Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Vo Huynh Cam Tu GDTHCK6BKTGHP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.1 KB, 5 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC MẦM NON

BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1

Đồng Nai, ngày 27 tháng 11 năm 2018.

GIÁO VIÊN: Th.S: TRẦN DƯƠNG QUỐC HÒA
SINH VIÊN THỰC HIỆN: VÕ HUỲNH CẨM

LỚP: ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TIỂU HỌC C – K6
MSSV: 1171010160

NĂM HỌC 2018 - 2019


Sau 4 tuần được trải nghiệm thực tế tại trường Tiểu học Tam Hiệp B, tôi đã học hỏi
được rất nhiều kinh nghiệm, được tiếp xúc thực tế, trau dồi bản thân về những kĩ năng
cần thiết của một nhà giáo, được làm quen với cách giảng dạy trên lớp. Khơng những
vậy, tơi cịn nắm được phương pháp giảng dạy trong trường Tiểu Học nhằm củng cố
nâng cao kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, học hỏi thêm những kinh nghiệm quý báu ở
thầy cô ở trường. Qua những tiết dự giờ, tiết sinh hoạt chủ nhiệm, những đợt rút kinh
nghiệm tiết dạy, tôi nhận ra rằng Tiếng Việt là một mơn rất quan trọng, hồn tồn đảm
bảo được việc thực hiện các nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
1. Xem xét đánh giá việc thực hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở trường
Tiểu học (Nguyên tắc phát triển tư duy; Nguyên tắc giao tiếp; Nguyên tắc chú
ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH).
Nguyên tắc phát triển tư duy:
- Trong cac tiết dạy, giáo viên đã đảm bảo được các yếu tố hình thành tư duy cho


học sinh, thơng qua các phân mơn:
+ Chính tả: Học sinh tự đưa ra những lưu ý khi viết Chính tả như viết hoa tên riêng,
sau dấu chấm; Học sinh biết được quy tắc viết thể thơ lục bát, … Ví dụ: Nghe- viết:
Cảnh đẹp non sông lớp 3, học sinh tự biết viết hoa các tên riêng; Quy tắc viết thể thơ
lục bát là câu lục lui vào 2 ô li, câu bát lui vào 1 ô li, …
+ Tập đọc: Học sinh sẽ tự thắc mắc nghĩa của từ mới và đưa ra một số kỹ năng sống
được thông qua các bài tập đọc. Giáo viên sẽ đưa ra một số câu hỏi nhằm nâng cao
nhận thức và khả năng tư duy của học sinh. Ví dụ: Sau khi học xong bài tập đọc
“Cửa Tùng” lớp 3, học sinh sẽ thắc mắc bãi biển Cửa Tùng nằm ở đâu? – Cửa Tùng
thuộc Thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, nơi đây được mệnh
danh là “Bà Chúa của các bãi tắm”. Học sinh tự đưa ra kỹ năng sống sau khi học bài
tập đọc: Biết bảo vệ mơi trường, giữ gìn cảnh quan nơi cơng cộng, … Vì sao bãi
biển Cửa Tùng được mệnh danh “Bà Chúa của các bãi tắm”?
+ Tập làm văn: Học sinh có thể sáng tạo trong bài viết của mình. Ví dụ: Viết về một
cảnh đẹp ở nước ta. Học sinh có thể sáng tạo làm cho bài văn của mình trở nên sinh
động hơn.
+ Luyện từ và câu: Học sinh biết cách đặt câu: Ai làm gì? Ai là gì? Biết phân biệt
được các từ sử dụng ở từng vùng miền khác nhau. Ví dụ: Sau khi học bài: Mở rộng
vốn từ địa phương lớp 3, học sinh biết được các từ được sử dụng ở miền Bắc, miền
Nam và miền Trung. Từ đó kích thích sự tị mị của học sinh, giúp học sinh sẽ tìm tịi
học hỏi thêm các từ được sử dụng ở các vùng miền.


Nguyên tắc giao tiếp:
- Thông qua các tiết dạy, giáo viên đã đảm bảo nguyên tắc này được thực hiện trong
quá trình giảng dạy:
+ Giao tiếp giữa giáo viên với học sinh: Thông qua các bài học, giáo viên đặt câu hỏi
học sinh trả lời, học sinh thắc mắc bài học giáo viên giải đáp thắc mắc của học sinh,
giáo viên nhận xét và khen ngợi học sinh.
+ Giao tiếp giữ học sinh với học sinh: Thông qua các bài học, giáo viên cho học sinh

thảo luận nhóm đơi, nhóm lớn, … Việc thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, phát hiện lỗi và tự chữa lỗi. Ví dụ: Thơng qua
phân mơn Tập đọc và Luyện từ và câu, mỗi học sinh sẽ có những câu trả lời của
riêng mình, việc thảo luận nhóm sẽ giúp các em trao đổi ý kiến, phất hiện chỗ chưa
đúng của bạn mình, từ đó giúp học sinh có thể nhận xét bạn mình, thống nhất ý kiến
với nhóm và đưa ra ý kiến của bản thân.
Ngun tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH:
- Thơng thường qua các tiết Tập đọc, khi cho học sinh đọc các câu dài hay cả bài
giáo viên rất ít khi mời học sinh đọc chậm hoặc tư duy chậm vì việc này sẽ làm mất
thời gian, giáo viên thường sẽ dành thời gian ra chơi hay ngoài giờ lên lớp để giúp
các em luyện đọc và chữa lỗi phát âm. Bên cạnh đó, giáo viên sẽ mời các em đọc các
câu ngắn và trả lời các câu hỏi theo từng mức độ tăng dần, việc này sẽ giúp các em
tự tin hơn, rèn luyện được kỹ năng đọc và phát triển khả năng tư duy của các em.
- Về Chính tả, một số học sinh còn phát âm sai, viết sai lỗi Chính tả thì giáo viên sẽ
chú ý đến các em này và chữa lỗi cho các em. Điều này sẽ giúp các em rèn luyện kỹ
năng phát âm của mình, cẩn thận hơn.
- Đầu tiết học và cuối tiết học, giáo viên thường tổ chức ca hát, chơi trò chơi nhằm
kiểm tra kiến thức cũ và củng cố bài mới. Điều này giúp các em thích thú hơn trước
và sau bài học. Trong quá trình tiết học, giáo viên thường dung những lời khen, lời
động viên giúp các em tập trung hơn và có thêm động lực để học bài tốt hơn.
- Với các học sinh rụt rè: Giáo viên sẽ chú ý động viên, khen ngợi các em giúp cac
em tự tin hơn trong học tập cũng như cuộc sống hàng ngày.
- Với các học sinh thường hiều động làm mất trật tự lớp học: Giáo viên sẽ chú ý cho
các em tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét câu trả lời của bạn, đông thời, cho bài học
hơn.
 Hiện nay, các tiết dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học được dạy học theo tiêu chí 1
tiết dạy tích cực, đổi mới phương pháp dạy học theo thơng tư 22 hợp nhất văn
bản 03.



- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên lấy học sinh làm trung tâm.
- Trong tiết học, giáo viên đưa ra các câu hỏi với mức độ tăng dần từ biết đến vận
dụng (biết, hiểu, thực hành, vận dụng).
- Về nội dung bài học, giáo viên có thể điều chỉnh, thay thế hình thức dạy học nếu
có. Ví dụ: Trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3, bài “Mở rộng vốn từ: Từ ngữ chỉ
quê hương. Ôn tập câu: Ai làm gì?”, thơng thường giáo viên sẽ cho mời học sinh đặt
câu “Ai làm gì?”, giáo viên có thể thay thế bằng cách cho học sinh chơi trò chơi
“Bắn tên”. Từ đó giúp học sinh thích thú hơn và tập trung học hơn khi tiết học được
lồng ghép.
- Phân mơn Tập đọc, giáo viên có thể đưa thêm các câu hỏi ngoài: Qua bài học trên,
em học được những gì?
- Về phân mơn Tập làm văn, giáo viên rèn cho học sinh tính sáng tạo khi viết văn,
hạn chế học sinh viết rập khn, máy móc phụ thuộc sách giải. Ví dụ: Giáo viên cho
học sinh làm trực tiếp trên lớp, lấy một số bài để chữa lỗi và sưu tầm vào chủ đề năm
học để các em có thể tham khảo.
2. Các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận thực tế với các tiết dạy học
Tiếng Việt ở các trường Tiểu học.
 Bên cạnh việc học hỏi những kinh nghiệm giảng dạy từ các giáo viên phổ thông
thông qua các tiết dạy mẫu, các tiết dự giờ, bản thân em có những thắc mắc khi lần
đầu được tiếp cận với thực tế, em cảm thấy những điều học ở trường Đại học có vài
điểm khác biệt với thực tế ở trường Tiểu học:
- Đầu tiên, việc soạn giáo án: ở trường Tiểu học được soạn chi tiết hơn giáo án được
hướng dẫn ở trường Đại học. Ví dụ: Từng lời nói, câu chữ, câu lệnh giáo viên nói
với học sinh như thế nào đều được ghi rõ và chi tiết vào giáo án.
- Giáo viên cịn phụ thuộc qua nhiều vào sách giáo khoa. Ví dụ: phân mơn Chính tả,
Luyện từ và câu, giáo viên vẫn cịn cho học sinh nhìn sách và làm các bài tập trong
sách, chưa đưa thêm các bài tập ngoài vào bài học. Điều này phù hợp với 1 tiết đạy
tích cực khơng ạ?
- Giáo viên thường ít trình bày nội dung trên bảng (trừ phân mơn Chính tả, Tập đọc).
Điều này có nên hay khơng?

- Khi cho học sinh thảo luận nhóm, giáo viên thường cho học sinh làm việc cá nhân
sau đó mới thảo luận nhóm (Phương pháp khăn trải bàn). Điều này có tác dụng gì?
Có thể bỏ qua bước làm việc cá nhân mà cho học sinh làm việc nhóm được khơng?
Nếu bỏ qua bước làm việc cá nhân thì có ảnh hưởng gì đến phương pháp dạy học
không?


- Trong q trình giảng dạy, giáo viên thườn ít dạy theo giáo án đã soạn, gióa viên
thường bỏ qua các bước sau: Kiểm tra kiến thức cũ, viết bảng con, củng cố bài cũ,
củng cố bài mới. Điều này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến học sinh? Liệu 35 phút có
đủ cho tất cả các hoạt động dạy và học? Và học sinh tiếp thu bài học có đảm bảo mà
mục tiêu đặt ra không?
- Giáo viên thường chọn bảng của học sinh làm đúng vì chọn bảng học sinh làm sai
sẽ mất thời gian và học sinh tự chữa lỗi sai. Điều này có nên khơng?
 Bên cạnh những thắc mắc trên thì bản thân em cịn đưa ra một số giải pháp của
mình để giải quyết các vấn đề:
- Giáo viên cần kết hợp chọn bài làm sai, bài làm đúng của học sinh và có lời khen
khéo léo đến cả hai bài. Từ đó, các em đều cảm nhận được sự quan tâm của giáo
viên để các em cố gắng và phát huy.
- Giáo viên nên điều chỉnh hình thức dạy ở một số phân môn nhằm phát triển khả
năng tư duy và khả năng giao tiếp ở học sinh. Ví dụ: Ở phân mơn Luyện từ và câu,
phân mơn Chính tả khi cho học sinh làm bài tập, giáo viên cho học sinh làm nhóm
hoặc chơi trị chơi thay vì làm cá nhân, giáo viên hỏi học sinh trả lời cá nhân. Ở phân
môn Chính tả, giáo viên cần cho học sinh có thời gian trao đổi bài với nhau để chữa
lỗi sai.
 Phần trình bày về việc nhận xét, đánh giá các tiết học Tiếng Việt ở trường Tiểu
học qua chuyến đi thực tế lần này cũng như những thắc mắc, băn khoăn mà em
còn nhiều điều chưa hiểu, chưa biết. Và một số giải pháp mà em đưa ra còn
nhiều điều thiếu sót. Kinh mong thầy xem xét giải đáp các thắc mắc và chỉnh sửa
những điều thiếu sót trong bài. Em xin chân thành cảm ơn!


Đồng Nai, ngày 27 tháng 11 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Võ Huỳnh Cẩm Tú



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×