Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

NHỮNG vấn đề CHUNG về QUẢN lý HÀNH CHÍNH NHÀ nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.92 KB, 13 trang )

TÀI LIỆU ÔN TẬP MÔN NGHIỆP VỤ CHUYÊN NGÀNH
CHUYÊN ĐỀ 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
(Các ngạch Kế toán viên Trung cấp, Kiểm lâm viên, Kiểm
lâm viên Trung cấp không thi Chuyên đề này)
1. Khái niệm chung về quản lý hành chính nhà nước.
1.1. Khái niệm quản lý
Dưới góc độ khoa học, khái niệm về “quản lý” có nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Với ý nghĩa thơng thường, phổ biến thì
quản lý có thể hiểu là hoạt động tác động một
cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những
đối tượn g quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển
theo những mục tiêu nhất định đã đề ra.
Với cách hiểu trên, quản lý bao gồm các yếu tố sau:
- Chủ thế quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ
thể có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động
lên đối tượng quản lý bằng các cơng cụ, hình thức và phương
pháp thích hợp, cần thiết và dựa trên cơ sở những nguyên tắc
nhất định.
- Đối tượng quản lý (khách thể quản lý): Tiếp nhận sự tác động
của chủ thể quản lý.
- Mục tiêu quản lý: là c ái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm
nhất định do chủ thể quản lý đề ra. Đây là căn cứ để chủ thể
quản lý thực hiện các tác động quản lý
cũng như lựa chọn các hình thức, phương pháp thích hợp.
1.2. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà
nước, gắn với chức năng, vai trò của nhà nước trong xã hội có
giai cấp. Quản lý nhà nước tiếp cận với nghĩa rộng nhất bao
gồm toàn bộ các hoạt động: hoạt động lập pháp của cơ quan


lập
pháp, hoạt động hành chính (chấp hành và điều hành) của hệ
thống hành pháp và hoạt động tư pháp của hệ thống tư pháp.
1.3. Quản lý hành chính nhà nước.
Trong quản lý nhà nước nói chung, hoạt động quản lý hành
chính là hoạt động có vị trí trung tâm, chủ yếu. Đây là hoạt
động tổ chức và điều hành để thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ cơ bản nhất của nhà nước trong quản lý xã hội.
Có thể hiểu quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi
quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và
điều chỉnh bằng quyền lực


nhà nước trên cơ sở p háp luật đối với hành vi hoạt động của
con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ
thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành
để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước.
Định nghĩa trên có ba nội dung cơ bản:
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền
hành pháp: hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực của
nhà nước: Lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Quản lý hành chính là sự tác động có tổ chức và có định
hướng: Trong quản lý hành chính nhà nước, chức năng tổ chức
rất quan trọng,vì khơng có tổ chức thì khơng thể quản lý được.
Nhà nước phải tổ chức cả triệu người và mỗi người đều có vị trí
tích cực đối với xã hội, đóng góp phần của mình để tạo ra lợi ích
cho xã hội. Quản lý hành chính nhà nước có tính định hướng vì
thơng qua tác động quản lý của mình các chủ thể quản lý hành
chính nhà nước định hướng hành vi con người và các quá trình

xã hội theo những quỹ đạo, mục tiêu nhất định.
- Quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp
luật và theo nguyên tắc pháp chế: Quản lý hành chính nhà nước
là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước nhưng phải trong khuôn khổ
của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của
nhà nước pháp quyền.
2. Các tính chất và đặc điểm cơ bản của quản lý hành
chính nhà nước ở nước ta.
2.1. Các tính chất cơ bản của quản lý hành chính nhà
nước
2.1.1. Tính chính trị xã hội chủ nghĩa.
Nền hành chính nhà nước là bộ phận quan trọng trong hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa, là cơng cụ để thực hiện quyền lực
chính trị của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động trong xã
hội. Hoạt động hành chính nhà nước nhằm thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng để đạt được những mục tiêu
chính trị của quốc gia.
2.1.2. Tính dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do đó nhân
dân là chủ thể tối cao của đất nước. Tuy nhiên, Nhà nước xã hội
chủ nghĩa được nhân dân uỷ quyền, thay mặt nhân dân thực
hiện quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách tập
trung, thống nhất. Hoạt động hành chính nhà nước phải chịu sự


kiểm tra, giám sát của nhân dân, phải đảm bảo quyền làm chủ
thực sự của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
2.1.3. Tính khoa học và nghệ thuật.

Trong quá trình phát triển của xã hội, hoạt động quản lý khơng
chỉ là một khoa học mà cịn là một nghệ thuật. Quản lý là một
khoa học vì nó có tính quy luật, có các
ngun lý và các mối quan hệ tương hỗ với các môn khoa học
khác. Quản lý là một nghệ thuật vì nó gắn với tài nghệ, bản
lĩnh, nhân cách, trí tuệ, kinh nghiệm... của người quản lý.
Quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập
trung nhất của toàn bộ hoạt động của nhà nước trong quá trình
phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Chính vì vậy, người cán
bộ, cơng chức phải có kiến thức về những quy luật khách quan
của hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng.
2.1.4. Tính chất bao qt ngành, lĩnh vực.
Đối tượng của quản lý hành chính nh à nước là tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an
ninh, quốc phịng... Quản lý hành chính nhà nước khơng chỉ là
tổ chức, điều chỉnh từng lĩnh vực mà còn phải liên kết, phối hợp
các lĩnh vực thành một thể thống nhất để đảm bảo xã hội phát
triển đồng bộ, cân đối, có hiệu quả đáp ứng nhu cầu của các
thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, quản lý toàn bộ các lĩnh vực
của đời sống xã hội khơng có nghĩa là các cơ quan hành chính
nhà nước can thiệp vào mọi khía cạnh, mọi quan hệ xã hội mà
chỉ điều chỉnh, tác động vào các quan hệ xã hội đã được pháp
luật xác định.
2.2. Các đặc điểm cơ bản của quản lý hành chính nhà
nước.
Khi nói đến đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là nói
đến những nét đặc thù của quản lý hành chính nhà nước để
phân biệt với các dạng quản lý xã hội khác. Với cách tiếp cận
như trên, quản lý hành chính nhà nước dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta có các đặc điểm cơ bản sau đây:

- Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt,
tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước ln mang tính quyền
lực nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước.
Tính quyền lực là đặc điểm cơ bản nhất
để phân biệt hoạt động quản lý hành chính nhà nước với các
hoạt động quản lý mang tính xã hội khác.
- Quản lý hành chính nhà nước có mục tiêu chiến lược, có
chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu.


Trong quản lý, việc đề ra mục tiêu được coi là chức năng đầu
tiên và cơ bản. Mục tiêu quản lý là căn cứ để các chủ thể quản
lý đưa ra những tác động thích hợp
với những hình thức và phương pháp phù hợp. Để đạt mục tiêu
mà Đảng đề ra, các cơ quan hành chính nhà nước cần phải xây
dựng chương trình kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn và
tổ chức thực hiện.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành - điều
hành trên cơ sở pháp luật nhưng có tính chủ động, sáng tạo và
linh hoạt trong việc điều hành
và xử lý các cơng việc cụ thể.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục và tương đối ổn
định trong tổ chức và hoạt động.
Nền hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ nhân dân một
cách thường xuyên cho nên quản lý hành chính nhà nước phải
đảm bảo tính liên tục để thoả mãn nhu cầu hàng ngày của
nhân dân, của xã hội và phải có tính ổn định cao để đảm bảo
hoạt
động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống chính trị - xã

hội nào.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt
chẽ, là một hệ thống thông suốt từ Trung uơng đến cơ sở, cấp
dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm
tra thường xuyên của cấp trên (đặc điểm này có điểm khác với
hệ thống các cơ quan dân cử và hệ thống các cơ quan xét xử).
- Quản lý hành chính nhà nước dưới chế độ XHCN khơng có sự
cách biệt
tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý.
Bởi vì, thứ nhất, trong quản lý xã hội thì con người vừa là chủ
thể vừa là đối tượng của quản lý. Mặt khác, dưới chế độ CNXH,
nhân dân là chủ thể quản lý đất nước.
- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính khơng vụ lợi.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước XHCN khơng chạy theo
lợi nhuận mà nhằm phục vụ lợi ích cơng, lợi ích nhân dân
- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính nhân đạo. Xuất
phát từ bản chất nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các
hoạt động của nền hành chính nhà nước đều có mục tiêu phục
vụ con người, tơn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân và lấy đó làm xuất phát điểm của hệ thống pháp luật,
thể chế, quy tắc và thủ tục hành chính.
3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.


Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những tư tưởng chỉ
đạo mọi hành động, hành vi quản lý của các cơ quan và cán bộ,
công chức trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước được hình thành dựa
trên cơ sở nhận thức các quy luật khách quan, qua kết quả

nghiên cứu sâu sắc các điều kiện thực tế xã hội, dựa trên bản
chất chính trị xã hội của nhà nước trong thời gian, khơng gian
và hồn cảnh cụ thể. Xuất phát từ bản chất của chế độ chính
trị, từ thực tiễn xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
trên cơ sở nghiên cứu có chọn lọc những thành tựu của hành
chính học và kinh nghiệm của các nước khác, có thể rút ra được
những nguyên tắc quản lý hành chính chủ yếu ở nước ta như
sau :
3.1. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước dưới sự lã
nh đạo của Đảng và đảm bảo sự tham gia, kiểm tra,
giám sát của nhân dân đối với quản lý hành chính nhà
nước.
Đảng lãnh đạo hoạt động quản lý hành chính nhà nước trước
hết bằng việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách.
Đảng lãnh đạo thơng qua cơng tác t ổ chức và cán bộ. Đảng
đào tạo, lựa chọn, giới thiệu cán bộ cho các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, lãnh đạo việc sắp xếp, bố trí cán bộ.
Đảng chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết Đảng
cũng như pháp luật của nhà nước trong các hoạt động quản lý
hành chính nhà nước.
Đảng lãnh đạo quản lý nhà nước nhưng không làm thay các cơ
quan nhà nước. Chính vì vậy, việc phân định chức năng lãnh
đạo của các cơ quan Đảng và chức năng quản lý của cơ quan
nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng và cũng là điều kiện cơ
bản để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu
quả quản lý của bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay.
Sự tham gia của nhân dân vào quyền lực chính trị là một trong
những đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ. Quyền tham gia
vào hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân
được quy định tại điều 53 Hiến pháp 1992: “Cơng dân có quyền

tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các
vấn đề chung của nhà nước và địa phương, kiến nghị với cơ
quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nướ c tổ chức trưng cầu ý
dân”.
Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp, tham gia giải quyết những vấn đề lớn
và hệ trọng của đất nước, địa phương hoặc đơn vị. Ngoài việc


tham gia biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý,
những hình thức tham gia trực tiếp khác của nhân dân vào
quản lý nhà nước là: Thảo luận, góp ý kiến vào q trình xây
dựng những đạo luật hoặc các quyết định quan trọng khác của
nhà nước hoặc của địa phương; kiểm tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước... Nhân dân
còn gián tiếp tham gia vào quản lý nhà nước thông qua hoạt
động của các cơ quan, các đại biểu do mình bầu ra (Quốc hội,
HĐND các cấp).
Một hình thức tham gia gián tiếp vào quản lý nhà nước rất quan
trọng khác là thông qua các tổ chức xã hội. Pháp luật Việt Nam
trao cho các tổ chức xã hội quyền tham gia thành lập các cơ
quan nhà nước, quyền giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt
động của các cơ quan nhà nước.
Để đảm bảo sự tham gia vào quản lý nhà nước của nhân dân có
hiệu quả, cần
phải thể chế hố các quyền đó một cách cụ thể, phát huy hơn
nữa vai trò của các đại biểu nhân dân và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, đồn thể nhân dân.
3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng chỉ đạo tổ chức và
hoạt động của cả hệ thống chính trị, trong đó có nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định trước hết sự lãnh đạo
tập trung đối với những vấn đề cơ bản chính yếu nhất, bản chất
nhất. Sự tập trung đó đảm bảo tính thống nhất của quyền lực
nhà nước, đảm bảo thực hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của đại đa
số nhân dân lao động. Bên cạnh việc yêu cầu phải chấp hành
mệnh lệnh của cấp trên, cũng cần phải đảm bảo tính sáng tạo,
quyền chủ động nhất định của địa phương và cơ sở. Cấp trung
ương giữ quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản, đồng
thời thực hiện phân cấp quản lý, giao quyền hạn, trách nhiệm
cho các địa phương, các ngành trong tổ chức quản lý điều hành
để thực hiện các văn bản của cấp trên. Điều 6 Hiến pháp 1992
quy định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của cơ quan nhà nước.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước nguyên tắc tập
trung dân chủ được biểu hiện rất đa dạng trong nhiều lĩnh vực,
nhiều cấp quản lý, từ vần đề tổ chức bộ máy đến cơ chế vận
hành của bộ máy. Chẳng hạn như quan hệ trực thuộc, chịu
trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý hành chính nhà
nước trước cơ quan dân cử; phân định chức năng, thẩm quyền


giữa các cơ quan quản lý hành chính nhà nước các cấp; nguyên
tắc “hai chiều trực thuộc” đảm bảo kết hợp tốt quản lý theo
ngành và theo lãnh thổ, kết hợp hài hịa lợi ích của cả nước với
lợi ích của từng địa phương...
Tổ chức và hoạt động quản lý hành chín h nhà nước, là một thể
thống nhất. Tập trung dân chủ đối lập với xu hướng cơ quan
cấp trên “làm thay” “lấn sân” vào thẩm quyền của cơ quan cấp

dưới, đồng thời phủ nhận việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy
cho cấp trên. Trong thực tiễn quản lý hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta đang khắc phục bệnh tập trung quan liêu, đồng thời
chống biểu hiện tuỳ tiện, tự do vơ chính phủ, cục bộ địa
phương, cục bộ ngành.
3.3. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bằng pháp
luật và tăng cường pháp chế.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế là
một nguyên tắc
Hiến định. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức và hoạt động
quản lý hành chính nhà nước đều phải dựa trên cơ sở pháp luật.
Điều đó có nghĩa là hệ thống hành chính nhà nước phải chấp
hành luật và các quyết định của Quốc hội trong chức năng thực
hiện quyền hành pháp; Khi ban hành các quyết định quản lý
hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật và
các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Để thực hiện nguyên tắc này, cần làm tốt c ác nội dung cơ bản
sau: - Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
- Tổ chức thực hiện tốt pháp luật đã ban hành
- Xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật
- Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho toàn dân.
3.4. Nguyên tắc kết hợp quản lý hành chính theo ngành
và theo lãnh thổ.
Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ là hai mặt không
tách rời nhau mà phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt
là trên lĩnh vực kinh tế. Các đơn vị kinh tế thuộc thành phần
kinh tế nào, nằm trên địa bàn quản lý đề u thuộc một ngành
kinh
tế - kỹ thuật nhất định và chịu sự quản lý của ngành (Bộ). Mặt
khác, các đơn vị kinh tế thuộc các ngành kinh tế - kỹ thuật khác

nhau đều được phân bổ trên những địa bàn nhất định, chúng có
quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế và gắn bó với nhau trên
các mặt xã hội, tạo nên một cơ cấu kinh tế - xã hội và chịu sự
quản lý của chính quyền địa phương. Đây là sự thống nhất giữa


hai mặt: Cơ cấu kinh tế ngành với cơ cấu kinh tế lãnh thổ trong
một cơ cấu kinh tế chung.
Các hoạt động quản lý theo ngành của cơ quan nhà nước nhằm
đề ra các chủ trương, chính sách phát triển tồn ngành, tạo mơi
trường thuận lợi cho các đơn vị
kinh tế phát huy tính chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất – kinh doanh. Cần nhấn mạnh rằng, quản lý theo
ngành ở đây là quản lý về mặt nhà nước: nhà nước đề ra chủ
trương chính sách, xây dựng chiến lược, sử dụng các đòn bẩy...
còn quản lý
sản xuất kinh doanh là quyền chủ động của đơn vị sản xuất
kinh doanh.
Nội dung quản lý theo lãnh thổ nhằm tổ chức sự điều hoà phối
hợp các hoạt động của các ngành, các thành phần kinh tế và
các tổ chức kinh tế, văn hố, xã hội,
an ninh, quốc phịng... trên phạm vi cả nước cũng như trên từng
đơn vị hành chính lãnh thổ với mục tiêu bảo đảm pháp chế
XHCN, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân về mọi mặt.
3.5. Nguyên tắc phân biệt chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế với quản lý
sản xuất kinh doanh.
Nhà nước ta nắm quyền sở hữu với những tư liệu sản xuất chủ
yếu, có khả năng, nhiệm vụ tổ chức và quản l ý nền kinh tế

quốc dân trên quy mô cả nước trực tiếp tổ chức và quản lý các
thành phần kinh tế nhưng nhà nước không phải là người trực
tiếp
kinh doanh. Nhà nước tơn trọng tính độc lập tự chủ của các đơn
vị kinh doanh. Trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
của nhà nước hiện nay, trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ kinh
doanh của các doanh nghiệp, chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh
doanh
- Định hướng và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thơng qua kế
hoạch và các chính sách kinh tế
- Hoạch định và thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo sự thống
nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia
- Tổ chức nền kinh tế và điều chỉnh bằng các công cụ và biện
pháp vĩ mô.


- Tổ chức và giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các đơn
vị kinh tế.
Nhà nước thực hiện các chức năng trên thông qua một hệ thống
các cơ quan hành chính nhà nước; thơng qua việc tổ chức hệ
thống các tổ chức kinh tế của nhà
nước; thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ
có phẩm chất chính trị, có năng lực quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế, quản lý xã hội.
Các tổ chức kinh doanh trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh
doanh có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh bình đẳng
với nhau trước pháp luật; có quyền tự chủ về tài chính và thực

hiện hạch tốn kinh tế; có nhiệm vụ phát huy năng lực kinh
doanh có hiệu quả đạt mục tiêu thu lợi nhuận cao trong khuôn
khổ pháp lý và chịu s ự quản lý bằng pháp luật của các cơ quan
hành chính nhà nước.
Việc phân biệt và kết hợp tốt hai chức năng này với nhau trong
một hệ thống thống nhất tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất – kinh doanh của các đơn vị kinh tế và hiệu
lực quản lý nhà nước, hiệu lực tổ chức thực hiện pháp luật của
các cơ quan hành chính nhà nước.
6. Ngun tắc cơng khai
Tổ chức hoạt động hành chính của nhà nước ta là nhằm phục
vụ lợi ích quốc gia và lợi ích hợp pháp của cơng dân nên cần
phải cơng khai hố, thực hiện đúng chủ trương “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phải quy định các hoạt động cần
công khai cho dân biết, tạo điều kiện thu hút đong đảo quần
chúng nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động hành
chính nhà nước.
4.. Các hình thức và phương pháp quản lý hành chính
nhà nước
4.1. Hình thức quản lý hành chính
Hình thức hoạt động quản lý hành chính nhà nước được hiểu là
sự biểu hiện của các hoạt động quản lý của cơ quan hành chính
nhà nước trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được
giao.
Quản lý hành chính nhà nước có nhiều hình thức hoạt động.
Việc lựa chọn hình thức hoạt động cần phải được tiến hành trên
cơ sở những quy luật sau:
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với chức năng
quản lý.



- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với nội dung và
tính chất của những nhiệm vụ quản lý cần giải quyết.
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với những đặc
điểm của đối tượng quản lý cụ thể.
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với mục đích cụ
thể của tác động quản lý
Hình thức quản lý hành chính nhà nước có thể được chia thành
2 loại là: hình thức pháp và hình thức khơng pháp lý.
4.1.1. Hình thức pháp lý
- Ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước
+ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (lập quy)
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp lý
quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ thể quản lý hành
chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Thơng qua các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành
chính nhà nước quy định những quy tắc xử sự chung; những
nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia
quan hệ quản lý hành chính nhà nước; xác định rõ thẩm quyền
và thủ tục tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước .
+ Ban hành văn bản áp dụng pháp luật:
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động
chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước. Nội dung của nó
là áp dụng một hay nhiều quy phạm pháp luật vào một trường
hợp cụ thể, trong điều kiện cụ thể. Vi ệc ban hành văn bản áp
dụng pháp luật làm pháp sinh, thay đổi hay chấm dứt những
quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
Thơng qua việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật, các

chủ thể quản lý hành chính nhà nước tác động một cách tích
cực và trực tiếp đến mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
- Các hoạt động mang tính chất pháp lý khác như:
+ Áp dụng những biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm
pháp luật (như kiểm tra giấy phép lái xe, kiểm tra việc đăng ký
tạm trú, tạm vắng...)
+ Đăng ký những sự kiện nhất định như đăng ký khai sinh, đăng
ký kết hôn,
đăng ký phương tiện giao thông...
+ Lập và cấp các giấy tờ nhất định như lập biên bản về vi phạm
hành chính.
+ Hoạt động cơng chứng, chứng thực.
...


4.1.2. Hình thức khơng pháp lý:
- Tổ chức hội nghị
- Sử dụng các phương tiện kỹ thuật
- Hình thức phối hợp, kết hợp
...
4.2. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước
Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong quá trình hoạt
động của mình đều sử dụng rất nhiều phương pháp quản lý.
Các phương pháp này có thể phân thành 2 nhóm:
4.2.1. Nhóm thứ nhất gồm phương pháp của các khoa học khác
được quản lý hành chính nhà nước vận dụng cụ thể là:
- Phương pháp kế hoạch hóa:
Các cơ quan hành chính nhà nước dùng phương pháp này để
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội, lập quy hoạch

tổng thể và chuyên ngành; dự báo xu thế
phát triển; đặt chương trình mục tiêu và xây dựng kế hoạch dài
hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Sử dụng phương pháp này để tính tốn các chỉ tiêu kế hoạch, tổ
chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch.
- Phương pháp thống kê:
Phương pháp này được các cơ quan hành chính nhà nước sử
dụng để tiến hành điều tra khảo sát, sử dụng các phương pháp
tính tốn để phân tích tình hình và ngun nhân của hiện tượng
quản lý, làm căn cứ khoa học cho việc ra quyết định quản lý.
Sử dụng các phương pháp thu thập số liệu, tổng hợp và chỉnh lý
để tính tốn tốc độ phát triển của các chỉ tiêu, kế hoạch nhất
định.
- Phương pháp toán học:
Với phương pháp này, cơ quan hành chính nhà nước ứng dụng
ma trận, vận trù học, sơ đồ mạng...trong quản lý; sử dụng các
máy điện toán để thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin; tốn học
hóa các chương trình mục tiêu kinh tế xã hội; tính tốn các cân
đối liên ngành trong mọi lĩnh vực hoạt động quản lý.
- Phương pháp tâm lý – xã hội:
Phương pháp tâm lý xã hội nhằm tác động vào tâm tư, tình cảm
của người lao
động, tạo cho họ khơng khí hồ hởi, u thích cơng việc, gắn bó
với tập thể lao động, hăng hái làm việc, giải quyết cho họ
những vướng mắc trong công tác, động viên, giúp đỡ họ vượt
qua khó khăn về cuộc sống. Do vậy, tác động tâm lý – xã hội là
phương pháp quản lý rất quan trọng.



- Phương pháp sinh lý học:
Trên cơ sở phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước
tạo ra các điều kiện làm việc phù hợp với sinh lý của con người ,
tạo ra sự thoải mái trong làm việc và tiết kiệm các thao tác
không cần thiết nhằm tăng cường năng suất lao động như: bố
trí phịng làm việc; bàn làm việc, nghế ngồi; vị trí điện thoại; ví
trí để tài liệu; màu sắc và ánh sáng...
4.2.2. Nhóm thứ hai gồm 4 phương pháp chủ yếu, đặc thù của
khoa học quản lý.
- Phương pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng:
Đây là phương pháp tác động về tư tưởng và tinh thần đối với
con người để họ giác ngộ lý tưởng, nâng cao ý thức chính trị và
pháp luật, nhận biết được làm việc nào là tốt, xấu, thiện, ác,
vinh, nhục...
Giáo dục chính trị, tư tưởng khơng chỉ bằng việc hơ hào những
khẩu hiệu chính trị, tun truyền, động viên lịng nhiệt tình,
hăng hái một cách chung chung như
nhiều người quan niệm và nhiều nơi vẫn làm. Mà còn phải là
nhữ ng cơng việc cụ thể, thiết thực, có nội dung, kế hoạch thực
hiện rõ ràng cho từng giai đoạn phát triển nhất định.
Giáo dục chính trị, tư tưởng khơng chỉ đối với đối tượng quản lý
mà cả đối với chủ thể quản lý. Nội dung giáo dục phải thiết
thực, sâu sắc, gắn chặt với sản xuất, công tác và với phương
pháp và hình thức linh hoạt, có chất lượng, phù hợp với đối
tượng.
- Phương pháp tổ chức:
Phương pháp này nhằm đưa con người vào khuôn khổ, kỷ luật
và kỷ cương. Để thực hiện phương pháp này có nhiều việc phải
làm, nhưng quan trọng nhất là phải có quy chế, quy trình, nội
quy hoạt động của cơ quan, đơn vị. Việc bố trí, sử dụng, đề

bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, cơng chức phải
nghiêm túc, chính xác.
- Phương pháp kinh tế:
Phương pháp kinh tế là phương pháp quản lý bằng cách tác
động đến ý thức và hành vi của đối tượng quản lý thông qua
việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế, những biện pháp khen
thưởng, xử phạt thích hợp tác động đến lợi ích của họ. Trong
mọi hoạt động nói chung và hoạt động quản lý hành chính nhà
nước nói riêng, sử dụng hợp lý phương pháp kinh tê sẽ tạo ra
động lực quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý.
- Phương pháp hành chính:


Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý bằng việc ra
các mệnh lệnh rõ ràng, dứt khoát, bắt buộc đối tượng quản lý
phải làm hoặc không được làm những
công việc nhất định vì ý chí và mục tiêu của chủ thể quản lý.
Phương pháp hành chính là phương pháp đặc thù của quản lý
nhà nước, gắn liền với quyền lực và sức
mạnh của nhà nước.
Câu hỏi ơn tập:
1. Trình bày khái niệm, các tính chất và đặc điểm của hoạt động
quản lý hành chính nhà nước ?
2. Trình bày các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước ở nước ta ?
3. Trình bày các hình thức và phương pháp quản lý hành chính
nhà nước ?




×