốc ngân hàng nhà
nước đã đề ra là triệt để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội
để đâù tư phát triển. Nhiều chi nhánh ngân hàng công thương đã đa
dạng hoá các hình thức huy động vốn với lãi suất hấp dẫn theo cơ
chế thị trường. Nguồ
n vốn huy động của toàn hệ thống luôn duy trì
mức tăng trưởng ổn định. Tính đến tháng 10/2000 tổng vốn huy
động tăng 24% so với đầu năm. Trong đó vốn huy động đồng việt
nam tăng 20,5%.
Ngân hàng công thương việt nam, luôn năng động, sáng tạo
mở ra nhiều loại hình cho vay mới, chủ động tìm kiếm các dự án
khả thi. Nâng cao năng lực thẩm định, mở rộng diện đầu tư. Khách
hàng là m
ọi thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài. Hợp tác với các ngân hàng bạn để cho vay hợp vốn,
đồng tài trợ trong lĩnh vực Điện lực, Bưu chính viễn thông, hoạt
động xuất nhập khẩu đáp ứng cao nhất cho nhu cầu vốn cho sản
xuất kinh doanh. Tín dụng của ngân hàng công thương đã tập trung
vào các ngành kinh tế mũi nhọn như các tổng công ty lớn nhà nước,
tạo bước chuyển mới trong cơ cấu tín dụng, dịch vụ và kinh doanh
tiền tệ.
Ngoài chức năng chủ yếu là kinh doanh, ngân hàng công
thương vẫn phát triển cho vay theo chính sách và thực hiện các
chương trình kinh tế xã hội của nhà nước giao như cho vay khắc
phục hậu quả bão lụt, cho vay tạo việc làm cho người hồi hương từ
Đức, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay phát triển kinh tế
biển, cho vay hỗ trợ sinh viên họ
c tập từ các trường cao đẳng và đại

13
học, cho vay đáp ứng nhu cầu thu mua nông sản, lương thực để dự
trữ và xuất khẩu.
Sau khi ưu tiên đáp ứng vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của
nền kinh tế nguồn vốn còn lại ngân hàng công thương đã tham gia
hoạt động trên thị trường tiền tệ. Như đầu tư vốn mua trái phiếu kho
bạc, trái phiếu chính phủ,tín phiếu ngân hàng nhà nước,công trái
xây dựng tổ qu
ốc Ngân hàng công thương tích cực hoạt động mua
bán lại giấy tờ có giá trên thị trường mở và là một thành viên tham
gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mặc dù tín dụng Việt Nam hiện nay đã và đang phát triển
mạnh tuy nhiên còn nhiều bất cập. ở tầm vĩ mô, văn bản pháp quy
về tín dụng chưa đồng bộ. Chưa tạo được hành lang pháp lí; Hệ
thống tín dụng chưa phát triển đồng bộ

ở các vùng, địa phương; Các
hình thức vay vốn còn phức tạp.











14










III. KẾT LUẬN.
Hoạt động tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong công
cuộc phát triển kinh tế. Vì vậy việc mở rộng và phát triển tín dụng
là tất yếu khách quan. để tạo nguồn vốnphục vụ đầu tư phát
triển,công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, hệ thống ngân
hàng Việt Nam cần tiếp tục hoàn chỉnh đưa vào hoạt

động các thị
trường tiền tệ (như thị trường liên ngân hàng; thị trường đấu giá tín
phiếu kho bạc); và cùng với các ngành đưa vào hoạt động thị trường
chứng khoán trong thập kỷ này. Thực hiện chính sách huy động vốn
và cho vay vốn tích cực, mạnh mẽ vừa đảm bảo về khối lượng vừa
chú trọng hiệu quả chất lượng sử dụng vốn đảm bảo khả n
ăng hoàn
trả. Về việc huy động vốn, trước hết, cần khẳng định rằng trong
điều kiện thu nhập bình quân theo đầu người còn thấp như hiện nay,
khả năng tiết kiệm của nhân dân nhìn chung hạn hẹp. Bằng các hình

15
thức huy động tiết kiệm phong phú với lãi suất khá cao hiện nay, hệ
thống ngân hàng đã thu hút được phần lớn tiền nhàn rỗi trong dân
cư ( tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đã chiếm tới
65% tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế). Để nền kinh tế
có tăng trưởng cao, tín dụng ngân hàng cần được mở rộng đáp ứng
các nhu cầu vay vốn có hiệ
u quả với phương châm không để các dự
án đầu tư có hiệu quả cao bị thiếu vốn. Cơ cấu tín dụng cần tiếp tục
chuyển dịch có lợi cho đầu tư phát triển, tăng cường cho vay trung
và dài hạn. Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỉ lệ
nợ quá hạn và nợ khó đòi xuống mức lành mạnh theo tiêu chuẩn
quốc tế, tăng vòng quay và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của xã
hội. Tiếp tục mở rộng đối tượng cho vay đến cả các thành phần kinh
tế, chú ý thích đáng việc cho vay đối với nông dân và các đối tượng
chính sách, mở rộng các hoạt động dịch vụ và phục vụ của hệ thống
ngân hàng thương mại, góp phần khuyến khích phát triển kinh tế
đồng đều giữa các vùng, địa phương.

Đảng ta cần có hệ thống, chính sách văn bả
n đầy đủ, đồng bộ
tạo điều kiện cho tín dụng phát triển.
Cần xây dựng hệ thống tín dụng đồng bộ, rộng khắp. Đội ngũ
cán bộ có trình độ cao. Đặc biệt nước ta cần hội nhập với quốc tế.



×