Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

TIỂU LUẬN môn PHÁP LUẬT về ĐĂNG ký GIAO DỊCH bảo đảm đề tài PHÁP LUẬT về bảo LÃNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.78 KB, 9 trang )

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
ĐỀ SỐ 5
TÊN ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH
Họ tên sinh viên: Trần Lê Vương Phi

Lớp: TB105

Mã số SV: 341810051
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng, với xu thế hội nhập quốc tế ngày
càng được quan tâm, chú trọng, đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng
nâng cao chất lượng, mở rộng quy mơ vốn hóa. Song với nguồn vốn hạn hẹp của một số
doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì đây được xem là một bài tốn nan giải. Để có được nguồn
kinh phí phụ vụ cho sản xuất, kinh doanh thì các doanh nghiệp nói riêng, cũng như các cá
nhân, tổ chức nói chung sẽ phải vay vốn từ các ngân hàng thương mai. Mặc khác, các
doanh nghiệp cũng như các cá nhân tổ chức, chưa tạo được uy tín để được vay vốn từ
ngân hàng, lúc này họ cần một chủ thể thức ba đứng ra thực hiện bảo lãnh cho họ.
Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm được sử dụng phổ biến hiện nay được quy định trong
Bộ luật dân sự năm 2015. Đây được xem là một hình thức bảo đảm tin cậy, được sử dụng
rộng rãi trong đời sống, cũng như trong quan hệ sản xuất, kinh doanh. Pháp luật dân sự
hiện hành cơ bản đã quy định một cách rõ ràng về hình thức bảo lãnh. Tuy nhiên, nhằm
đáp ứng được tình hình hiện tại của thị trường, thì pháp luật về quan hệ bảo lãnh cần
được đưa ra nguyên cứu, đánh giá, nhằm hướng đến sự hồn thiện về mặt pháp luật.
Chính vì điều này cho nên tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về bảo lãnh” làm để tài
nguyên cứu, nhằm hướng đến sự hoàn thiện về mặt pháp luât của biện pháp bảo đảm này.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục đích nguyên cứu đề tài nhằm làm rõ được một số vấn đề liên quan đến lý luận và
thực tiễn của biện pháp bão lãnh, từ đó đưa ra được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
quy định của pháp luật về bão lãnh.


PHẦN 2: LÝ LUẬN
2.1 Một số vấn đề lý luận về bảo lãnh
2.1.1 Khái niệm về bảo lãnh:
Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ, nếu khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ khơng thực hiện
hoặc thực hiện khơng đúng, thì bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa
vụ, nếu đã có thỏa thuận.
2.1.2 Đặc điểm của bảo lãnh:
+ Thứ nhất, về mặt chủ thể:


Quan hệ bảo lãnh luôn tồn tại bên thứ ba, tức bên bảo lãnh, chính vì vậy chủ thể trong
quan hệ này ln tồn tại ít nhất 03 chủ thể tham gia, đó là, bên bảo lãnh, bên được bảo
lãnh, và bên nhân bảo lãnh.
+ Thứ hai, về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:
Pháp luật dân sự quy định việc bảo lãnh chỉ xảy ra khi bên được bảo lãnh tới thời hạn
thực hiện nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đủ, hoặc bên được bảo lãnh
mất khả năng thực hiện nghĩa vụ, lúc bên bảo lãnh mới thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
được bảo lãnh.
2.2 Pháp luật về biện pháp bảo lãnh
2.2.1 Khái niệm về pháp luật bảo lãnh:
Pháp luật về bảo lãnh là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước quy định về hình
thức bảo lãnh bảo gồm có các nội dung chính như: phạm vi bảo lãnh, điều kiện của người
bảo lãnh, trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp bảo lãnh, nhằm mục đích bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trước bên có quyền lợi ích liên quan.
2.2.2 Nội dung pháp luật về bảo lãnh:
+ Về chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh:
Chủ thể tham gia trong quan hệ bảo lãnh gồm có 03 chủ thể chính sau đây:
 Chủ thể bảo lãnh;
 Chủ thể nhận bảo lãnh;

 Chủ thể được bảo lãnh.
+ Về đối tượng bảo lãnh:
Đối tượng của quan hệ bảo lãnh có thể là tài sản cũng có thể là cơng việc phải thực hiện,
điều này tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ bảo lãnh. Mặt khác,
trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận về đối tượng bảo lãnh, thì đối tượng bảo
lãnh phải cùng loại với đối tượng được bảo đảm bằng biện pháp đó.
+ Về hình thức bảo lãnh:
Việc bảo lãnh phải được thực hiện bằng văn bản, các bên tham gia có thể lập thành một
văn bản riêng cho từng bên, hoặc có thể quy định trong hợp đồng dân sự. Nếu trong
trường hợp, pháp luật quy định văn bản cần có cơng chứng, chứng thực thì phải được
cơng chứng, chứng thực.
+ Về phạm vi bảo lãnh:
Hiện nay, pháp luật dân sư quy định cho phép các bên khi tham gia quan hệ bảo lãnh,
được quyền thỏa thuận phạm vi bảo lãnh toàn phần hay bảo lãnh một phần.
Nếu trong trường hợp các bên thỏa thuận bảo lãnh một phần, thì bên bảo lãnh chỉ nhận
bảo lãnh một phần nghĩa vụ trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện, hoặc
thực hiện không đủ, nếu trường hợp bên bảo lãnh nhận bảo lãnh toàn phần, thì bên bảo
lãnh có nghĩa vụ bảo lãnh tồn bộ nghĩa vụ, kèm theo lãi xuất (nếu có).
+ Về căn cứ phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh:


Pháp luật dân sự quy định bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi có căn
cứ phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh theo thỏa thuận, hoặc nếu khơng có thỏa thuận thì sẽ căn
cứ theo các trường hợp sau đây:
 Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ, mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đủ;
 Bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn khi không thực hiện đúng
nghĩa vụ, mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đủ;
 Bên được bảo lãnh không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ.
+ Về căn cứ chấm dứt bảo lãnh:

Pháp luật quy định việc bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
 Đương nhiên chấm dứt, tức khi nghĩa vụ thực hiện xong;
 Biện pháp bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng các biện pháp bảo lãnh
khác;
 Bên bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh;
 Các bên có thỏa thuận chấm dứt bảo lãnh.
PHẦN 3: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Thực trạng quy định pháp luật về bảo lãnh:
- Về phạm vi bảo lãnh:
Hiện nay, phạm vi bảo lãnh được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 cụ thể tại Điều
336 quy định:
 Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc tồn bộ nghĩa vụ cho bên được
bảo lãnh;
 Nghĩa vụ bảo lãnh gồm có cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt
hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
 Các bên có thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm nghĩa vụ
bảo lãnh;
 Trường hợp nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo
lãnh gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh
chấm dứt tồn tại.
Như vậy, pháp luật dân sự quy định phạm vi bảo lãnh được hiểu là giới hạn của nghĩa vụ
mà ở đây bên bảo lãnh phải thực hiện thay cho bên được bảo lãnh, khi xảy ra trường hợp
bên được bảo lãnh không thực hiện được, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ như đã thỏa thuận. Mặt khác bên bảo lãnh được pháp luật cho phép có thể nhận
bảo lãnh một phần hoặc bảo lãnh từng phần hoặc tùy theo sự thỏa thuận của các bên. Nếu
trong trường hợp nhận bảo lãnh toàn phần, thì việc bảo lãnh sẽ bao gồm ln nợ gốc, lãi,
lãi chậm trả, bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, một vướng mắc xảy ra đối với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 đó là,
đã quy định hình thức bảo lãnh đối vật song lại còn thừa nhận hình thức cầm cố, thế chấp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Điều này đã vơ tình xóa nhịa đi mõi ranh giới đã đặt ra

trước đây, xóa bỏ đi sự phân biệt giữa, cầm cố, thế chấp và bảo lãnh như đã được quy
định tại Bộ luật dân sự năm 2005.


- Về chủ thể trong quan hệ bảo lãnh:
Theo như Bộ luật dân sự năm 2015 quy định thì hiện nay chủ thể trong quan hệ bảo lãnh
gồm có 03 chủ thể sau:
+ Bên bảo lãnh:
Bên bảo lãnh có thể là cá nhân, tổ chức, pháp nhân được quy định theo pháp luật về điều
kiện để được bảo lãnh;
+ Bên nhận bảo lãnh:
Bên nhận bảo lãnh là cá nhân, tổ chức có quyền và lợi ích hoặc tài sản làm phát sinh quan
hệ giữa các bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh;
+ Bên được bảo lãnh:
Bên được bảo lãnh là cá nhân, tổ chức phát sinh quan hệ vay, mượn,..
Hiện nay, pháp luật dân sự trao quyền cho bên nhận bảo lãnh có quyền đưa ra quyết định
lựa chọn bên bảo lãnh, điều này nhằm bảo đảm được khả năng thực hiện nghĩa vụ của các
bên. Bên nhận bảo lãnh lựa chọn bên bảo lãnh khi có các điều kiện sau:
 Bên bảo lãnh phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự nếu bên
bảo lãnh là cá nhân, nếu bên bảo lãnh là pháp nhân thì phải có năng lực dân sự và
người đại diện hợp pháp;
 Bên bảo lãnh phải chứng minh năng lực về việc có khả năng thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh;
 Bên bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trước bên nhận bảo lãnh, nếu trong trường hợp
có nhiều người bảo lãnh thì tất cả đều cùng chịu trách nhiệm.
- Về quyền và nghĩa vụ các bên tham gia quan hệ bảo lãnh:
Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ bảo lãnh được pháp luật dân sự quy
định một cách rõ ràng như sau:
+ Thứ nhất, Quyền của bên bảo lãnh
Bên bảo lãnh có các quyền sau đây:

 Bên bảo lãnh có quyền như trong quan hệ cầm cố, thế chấp. Trong trường hợp bên
bảo lãnh dùng tài sản để cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh, thì bên bảo lãnh có các quyền và lợi ích như trong quan hệ cầm
cố, thế chấp tài sản;
 Bên bảo lãnh được pháp luật cho phép phản đối việc bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên
được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn. Trong trường hợp phát sinh
căn cứ thực hiện nghĩa vụ vì lý do bên được bảo lãnh vi phạm thỏa thuận, thì bên
nhận bảo lãnh có trách nhiệm thơng báo cho bên bảo lãnh biết để thực hiện nghĩa
vụ, khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng;
 Bên bảo lãnh có quyền khơng thực hiện nghĩa vụ khi trong trường hợp nghĩa vụ
giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ cho nhau, điều này có nghĩa
là, bên nhận bảo lãnh cũng có nghĩa vụ cần thực hiện với bên bảo lãnh. Nếu khi hai
nghĩa vụ tương đương với nhau thì cả hai có thể bù trừ cho nhau, trong trường hợp


nghĩa vụ thực hiện ít hơn thì tùy vào phần nghĩa vụ bù trừ chưa hết, các bên có
nghĩa vụ tiếp tục thực hiện cho bên còn lại.
 Bên bảo lãnh được quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với
mình như nghĩa vụ về tài sản,… nếu trong trường hợp cả hai có thỏa thuận từ trước.
+ Thứ hai, Nghĩa vụ của bên bảo lãnh:
Bên bảo lãnh có các nghĩa vụ như sau khi tham gia vào quan hệ bảo lãnh đó là:
 Có nghĩa vụ thay mặt bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo
lãnh, khi xảy ra các trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện, thực hiện
khơng đúng, hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ;
 Bên bảo lãnh có nghĩa vụ như trong quan hệ cầm cố, thế chấp khi bên được bảo
lãnh dùng tài sản để thực hiện quan hệ bảo lãnh;
 Bên bảo lãnh có trách nhiệm dân sự theo Điều 342 Bộ luật dân sự năm 2015
+ Thứ ba, Quyền của bên nhận bảo lãnh:
Bên nhận bảo lãnh có các quyền sau đây khi tham gia vào quan hệ bảo lãnh
 Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho bên được bảo lãnh;

 Bên nhận bảo lãnh có các quyền như trong quan hệ cầm cố, thế chấp, khi trong
trường hợp bên bảo lãnh dùng tài sản để cầm cố, thế chấp để thực hiện bảo lãnh;
 Bên nhận bảo lãnh có quyền u cầu tịa án thực hiện các biện pháp áp dụng khẩn
cấp với tài sản mà bên bảo lãnh cầm cố, thế chấp, nếu trong trường hợp bên bảo
lãnh không thực hiện nghĩa vụ khi được bên nhận bảo lãnh thông bảo;
 Bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu, cá nhân, tổ chức cản trở quyền thực hiện
quyền của mình chấm dứt hành vi trên.
+ Thứ tư, Nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh có nghĩa vụ như trong quan hệ cầm cố, thế chấp tài sản khi bên bảo
lãnh dùng tài sản để cầm cố, thế chấp để thực hiện việc bảo lãnh.
- Về hình thức bảo lãnh:
Pháp luật dân sự quy định trong mọi trường hợp thì việc bảo lãnh phải được lập thành
văn bản, có thể là văn bản riêng hoặc hợp đồng độc lập.
Bên cạnh đó, trong những trường hợp pháp luật có quy định thì việc lập văn bản, hợp
đồng bảo lãnh cần thiết phải có cơng chứng, chứng thực.
Thời điểm để thực hiện việc lập văn bản, hoặc ký hợp đồng xảy ra trong các thời điểm
sau đây:
 Sau khi bên nhận bảo với bên được bảo đảm phát sinh quan hệ dân sự;
 Trước khi bên nhận bảo đảm và bên được bảo đảm phát sinh quan hệ dân sự;
 Việc ký kết hợp đồng hoặc thành lập văn bản xảy ra cùng lúc với quan hệ trên.
- Về căn cứ chấm miễn hoặc chấm dứt việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:
Căn cứ vào Điều 341 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định việc bảo lãnh được miễn thực
hiện khi phát sinh các sự kiện sau:


 Bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện bảo lãnh đối với bên bảo lãnh, trường hợp
này bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh;
 Trường hợp một trong số những người đồng bảo lãnh được miễn phần bảo lãnh của
mình, thì các bên đồng bảo lãnh còn lại vẫn tiếp tục thực hiện phần nghĩa vụ của
mình đối với bên nhận bảo lãnh;

 Trường hợp bên nhận bảo lãnh liên đới miễn nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh,
thì bên bảo lãnh vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình đối với bên
cịn lại, tức trong trường hợp này có nhiều bên tham gia nhận bảo lãnh.
Bên cạnh đó, Theo quy định tại Điều 343 Bộ luật dân sự năm 2015, thì pháp luật dân sự
cịn quy định thêm các trường hợp được chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh đó là:
 Bên bảo lãnh đã thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh, trường hợp này được xem là
chấm dứt đương nhiên, khi bên bảo lãnh đã thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ của mình
đối với bên nhận bảo lãnh thì lúc này quan hệ bảo lãnh sẽ đương nhiên chấm dứt;
 Việc bảo lãnh được hủy bỏ, hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác, pháp
luật dân sự cho phép thay thế biện pháp bảo lãnh bằng các biện pháp bảo đảm khác;
 Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt.
3.2 Những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân
3.2.1 Ưu điểm trong những quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh
- Thứ nhất, ưu điểm về chủ thể trong quan hệ bảo lãnh,
Hiện nay pháp luật dân sự không hạn chế số lượng chủ thể tham gia vào quan hệ bảo
lãnh, bên cạnh đó, pháp luật cũng khơng u cầu bên bảo lãnh có tư cách chủ thể hoặc tài
sản bảo đảm, điều này tạo thuận tiện giúp các bên tham gia một cách tự do, dựa theo sự
thỏa thuận của các bên. Chính vì thế, quy định mở này đã tháo gỡ được phần nào các khó
khăn vướng mắc của các bên tham gia quan hệ bảo lãnh, giúp đưa nó trở thành một biện
pháp bảm đảm thực hiện nghĩa vụ được sử dụng ngày càng phổ biến.
- Thứ hai, pháp luật quy định hình thức chế tài đối với tài sản của bên bảo lãnh, nếu như
trong trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, điều này giúp bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo lãnh.
3.2.2 Những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh
Bên cạnh những ưu điểm của hình thức bảo lãnh nói trên, thì bên cạnh đó biện pháp bảo
lãnh trong q trình thực hiện thể hiện một số hạn chế, bất cập như sau:
- Thứ nhất, “vướng mắc của quan hệ bảo lãnh, đó là sự phức tạp và đơi khi chưa phân
định rõ ranh giới trách nhiệm của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh trong các quy định
pháp luật. Một số quy định pháp luật hướng dẫn thiên về định tính nhiều hơn định lượng.
Trong một số vụ tranh chấp liên quan đến quan hệ bảo lãnh, người được bảo lãnh khơng

thực hiện hết trách nhiệm của mình và đẩy hết rủi ro cho bên bảo lãnh. Quy định tại Ðiều
41 Nghị định 160/2006, tại khoản 2 và 3, căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ngay cả khi
nghĩa vụ chưa đến hạn (điều này sẽ khiến cho bên bảo lãnh rơi vào thế bị động) hoặc bên
được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Vậy, căn cứ để xác định thời điểm
trước khi đến hạn hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ sẽ có ý nghĩa định tính. Vì
việc xác định “thời điểm trước khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ” và “khơng có khả năng
thực hiện nghĩa vụ” theo khoản 2, 3, Ðiều 41 Nghị định 160/2006 được thể hiện dựa trên


những tiêu chí nào là điều khơng đơn giản. Nếu bên bảo lãnh không nghiên cứu kỹ các
quy định pháp luật, vì “nể” mà đứng ra bảo lãnh sẽ rất có thể sẽ phải chịu rủi ro. Việc quy
trách nhiệm cho bên bảo lãnh vơ hình chung sẽ làm giảm trách nhiệm của bên được bảo
lãnh.
Ví dụ: Cơng ty A bảo lãnh cho Cơng ty B vay vốn (có tài sản thế chấp bảo đảm cho
nghĩa vụ bảo lãnh). Ðến hạn, Công ty A không trả được nợ, Công ty B bị ngân hàng khởi
kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, tại thời điểm không trả được nợ, Cơng
ty A vẫn hồn tồn có đầy đủ năng lực tài chính để thanh tốn khoản vay, nhưng đã cố
tình khơng trả để đẩy trách nhiệm cho người bảo lãnh. Do vậy, với các quy định pháp luật
hiện hành, có nhiều yếu tố “tiềm ẩn rủi ro” cho bên bảo lãnh nên trước khi đứng ra nhận
bảo lãnh, bên liên quan nên nghiên cứu đầy đủ và quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của
mình để đưa vào hợp đồng bảo lãnh.”
- Thứ hai, vướng mắc trong việc xác định pháp luật đối với quan hệ bảo lãnh là quan hệ
dân sự hay quan hệ thương mại, trong trường hợp hình thức bảo lãnh đối với hợp đồng
vay tín dụng.
Điều này thể hiện bất cập ở chỗ, khi xác định sai quan hệ thì sẽ dẫn đến việc áp dụng sai
các chế tài, bồi thường. Bởi lẽ, có quan điểm cho rằng hợp đồng vay tín dụng là hợp đồng
dân sự, bởi vì trong Luật thương mai khơng có quy định về loại hợp đồng này, mặt khác
quan điểm trên cho rằng quan hệ thương mại là phải phải nhằm mục đích sinh lợi nhuận,
song quan hệ vay tín dụng chỉ lấy lãi suất cố định chứ khơng tạo ra được lợi nhuận. Tuy
nhiên, có quan điểm lại cho rằng hợp đồng vay tín dụng là quan hệ thương mại, vì các

chủ thể tham gia đều là thương nhân với thương nhân, hoặc thương nhân với cá nhân,
ngay đến bản thân tổ chức tín dụng cho vay cũng là thương nhân, và lãi suất chính là lời
nhuận sinh ra. Câu hỏi đặt ra ở đây là, biện pháp bảo lãnh có được điều chỉnh theo luật
thương mại hay không?
- Thứ ba, vướng mắc xảy ra đối với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 đó là, đã quy
định hình thức bảo lãnh đối vật song lại cịn thừa nhận hình thức cầm cố, thế chấp để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ. Điều này đã vô tình xóa nhịa đi mõi ranh giới đã đặt ra trước
đây, xóa bỏ đi sự phân biệt giữa, cầm cố, thế chấp và bảo lãnh như đã được quy định tại
Bộ luật dân sự năm 2005
3.2.3 Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, vướng mắc
- Nguyên nhân thứ nhất: Quy định của pháp luật dân sự về biện pháp bảo lãnh mặc dù đã
quy định rõ ràng, xong trong quá trình áp dụng cịn những thíu xót, vướng mắc chính vì
thế đã dẫn đến những hạn chế nêu trên.
- Nguyên nhân thứ hai: Nguyên nhân đến từ các chủ thể tham gia vào quan hệ bảo lãnh,
khi tham gia vào quan hệ bảo lãnh, đặc biệt là bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh, không
nắm vững được kiến thức pháp luật, cho nên trong quá trình giao kết, thực hiện có nhiều
sai phạm, dẫn đến những bất cập trong q trình thực hiện.
3.3 Một số kiến nghị hồn thiện quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh
Dựa trên những nguyên nhân và bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật về biện
pháp bảo lãnh tác giả xin trình bày một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về bảo
lãnh.


- Thứ nhất, kiến nghị pháp luật cần thiết phải quy định về trách nhiệm liên đới giữa bên
được nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh.
Như đã trình bày, việc trong một số trường hợp bên được bảo lãnh đùn đẩy, hoặc cố tình
khơng thực hiện việc thực hiện nghĩa vụ, việc này vơ hình dung đã gây bất lợi cho bên
bảo lãnh, chính vì vậy, cần thiết pháp luật quy định về trách nhiệm liên đới, đối với bên
được bảo lãnh, để bên được bảo lãnh thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ của mình với bên nhận
bảo lãnh, khi vẫn còn khả năng thực hiện nghĩa vụ.

- Thứ hai, kiến nghị pháp luật cần thiết có quy định hướng dẫn cụ thể hơn về việc hợp
đồng vay tin dụng là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại, để từ đó có sự thống
nhất trong cách hiểu, cách áp dụng để trách sai phạm đáng tiếc xảy ra.
- Thứ ba, kiến nghị pháp luật cần quy định trở lại áp dụng biện pháp bảo đảm như Bộ luật
dân sự năm 2005 quy định, điều này có nghĩa là thay vì chỉ có một biện pháp cầm cố
hoặc thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ cho người khác, thì nay sẽ phải thực hiện lồng ghép
đồng thời 2 biện pháp bảo lãnh cho nghĩa vụ của người khác vòng qua biện pháp cầm cố
hoặc thế chấp.
- Thứ tư, kiến nghị pháp luật cần ra soát, bãi bỏ các quy định chưa hợp lý trong quan hệ
bảo lãnh, cần quy định một cách rõ ràng hơn, trách quy định một cách chung chung.
PHẦN 4: KẾT LUẬN
Bảo lãnh là một biện pháp thực hiện bảo đảm được sử dụng một cách rộng rãi hiện nay,
nó cũng được xem là một biện pháp bảo đảm tối ưu, an toàn cho các bên tham gia. Đề tài
“Pháp luật về bảo lãnh” tác giả đã thành công khái quát được cơ sở lý luận về hình thức
bảo lãnh, bên cạnh đó nêu ra được những quy định pháp luật hiện hành quy định về hình
thức bảo lãnh. Từ đó có cái nhìn tổng quan về thực trang quy định của pháp luật đối với
hình thức bảo lãnh, những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân cũng được tác giả đề cập trong
phạm vi đề tài này. Mặc khác, bên cạnh việc phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp
luật về biện pháp bảo lãnh thì qua đó tác giả đã trình bày được một số kiến nghị hoàn
thiện quy định pháp luật về bảo lãnh, nhằm mục đích hồn thiện hơn về hình thức bảo
đảm này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc Hội (2013), Bộ luật dân sự năm 2015;
2. Đại học luật thành phố Hồ Chính Minh “Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, “Nhà xuất bản Hồng Đức Hội Luật Gia Việt Nam”
3. “Một số vướng mắc pháp lý về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”,
“MỘT SỐ VƯỚNG MẮC PHÁP LÝ VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ DÂN SỰ (luatthienthanh.vn)”, truy cập ngày 17/11/2021.



4. THS Nguyễn Thùy Trang, “Một số nội dung pháp lý liên quan đến biện pháp bảo lãnh
đối với hợp đồng tín dụng hiện nay”, “NHNN - nguyen thuy trang.doc (sbv.gov.vn)”,
truy cập ngày 17/11/2021
5. Nguyễn Thị Thanh Thúy- Luật kinh tế “Bảo lãnh để bảo đảm tiền vay của ngân hàng
thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay”



×