Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

triet hoc cd dh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.91 KB, 4 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BÀI THẢO LUẬN CHƯƠNG 1
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC DÀNH CHO KHỐI NGÀNH KHXH&NV
Họ và tên học viên: Phạm Tuyết Hạnh
Ngày tháng năm sinh: 03/05/1987
Chuyên ngành: Giáo dục học bậc Mầm non
Khóa học: 27 (2019-2021)
Câu 1: Trình bày các đặc điểm của triết học phương Đông cổ, trung
đại?
Triết học phương Đông cổ, trung đại gồm: triết học ấn Độ cổ, trung đại và
Triết học trung hoa cổ, trung đại
 Về đặc điểm triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Triết học ấn Độ cổ đại có những đặc điểm sau:
Trước hết, triết học ấn Độ là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư
tưởng tôn giáo. Giữa triết học và tơn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học ẩn giấu
sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua bộ kinh Vêda, Upanisad. Tuy nhiên, tơn
giáo của ấn Độ cổ đại có xu hướng "hướng nội" chứ không phải "hướng ngoại" như
tôn giáo phương Tây. Vì vậy, xu hướng trội của các hệ thống triết học - tôn giáo ấn Độ
đều tập trung lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh
tơn giáo nhằm đạt tới sự "giải thoát" tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với
tinh thần vũ trụ (Atman và Brahman).
Thứ hai, các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học có
trước.
Thứ ba, khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số học phái xoay quanh vấn đề
"tính khơng", đem đối lập "khơng" và "có", quy cái "có" về cái "khơng" thể hiện một
trình độ tư duy trừu tượng cao.


Nhận định về triết học ấn Độ cổ, trung đại
Triết học ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn đề của
triết học. Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và
nhân sinh quan, triết học ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và tầm khái quát khá sâu
sắc; đã đưa lại nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng di sản triết học của nhân loại.
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ, trung đại là quan tâm giải
quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tơn giáo với xu hướng "hướng nội", đi tìm
cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói: sự phản tỉnh nhân
sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn Độ cổ, trung đại (trừ
trường phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết triết học này đều biến đổi theo xu
hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên. Phải


chăng, điều đó phản ánh trạng thái trì trệ của "phương thức sản xuất châu á" ở ấn Độ
vào tư duy triết học; đến lượt mình, triết học lại trở thành một trong những nguyên
nhân của trạng thái trì trệ đó!
+ Tư tưởng triết học của Phật giáo (Buddha)
Đạo Phật ra đời vào thế kỷ VI tr. CN. Người sáng lập là Siddharta (Tất Đạt Đa).
Sau này ông được người đời tơn vinh là Sakyamuni (Thích ca Mâu ni), là Buddha
(Phật).
Phật là tên theo âm Hán - Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ. Phật giáo là
hình thức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức Phật, tức từ biển lớn trí
tuệ và từ bi của Siddharta. Kinh điển của Phật giáo gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận
tạng. Phật giáo cũng luận về thuyết luân hồi và nghiệp, cũng tìm con đường "giải
thốt" ra khỏi vòng luân hồi. Trạng thái chấm dứt luân hồi và nghiệp được gọi là Niết
bàn. Nhưng Phật giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ chúng sinh thuộc bất kỳ đẳng cấp
nào cũng được "giải thốt".
Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích nhân
- quả. Theo Phật giáo, nhân - quả là một chuỗi liên tục không gián đoạn và không hỗn
loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân quả này Phật giáo thường gọi là

nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của
một kết quả khác.
Về thế giới tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng khơng thể
tìm ra một ngun nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là khơng có một đấng Tối cao
(Brahman) nào sáng tạo ra vũ trụ. Cùng với sự phủ định Brahman, Phật giáo cũng phủ
định phạm trù([Anatman], nghĩa là khơng có tơi) và quan điểm "vơ thường".
Quan điểm "vô ngã" cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do hội đủ
nhân duyên nên thành ra "có" (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con
người chẳng qua là do "ngũ uẩn" (5 yếu tố) hội tụ lại là: sắc (vật chất), thụ (cảm giác),
tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Như vậy là khơng có cái gọi là "tôi"
(vô ngã).
Quan điểm "vô thường" cho rằng vạn vật biến đổi vơ cùng theo chu trình bất tận:
sinh - trụ - dị - diệt. Vậy thì "có có" - "khơng khơng" ln hồi bất tận; "thống có",
"thống khơng", cái cịn thì chẳng cịn, cái mất thì chẳng mất.
Về nhân sinh quan, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự "giải
thốt" (Moksa) khỏi vịng luân hồi, "nghiệp báo" để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn
[Nirvana]. Nội dung triết học nhân sinh tập trung trong thuyết "tứ đế"- có nghĩa là bốn
chân lý, cũng có thể gọi là "tứ diệu đế" với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt vời.
1. Khổ đế [Duhkha - satya]. Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ, ít nhất có tám
nỗi khổ (bát khổ): sinh, lão (già), bệnh (ốm đau), tử (chết), thụ biệt ly (thương yêu
nhau phải xa nhau), oán tăng hội (oán ghét nhau nhưng phải sống gần với nhau), sở
cầu bất đắc (mong muốn nhưng không được), ngũ thụ uẩn (năm yếu tố uẩn tụ lại nung
nấu làm khổ sở).
2. Tập đế hay nhân đế (Samudayya - satya). Phật giáo cho rằng cuộc sống đau
khổ là có nguyên nhân. Để cắt nghĩa nỗi khổ của nhân loại, Phật giáo đưa ra thuyết


"thập nhị nhân duyên" - đó là mười hai nguyên nhân và kết quả nối theo nhau, cuối
cùng dẫn đến các đau khổ của con người: 1/ Vô minh, 2/ Hành; 3/ Thức; 4/ Danh sắc;
5/ Lục nhập; 6/ Xúc; 7/ Thụ; 8/ ái; 9/ Thủ; 10/ Hữu; 11/ Sinh; 12/ Lão - Tử. Trong đó

"vơ minh" là ngun nhân đầu tiên
3. Diệt đế (Nirodha - satya). Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ có thể tiêu diệt để
đạt tới trạng thái Niết bàn.
4. Đạo đế (Marga - satya). Đạo đế chỉ ra con đường tiêu diệt cái khổ. Đó là con
đường "tu đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo): 1/
Chính kiến (hiểu biết đúng tứ đế); 2/ Chính tư (suy nghĩ đúng đắn); 3/ Chính ngữ (nói
lời đúng đắn); 4/ Chính nghiệp (giữ nghiệp khơng tác động xấu); 5/ Chính mệnh (giữ
ngăn dục vọng); 6/ Chính tinh tiến (rèn luyện tu lập khơng mệt mỏi); 7/ Chính niệm
(có niềm tin bền vững vào giải thốt); 8/ Chính định (tập trung tư tưởng cao độ). Tám
nguyên tắc trên có thể thâu tóm vào "Tam học", tức ba điều cần học tập và rèn luyện là
Giới - Định - Tuệ. Giới là giữ cho thân, tâm thanh tịnh, trong sạch. Định là thu tâm,
nhiếp tâm để cho sức mạnh của tâm không bị ngoại cảnh làm xáo động. Tuệ là trí tuệ.
Phật giáo coi trọng khai mở trí tuệ để thực hiện giải thốt.
Sau khi Siddharta mất, Phật giáo đã chia thành hai bộ phận: Thượng toạ và Đại
chúng. Phái Thượng tọa bộ (Theravada) chủ trương duy trì giáo lý cùng cách hành đạo
thời Đức Phật tại thế; phái Đại chúng bộ (Mahasamghika) với tư tưởng cải cách giáo
lý và hành đạo cho phù hợp với thực tế.
Khoảng thế kỷ II tr. CN xuất hiện nhiều phái Phật giáo khác nhau, về triết học có
hai phái đáng chú ý là phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvaxtivadin) và phái Kinh lượng bộ
(Sautrànstika).
Vào đầu công nguyên, Phật giáo Đại thừa xuất hiện và chủ trương "tự giác", "tự
tha", họ gọi những người đối lập là Tiểu thừa.
ở ấn Độ, Phật giáo bắt đầu suy dần từ thế kỷ IX và hoàn toàn sụp đổ trước sự tấn
công của Hồi giáo vào thế kỷ XII.
* Về đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Ra đời trên cơ sở kinh tế - xã hội Đông Chu, so sánh với triết học phương Tây và
Ấn Độ cùng thời, triết học Trung Hoa cổ, trung đại có những đặc điểm nổi bật:
Thứ nhất, nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư tưởng triết học cổ, trung đại
Trung Hoa, các loại tư tưởng liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học
đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự nhiên có phần

mờ nhạt.
Thứ hai, chú trọng chính trị đạo đức. Suốt mấy ngàn năm lịch sử các triết gia
Trung Hoa đều theo đuổi vương quốc luân lý đạo đức, họ xem việc thực hành đạo đức
như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của
sinh hoạt xã hội. Có thể nói, đây chính là ngun nhân triết học dẫn đến sự kém phát
triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa.
Thứ ba, nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Khi khảo cứu
các vận động của tự nhiên, xã hội và nhân sinh, đa số các nhà triết học thời Tiền Tần
đều nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất


của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục
tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. Nho gia, Đạo gia, Phật giáo... đều phản đối cái
"thái quá" và cái "bất cập". Tính tổng hợp và liên hệ của các phạm trù "thiên nhân hợp
nhất", "tri hành hợp nhất", "thể dụng như nhất", "tâm vật dung hợp"... đã thể hiện đặc
điểm hài hòa thống nhất của triết học trung, cổ đại Trung Hoa.
Thứ tư là tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học
cổ, trung đại Trung Hoa là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể
nghiệm. Cảm nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật
ăn khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà nắm bản
thể trừu tượng. Hầu hết các nhà tư tưởng triết học Trung Hoa đều quen phương thức tư
duy trực quan thể nghiệm lâu dài, bỗng chốc giác ngộ. Phương thức tư duy trực giác
đặc biệt coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, "lấy tâm để
bao quát vật". Cái gọi là "đến tận cùng chân lý" của Đạo gia, Phật giáo, Lý học, v.v.
nặng về ám thị, chỉ dựa vào trực giác mà cảm nhận, nên thiếu sự chứng minh rành rọt.
Vì vậy, các khái niệm và phạm trù chỉ là trực giác, thiếu suy luận lơgíc, làm cho
triết học Trung Hoa cổ đại thiếu đi những phương pháp cần thiết để xây dựng một hệ
thống lý luận khoa học.
Nhận định về triết học Trung Hoa thời cổ, trung đại:
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô

lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của các
nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị - đạo
đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những
biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng
rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mơ hình chế độ qn chủ phong kiến
trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến
phương Đơng.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa thời
cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch
của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy cịn có những hạn chế nhất
định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của
người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này
không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết
học Trung Hoa.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×