Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận Tìm hiểu việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia ở Việt Nam trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.62 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên, bởi nó
được sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế
lại như máu lưu thơng trong cơ thể con người. Khơng khó khăn nếu muốn chứng
minh về vấn đề này, vì chính phản ứng của thị trường đối với những thay đổi của
chính sách tiền tệ sẽ là biểu hiện rõ nhất về những tác động của chính sách tiền tệ
đối với nền kinh tế. Sự suy giảm và khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ “đại
dịch” về cho vay bất động sản ở Mỹ là minh chứng rõ nhất cho thấy những tác
động từ chính sách tiền tệ khơng chỉ mang lại sự tăng trưởng kinh tế mà cịn có
thể mang lại hiểm họa cho cả thế giới. Từ năm 2015 đến nay thế giới liên tiếp
ghi nhận những sự kiện quan trọng như Brexit, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED)
quyết định tăng lãi suất cơ bản USD, Trung Quốc phá giá đồng NDT,… Vì vậy,
nhìn nhận và đánh giá việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia là rất quan trọng.
Do vậy, em xin phép chọn đề tài: Tìm hiểu việc thực thi chính sách tiền tệ quốc
gia ở Việt Nam trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp
lý.
NỘI DUNG
1. Chính sách tiền tệ quốc gia với vai trò của Ngân hàng nhà nước
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Chính sách tiền tệ quốc
gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ
tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục
tiêu đề ra”1.

1

Điều 3 khoản 1 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010

0



Nói đến tiền là nói đến sự ổn định của tiền, mà sự ổn định của tiền liên
quan mật thiết và chịu sự ràng buộc bởi hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng.
Thơng qua các thao tác của mình, Ngân hàng trung ương có thể làm thay đổi
tiền tệ trên tất cả các mặt: lưu lượng, chi phí, giá trị… Tồn bộ các thao tác có
liên quan đến tiền của Ngân hàng trung ương luôn nằm trong hệ thống những ý
đồ mang tính chiến lược mà người ta gọi là chính sách tiền tệ. Như vậy chính
sách tiền tệ quốc gia được hiểu là tổng thể những cách thức, biện pháp mà Nhà
nước sử dụng trên cơ sở được thể chế hóa bằng pháp luật nhằm điều hịa khối
cung tiền tệ trong lưu thông sao cho phù hợp với nhu cầu về tiền tệ của xã hội
trong giai đoạn nhất định. Nói như vậy có nghĩa rằng chính sách tiền tệ quốc gia
đồng nghĩa với chính sách bình ổn sức mua (hay giá trị) của đồng tiền nội địa.
Nếu chính sách tài chính tập trung vào thành phần, kết cấu các mức chi phí, thuế
khố của Nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào việc giải
quyết khả năng thanh tốn cho tồn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp
ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín
dụng đáp ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tiền
tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng khác, cùng với việc xác
định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại, hướng
tới mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn
định giá cả hàng hố.
Trên bình diện lý thuyết, chính sách tiền tệ quốc gia khơng phải là khái
niệm pháp lý thuần túy mà ngoài ý nghĩa pháp lý, thuật ngữ này còn bao hàm nội
dung kinh tế sâu sắc. Sở dĩ có thể nói như vậy là vì xét trên phương diện pháp lý,
chính sách tiền tệ quốc gia là sự thể hiện tập trung ý chí của Nhà nước trong việc
ổn định giá trị đồng tiền, kiểm sốt lạm phát và ý chí này được thể chế hóa bằng
1


những quy tắc pháp lý cụ thể có giá trị bắt buộc thi hành. Cịn về phương diện

kinh tế, chính sách tiền tệ quốc gia lại phản ánh những nghiệp vụ kinh tế được
thực hiện bởi Ngân hàng nhà nước (NHNN) nhằm đạt tới những mục tiêu kinh tế
như làm tăng hoặc giảm sức mua của đồng nội tệ trong từng thời điểm nhất định,
trên cơ sở đó mà tác động đến hệ thống giá cả hàng hóa, dịch vụ và các hoạt
động kinh tế khác trên thị trường2. Như vậy, khái niệm chính sách tiền tệ quốc
gia bao hàm nhân tố pháp lí quan trọng, đó là vai trị của pháp luật, với ý nghĩa
vừa là hình thức pháp lí thể hiện chính sách tiền tệ quốc gia vừa là cơng cụ,
phương tiện pháp lí để thực hiện chính sách này trên thực tế.
2. Cơ chế pháp lí điều hành chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng nhà
nước trong nền kinh tế thị trường
2.1 Những điểm mới trong Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010
Luật quy định rõ khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia để làm cơ sở xây
dựng thẩm quyền của các cơ quan (Quốc hội, Chính phủ, NHNN) đối với chính
sách tiền tệ. Theo đó, chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở
tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu
ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các
công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.
Về thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, Luật cụ thể hóa
được vai trị, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi
chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính
phủ. Cụ thể là: Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện
thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia; Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến
2

TS.Nguyễn Tuyến, Khái quát về cơ chế pháp lý thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng nhà nước
trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam, Tạp chí Luật học số 5/1999

2



pháp và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc
tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ
và ngân hàng; Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm;
Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ
và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo
quy định của Chính phủ.
Thẩm quyền cụ thể của NHNN trong việc thực thi chính sách tiền tệ:
Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi
suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở để thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia.
Về công cụ lãi suất, Luật đã quy định lãi suất điều hành chính sách tiền tệ
và lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để NHNN điều hành,
thực thi chính sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật liên
quan như Luật Dân sự, Hình sự, Lao động, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước… Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để NHNN thay đổi nội hàm lãi
suất cơ bản theo hướng lãi suất cơ bản không phải là cơ sở để các TCTD ấn định
lãi suất kinh doanh mà làm cơ sở cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong
nền kinh tế. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN
quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các TCTD với
nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.
Theo quy định của Luật này, NHNN quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều
hành tỷ giá. Thẩm quyền của NHNN trong thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn
định giá trị đồng tiền đã được nâng cao hơn .

3


2.2 Cơ chế pháp lí điều hành chính sách tiền tệ quốc gia
Trên nguyên tắc, việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia

như thế nào sẽ thuộc thẩm quyền của Ngân hàng nhà nước nhưng việc thiết kế cơ
chế pháp lí như thế nào để Ngân hàng nhà nước vận hành chính sách tiền tệ quốc
gia một cách hiệu quả lại là vấn đề thuộc thẩm quyền của nhà làm luật.
Theo quy định tại Điều 10 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, các cơng
cụ có thể được sử dụng bởi Ngân hàng nhà nước để thực thi chính sách tiền tệ
quốc gia bao gồm: tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp
vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ.
Có hai cơ chế pháp lí để Ngân hàng nhà nước sử dụng các cơng cụ kể
trên trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia một cách hữu hiệu.
Một là, đối với công cụ tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở hay sự can
thiệp bằng ngoại hối thì cơ chế pháp lí để thực hiện các cơng cụ này là cơ chế
hợp đồng. Nói khác đi, hợp đồng chính là phương tiện pháp lí để Ngân hàng nhà
nước thực hiện việc đưa thêm tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thơng
với mục tiêu điều hồ lưu thông tiền tệ. Chẳng hạn, khi cần thiết phải đưa thêm
tiền vào lưu thơng với mục đích làm tăng khối cung tiền tệ nhằm khắc phục hậu
quả của tình trạng giảm phát thì Ngân hàng nhà nước sẽ thực hiện việc cho vay
ngắn hạn đối với các tổ chức tín dụng hoặc mua vào các giấy tờ có giá và ngoại
hối bằng tiền dự trữ phát hành.
Ngược lại, trong trường hợp cần phải rút bớt tiền khỏi lưu thông với mục
tiêu đẩy lùi tình trạng lạm phát thì Ngân hàng nhà nước sẽ chủ động phát hành
tín phiếu ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng hoặc bán ra các loại
giấy tờ có giá ngắn hạn mình đang sở hữu trên thị trường tiền tệ. Ngoài ra, trong
trường hợp này, Ngân hàng nhà nước cịn có thể sử dụng cơ chế hợp đồng để bán
ra các loại ngoại hối (bao gồm chủ yếu là vàng và ngoại tệ) trên thị trường ngoại
4


hối nhằm can thiệp kịp thời đối với sức mua của đồng nội tệ. Tất cả những hành
vi nói trên của Ngân hàng nhà nước đều được thực hiện thông qua các hợp đồng
giữa Ngân hàng nhà nước với khách hàng (ví dụ, hợp đồng tái cấp vốn; hợp đồng

mua bán ngoại hối và các giấy tờ có giá…). Cơ chế này cho phép Ngân hàng nhà
nước có khả năng điều hoà khối cung tiền tệ một cách khách quan, thực tế và
linh hoạt, bởi lẽ, việc đưa thêm hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông của Ngân hàng
nhà nước thơng qua những hợp đồng như vậy hồn tồn xuất phát từ những đòi
hỏi khách quan của thị trường.
Hai là, với cơng cụ lãi suất, tỉ giá hối đối hay dự trữ bắt buộc thì cơ chế
pháp lí để thực hiện những công cụ này là cơ chế định hướng bằng các quyết
định hành chính. Nói khác đi, Nhà nước sử dụng các quyết định hành chính để
gián tiếp tác động đến việc hình thành và thay đổi khối cung tiền tệ trong lưu
thông sao cho phù hợp với nhu cầu về tiền tệ của xã hội trong từng giai đoạn
nhất định.
Chẳng hạn, khi nhu cầu xã hội đòi hỏi cần phải tăng khối cung tiền tệ
trong lưu thông, nghĩa là phải đưa thêm tiền vào lưu thơng thì Ngân hàng nhà
nước sẽ quyết định giảm lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn để trên cơ sở đó
hình thành hệ thống lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng trên thị trường.
Quyết định này khơng chỉ có tác dụng làm “đóng băng” nhu cầu gửi tiền của
khách hàng ở các tổ chức tín dụng mà cịn có tác dụng kích thích nhu cầu vay
vốn của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Nhờ thế mà Ngân hàng nhà nước có
thể cung ứng thêm tiền vào lưu thông một cách dễ dàng hơn thông qua việc cho
vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng.
Ngồi ra, Ngân hàng nhà nước cịn có thể gián tiếp làm tăng khối cung
tiền tệ trong lưu thông bằng cách quyết định giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với
các tổ chức tín dụng (số tiền mà tổ chức tín dụng bị bắt buộc phải gửi tại Ngân
5


hàng nhà nước). Quyết định này có tác dụng mở rộng khả năng về vốn để tổ
chức tín dụng tăng cường năng lực cấp tín dụng cho khách hàng đồng thời cũng
góp phần khắc phục tình trạng giảm sút nguồn vốn huy động do quyết định giảm
lãi suất (trong đó bao gồm cả lãi suất tiền gửi) của ngân hàng nhà nước gây ra.

Sở dĩ nói rằng quyết định giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng nhà nước đối
với các tổ chức tín dụng sẽ gián tiếp góp phần làm tăng khối cung tiền tệ là bởi
vì, khi Ngân hàng nhà nước quyết định giảm mức dự trữ bắt buộc của tổ chức tín
dụng gửi tại ngân hàng nhà nước xuống một mức độ nhất định thì điều đó có
nghĩa rằng phần vốn thực tế mà tổ chức tín dụng được phép đưa vào kinh doanh
sẽ tăng lên. Hành động này đồng nghĩa với việc khuyếch trương tín dụng và
bành trướng khối cung tiền tệ trong lưu thông.
Ngược lại, trong trường hợp cần đẩy lùi lạm phát, nghĩa là phải giảm
khối cung tiền tệ trong lưu thông thì Ngân hàng nhà nước sẽ quyết định tăng lãi
suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn đối với tổ chức tín dụng. Quyết định này
khơng những có tác dụng làm “đóng băng” nhu cầu vay vốn của khách hàng ở
các tổ chức tín dụng cũng như nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng ở Ngân
hàng nhà nước mà cịn có tác dụng kích thích nhu cầu gửi tiền của khách hàng tại
các tổ chức tín dụng để hưởng lãi. Giải pháp này sẽ góp phần làm giảm đáng kể
khối cung tiền tệ trong lưu thông nhờ sự kết hợp với việc bán ra các giấy tờ có
giá hay ngoại hối của Ngân hàng nhà nước trên thị trường tiền tệ hay thị trường
ngoại hối.
Ngoài ra, để góp phần làm giảm khối cung tiền tệ trong lưu thơng, Ngân
hàng nhà nước cịn có thể quyết định tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ
chức tín dụng nhằm thu hẹp khả năng cấp tín dụng của những doanh nghiệp này
đối với khách hàng đồng thời có tác dụng phịng ngừa những hậu quả bất lợi sau
này có thể xảy ra đối với các tổ chức tín dụng khi khách hàng gửi tiền đồng loạt
6


rút tiền gửi trong cùng thời điểm. Bằng quyết định tăng mức dự trữ bắt buộc như
trên đây, Ngân hàng nhà nước đã báo hiệu rằng sẽ thực thi chính sách tiền tệ
“thắt chặt” đối với nền kinh tế và xã hội, nhằm mục tiêu đẩy lùi tình trạng lạm
phát đang cản trở tiến trình phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng việc sử dụng độc lập mỗi công cụ kể

trên để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia đều có thể gây ra những hậu quả bất
lợi cho nền kinh tế. Chẳng hạn như việc Ngân hàng nhà nước tăng hay giảm lãi
suất hoặc tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng một cách bất ngờ, khơng
có sự nghiên cứu và cân nhắc, tính tốn thận trọng về khả năng chịu đựng của
các tổ chức tín dụng thì rất có thể sẽ đưa các doanh nghiệp này lâm vào tình
trạng rối ren hoặc bị khó khăn về tài chính, thậm chí phá sản. Vì vậy, vấn đề khó
khăn nhất đối với Chính phủ và Ngân hàng nhà nước trong việc điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia chính là khả năng sử dụng một cách sáng tạo, linh hoạt,
uyển chuyển các công cụ kể trên như thế nào cho phù hợp với đặc điểm tình hình
kinh tế-xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
Thực tiễn hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong những năm
gần đây cùng với những thành tựu đáng kể trong việc điều hành chính sách tiền
tệ quốc gia, kiểm sốt lạm phát đã chứng minh rằng, việc Ngân hàng nhà nước
sử dụng phối hợp đồng thời cả hai cơ chế pháp lí nói trên để điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia là hoàn toàn phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi khách
quan của nền kinh tế thị trường3.

3

Nguyễn Tuyến, Khái quát về cơ chế pháp lý thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng nhà nước trong
điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam, Tạp chí Luật học số 5/1999

7


3. Thực tiễn thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia ở Việt Nam trong giai đoạn
cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý
3.1 Thực trạng
3.1.1 Ưu điểm
Đầu năm 2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành chính sách điều

hành tỷ giá mới theo cơ chế tỷ giá trung tâm giữa VND và USD, tỷ giá tính chéo
giữa VND và một số ngoại tệ với cơ chế linh hoạt, biến động hàng ngày. Trong
đó, tỷ giá trung tâm được NHNN công bố hàng ngày vào trước phiên giao dịch
dựa trên cơ sở tham chiếu 3 yếu tố: Diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, diễn biến tỷ giá trên thị trường quốc tế của một
số đồng ngoại tệ và các cân đối kinh tế vĩ mơ.
Chính nhờ đó, diễn biến tỷ giá trong năm 2016 đa phần ở trạng thái bình
ổn, có khoảng thời gian 3-4 tháng liên tục, tỷ giá chỉ xoay quanh mốc 22.300
VND/USD, “bình yên” đi qua cơn sóng dữ của sự kiện Brexit. Tuy nhiên, đến
khoảng giữa tháng 11, sau khi có kết quả bầu cử Tổng thống Mỹ, Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) quyết định tăng lãi suất cơ bản USD lên mức từ 0,5-0,75%
vào ngày 14-12, đồng USD trên toàn cầu tăng giá đã khiến tỷ giá ngoại tệ trong
nước được đà tăng mạnh. Theo Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), chỉ
số giá USD trong tháng 11-2016 tăng 0,22% so với tháng trước, nhưng giảm tới
0,71% so với cuối năm 2015. Sự ổn định này đã giúp NHNN tích trữ được một
lượng ngoại hối khổng lồ lên tới 40 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Đại diện
NHNN còn cho hay, tỷ giá ổn định giúp giảm tình trạng đơ-la hóa, tỷ lệ USD
trên tổng phương tiện thanh tốn (M2) giảm xuống cịn 10%, trong khi theo tiêu
chuẩn của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tỷ lệ này nếu từ mức 16-30% là đơ-la hóa
nhẹ, trên 30% là đơ-la hóa nặng.
8


Nhà nước (Ngân hàng nhà nước) đã tổ chức, triển khai hiệu quả chính
sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đạt được các chỉ tiêu định hướng cũng như
mục tiêu đề ra từ đầu năm là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Việc điều hành các công cụ được NHNN thực
hiện đồng bộ, linh hoạt, phù hợp với bối cảnh kinh tế vĩ mô và điều kiện thị
trường tiền tệ trong từng giai đoạn, đạt được các mục tiêu chính sách tiền tệ
trong 05 tháng đầu năm 2017. Cụ thể:

Thứ nhất, Ngân hàng nhà nước đã điều hành đồng bộ và linh hoạt các
cơng cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu tiền tệ nhằm kiểm
soát lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá nhưng vẫn đảm bảo thanh khoản cho các tổ
chức tín dụng cung ứng vốn tín dụng, ổn định lãi suất và hỗ trợ phát hành trái
phiếu Chính phủ (TPCP) với lãi suất thấp. Diễn biến các chỉ tiêu tiền tệ phù hợp
với kinh tế vĩ mô, tiền tệ. Đến ngày 19/5/2017, tổng phương tiện thanh toán tăng
4,41% so với cuối năm 2016, huy động vốn tăng 4,11%, thanh khoản hệ thống tổ
chức tín dụng đảm bảo, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế và
đầu tư cho TPCP .
Thứ hai, về lãi suất: Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của các tổ
chức tín dụng diễn biến ổn định. Trong bối cảnh kỳ vọng lạm phát gia tăng, cầu
vốn tín dụng và phát hành TPCP tiếp tục ở mức cao, tiến độ giải ngân vốn đầu tư
còn thấp tạo áp lực đến cầu vốn tín dụng, mặt bằng lãi suất của các tổ chức tín
dụng có sức ép tăng. Ngân hàng nhà nước đã tập trung điều hành các giải pháp
để giữ ổn định mặt bằng lãi suất thông qua điều tiết thanh khoản hợp lý hỗ trợ
các tổ chức tín dụng ổn định lãi suất, tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết
giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh để giữ ổn định lãi suất huy động,
phấn đấu giảm lãi suất cho vay. Kết quả, mặt bằng lãi suất thị trường đạt được
mục tiêu giữ ổn định, một số ngân hàng áp dụng chương trình cho vay đối với
9


một số đối tượng khách hàng với lãi suất ưu đãi . Hiện lãi suất cho vay phổ biến
khoảng 6-9%/năm đối với ngắn hạn và 9-11%/năm đối với trung và dài hạn;
khách hàng tốt, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm.
Thứ ba, thị trường ngoại tệ trong 5 tháng đầu năm về cơ bản ổn định, tỷ
giá diễn biến phù hợp với mục tiêu điều hành của Ngân hàng nhà nước, qua đó
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động
trong sản xuất kinh doanh, phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Thanh khoản thị trường tốt,
các nhu cầu hợp lý, hợp pháp của tổ chức, cá nhân đều được hệ thống ngân hàng

đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Khi có điều kiện thuận lợi Ngân hàng nhà nước đã mua
ngoại tệ từ tổ chức tín dụng để bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước, hệ thống các
tổ chức tín dụng tiếp tục mua được ngoại tệ từ khách hàng. Nếu so với cuối năm
2016 thì tỷ giá tương đối ổn định (trong đó tỷ giá trung tâm tăng 1,02%, tỷ giá
liên ngân hàng giảm 0,24%, tỷ giá của Vietcombank giảm 0,15% so với cuối
năm trước).
Thứ tư, thị trường vàng tiếp tục được tổ chức, sắp xếp lại một cách căn
bản theo đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước và diễn biến tương đối ổn định,
hạn chế tác động bất lợi của giá vàng trong nước đến tỷ giá, thị trường ngoại hối
và kinh tế vĩ mô. Thị trường cơ bản ổn định và tự điều tiết tốt thể hiện qua giá
vàng trong nước bám sát, nhiều thời điểm ngang bằng hoặc thấp hơn giá quốc tế,
Ngân hàng nhà nước khơng phải bán vàng để bình ổn thị trường; tình trạng
“vàng hóa” trong nền kinh tế đã được đẩy lùi, một phần nguồn vốn nhàn rỗi bằng
vàng trong nền kinh tế đã được chuyển hóa thành tiền phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội. Trong giai đoạn cuối tháng 6, đầu tháng 7 năm ngối, giá vàng trong
nước có xu hướng tăng nhanh hơn giá vàng quốc tế do yếu tố tâm lý trước giá
vàng thế giới tăng mạnh sau sự kiện Brexit. Tuy nhiên, sau khi Ngân hàng nhà
nước kịp thời triển khai công tác truyền thông, đăng tải thông điệp sẵn sàng triển
10


khai các giải pháp và có đủ nguồn lực để can thiệp bình ổn thị trường vàng khi
cần thiết, giá vàng trong nước đã giảm nhanh và ổn định trở lại.
Như vậy, trong bối cảnh cịn nhiều khó khăn, thách thức, chính sách tiền
tệ đã có đóng góp quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát cơ bản ở mức ổn
định, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý; đồng thời
việc điều hành các cơng cụ và giải pháp chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà
nước là đồng bộ, phù hợp với bối cảnh và mục tiêu4.
3.1.2 Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thực thi chính sách tiền tệ

quốc gia của Ngân hàng nhà nước còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể:
Điều kiện quan trọng nhất để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia là
Ngân hàng trung ương (NHTW) phải độc lập. Tại Việt Nam, NHNN không độc
lập về mặt nhân sự, trong việc thiết lập mục tiêu hay xây dựng chỉ tiêu hoạt
động, cũng khơng độc lập hồn tồn trong việc sử dụng các cơng cụ chính sách
tiền tệ (Khoản 2, 4, Điều 3, Luật NHNN năm 2010). NHNN chỉ là cơ quan xây
dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ trình Quốc hội quyết định,
trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện và có trách nhiệm điều hành trong phạm
vi đã được Quốc hội và Chính phủ duyệt. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, có
thể nói, NHNN đã được trao quyền độc lập hơn trong lựa chọn công cụ điều
hành (Điều 10, Luật NHNN 2010). NHNN sẽ dần có được sự linh hoạt và độc
lập nhất định trong khâu thực hiện các mục tiêu đề ra của CSTT.
Về yêu cầu về tính minh bạch của chính sách tiền tệ, việc cơng bố mục
tiêu và việc thực thi chính sách tiền tệ đã được thực hiện theo Thơng tư số
35/2011/TT-NHNN có thể coi là một bước tiến bộ trong việc minh bạch hoá. Tuy
4

Theo Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Thơng tin về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng 5 tháng
đầu năm 2017

11


nhiên, các thông tin vẫn cần được công bố thường chuyên, chuyên nghiệp và đầy
đủ hơn.
Đối với yêu cầu lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của chính sách
tiền tệ, thực tế chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn tiếp tục được duy trì theo
hướng đa mục tiêu mặc dù Luật NHNN năm 2010 có đề cập đến mục tiêu ổn
định giá trị đồng tiền thông qua chỉ tiêu lạm phát như là mục tiêu cơ bản nhất của
chính sách tiền tệ (Điều 2, 3, Khoản 1, Điều 4, Luật NHNN). Luật NHNN còn

quy định việc NHNN tạm ứng cho ngân sách để xử lý thiếu hụt tạm thời (Điều
26). Đó là trên cơ sở pháp lý, còn trên thực tế, để đảm bảo lạm phát là mục tiêu
ưu tiên hàng đầu thì địi hỏi chính sách tiền tệ không bị ảnh hưởng bởi những lo
ngại về chính sách tài khóa hay phải có một vị thế tài khóa vững mạnh như: thâm
hụt ngân sách thấp và tối thiểu hóa khả năng Chính phủ in tiền hoặc dùng dự trữ
ngoại hối để bù đắp thâm hụt ngân sách; Chính phủ có khả năng tiếp cận thị
trường tài chính để đáp ứng nhu cầu tài trợ kinh phí. Tại Việt Nam, thâm hụt
ngân sách là triền miên (5-6%), trong khi các nước khác vào thời điểm áp dụng
chính sách mục tiêu lạm phát đều có mức thâm hụt NSNN thấp hơn đáng kể như
Thái Lan khoảng -2,8% , Indonesia -1,1% . Nợ công của Việt Nam cũng tăng
nhanh gần kịch trần 65% mà Quốc hội đặt ra. Nguồn thu ngân sách khơng dồi
dào, thị trường trái phiếu Chính phủ chưa phát triển đủ sâu nên hạn chế khả năng
Chính phủ tiếp cận được nguồn vốn từ thị trường tài chính để tài trợ hoạt động.
Thực tiễn cho thấy, do bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn, biến động
khó lường, khả năng kiểm sốt tín dụng của NHNN còn hạn chế do vẫn tồn tại
cho vay theo chính sách, theo chỉ đạo, tăng trưởng M2 và tín dụng thường không
đạt được chỉ tiêu định hướng được giao và do đó lạm phát cũng biến động ngồi
dự kiến. Tuy nhiên, kể từ năm 2014, bằng cách thức điều hành linh hoạt, trọng
12


tâm là thị trường mở, lượng tiền cung ứng và tín dụng đã tăng theo dự kiến, góp
phần ổn định lạm phát.
Về mối quan hệ giữa lượng cung tiền và lạm phát, do biến đổi của cơ cấu
kinh tế, sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào các thị trường tài chính quốc tế và
sự thay đổi nhanh chóng khung thể chế cũng như khu vực tài chính khiến cho
việc dự đoán mối quan hệ giữa lượng cung tiền và lạm phát ngày càng khó khăn.
Thêm vào đó, nền kinh tế còn chịu ảnh hưởng nhiều của các cú sốc (các điều
chỉnh về giá, cải cách thuế khóa, giá lương thực và dầu và nguồn cung như cung
thực phẩm). Những điều này khiến việc kiểm soát và dự đoán trước cung cầu

tiền tệ trở nên phức tạp hơn, từ đó cản trở việc thực thi chính sách tiền tệ quốc
gia
Ngân hàng nhà nước vẫn sử dụng các biện pháp hành chính thơng qua
việc quy định trần lãi suất huy động, cho vay; chưa lựa chọn được lãi suất chính
sách, chưa xây dựng được cơ chế điều hành và phương pháp xác định lãi suất
của NHNN để đảm bảo quan hệ chặt chẽ giữa các loại lãi suất này và với lãi suất
tín phiếu kho bạc và lãi suất thị trường. Khả năng điều tiết bằng nghiệp vụ thị
trường mở đôi khi bị hạn chế do hàng hóa trên thị trường chưa đa dạng, các mức
lãi suất ở các phiên đấu thầu khơng hồn tồn theo quan hệ cung cầu. Dự trữ bắt
buộc chưa bao trùm toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế nên hạn chế khả
năng kiểm soát cung tiền của NHNN qua công cụ này.
Việc truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh lãi suất, tỷ giá và giá tài sản
đã mạnh dần lên nhưng chưa có những phân tích lượng hố cụ thể mức độ tác
động của khối lượng tiền cung ứng đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền
tệ, đến tín dụng nền kinh tế, đến M2, lãi suất hay tỷ giá, từ đó hạn chế phần nào
hiệu quả các quyết định của NHNN khi thị trường có những biến động.
13


Khả năng dự báo lạm phát ở Việt Nam chưa tốt dẫn đến có những thời
điểm lạm phát vượt mục tiêu đề ra. Việc tính tốn chỉ số giá tiêu dùng cũng còn
nhiều hạn chế do tỷ trọng các hàng hố trong rổ hàng tính CPI khơng được cập
nhật thường xuyên (5 năm điều tra một lần) và phương pháp điều tra, thống kê
cịn thơ sơ. Mơ hình dự báo lạm phát trong trung hạn cịn thiếu. Mơ hình ARIMA
dự báo lạm phát ngắn hạn chỉ sử dụng số liệu trong quá khứ để dự báo lạm phát
trong tương lai, do đó khi thị trường có biến động bất thường thì mơ hình sẽ dự
báo khơng chính xác. Việc lập các mơ hình dự báo cịn gặp khó khăn do cần một
khối lượng lớn thông tin về nhiều biến số khác nhau nhưng việc thu thập thơng
tin cịn chưa đầy đủ, chính xác, kịp thời5.
Một trong những hoạt động cho thấy Ngân hàng nhà nước đã có những

bước đi vội vàng trước sự kiện Trung Quốc phá giá đồng NDT: Từ đầu năm
2015, Ngân hàng nhà nước đã cho phép tỷ giá VND/USD tăng khoảng 5%,
tương ứng với mức giảm giá của đồng NDT. Động thái chính sách này của
NHNN đã để lại một số hệ quả:
Thứ nhất, là tâm lý đầu cơ USD đã gia tăng ngay sau đó và buộc Ngân
hàng nhà nước phải đưa ra cam kết không điều chỉnh tiếp tỷ giá cho đến đầu năm
2016. Mặc dù tỷ giá VND/USD đã giảm trở lại, nhưng diễn biến tỷ giá trong thời
gian tới sẽ ra sao vẫn là một câu hỏi, nhất là khi những động thái của Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBoC) vẫn là những
ẩn số, đồng thời niềm tin của thị trường vào các cam kết của Ngân hàng nhà
nước đã khơng cịn mạnh như trước.

5

TS. Mai Thu Hiền, Thực thi chiến lược chính sách tiền tệ ở Việt Nam: Một vài đánh giá, đề xuất,
tapchitaichinh.vn

14


Thứ hai, những biến động về tỷ giá trong thời gian gần đây đã khiến cho
lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm tăng từ mức 5,4% hồi tháng 4/2015
lên 6,7% hiện nay. Việc phát hành trái phiếu chính phủ, vì thế càng trở nên khó
khăn. Đó là chưa kể nợ công cũng sẽ gia tăng khi VND mất giá.
Về tác động của việc Trung Quốc phá giá đồng NDT đến nền kinh tế
thực, một số đánh giá cho thấy là khơng q lớn.
Theo một số tính tốn, nếu tỷ giá VND/USD tăng 1%, GDP sẽ tăng tổng
cộng khoảng 0,08 điểm phần trăm trong 3 năm tiếp theo, nhưng nếu lãi suất tăng
1%, GDP sẽ bị giảm 0,24 điểm phần trăm trong cùng giai đoạn. Một số tính toán
khác cho thấy, việc phá giá VND ở mức 1% có thể dẫn đến lãi suất tăng 0,3%.

Như vậy, nếu phá giá mà dẫn lãi suất gia tăng, các tác động của việc phá giá đến
tăng trưởng kinh tế sẽ bị triệt tiêu.
Nguyên nhân dẫn đến tác động của việc phá giá VND đến tăng trưởng
kinh tế không đáng kể là do hàng hóa của Việt Nam có độ co giãn theo giá thấp.
Điều này có thể xuất phát từ việc Việt Nam là nền kinh tế gia công, theo đó nhập
khẩu nguyên liệu, chế biến, rồi xuất khẩu, nên khi VND giảm giá dẫn đến chi phí
đầu vào cũng tăng theo và không con nhiều dư địa để giảm giá bán. Vì vậy, khi
Ngân hàng nhà nước phá giá, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sẽ
không giảm giá bán để tăng sản lượng. Ngược lại, họ vẫn giữ nguyên giá bán
bằng USD, nhưng sẽ nhận được nhiều VND hơn khi tỷ giá VND/USD tăng. Hơn
nữa, do tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam luôn lớn hơn nhiều so với tốc độ
tăng trưởng GDP, nên sự gia tăng của xuất khẩu phải trả giá bằng sự sụt giảm
của các khu vực kinh tế khác, khi khu vực xuất khẩu lấy nguồn lực của các khu
vực kinh tế này6.

6

TS. Nguyễn Đức Độ, Đồng nhân dân tệ giảm giá và những tác động tới nền kinh tế Việt Nam, tapchitaichinh.vn

15


3.2 Đề xuất ý kiến pháp lý
Vấn đề mấu chốt là phải thực thi chính sách tiền tệ thích hợp hơn, trong
một thế giới mở hơn. Hai cái khó nhất là tính độc lập của ngân hàng nhà nước
trong quản lý khung tiền, và dịch chuyển vốn. Đây là câu chuyện rất phức tạp.
Bên cạnh độc lập, dịch chuyển vốn, thì chính sách tiền tệ ấy phải gắn với một
mức độ linh hoạt của tỷ giá. Chúng ta phải chuẩn bị các bước đi cần thiết, khả
năng chống các cú sốc cần thiết.
Thực tế cho thấy Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có mức độ

độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính tồn diện của Chính phủ. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN,
nhất là trong việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường
tiền tệ và hệ thống tài chính thời gian qua. Vì vậy, nâng cao tính độc lập của
NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong hiệu
quả hoạt động và là nền tảng quan trọng bảo đảm trước hết NHNN thực sự là
Ngân hàng trung ương và sau đó là tiến tới một Ngân hàng trung ương hiện đại.
Hiện nay, Ngân hàng nhà nước là một cơ quan của Chính phủ, Thống đốc Ngân
hàng nhà nước là Thành viên của Chính phủ và chức năng nhiệm vụ của các bộ,
ngành hiện nay thì mức độ độc lập trong thực thi chính sách tiền tệ nên ở mức tự
chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành là phù hợp hơn cả. Tại Quyết định
112 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt
Nam đến 2020 cũng đã ghi rõ “…Ngân hàng Nhà nước độc lập, tự chủ trong việc
xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái”.
Về địa vị pháp lý: Trong dự thảo Luật NHNN sửa đổi, được NHNN soạn
thảo chuẩn bị trình Chính phủ, địa vị pháp lý của NHNN vẫn được giữ nguyên,
tức là cơ quan ngang bộ của Chính phủ. Điều này cho thấy chính bản thân
NHNN vẫn chưa sẵn sàng cho một địa vị mới có tính độc lập hơn đối với Chính
16


phủ. Tuy nhiên, cho dù NHNN đã sẵn sàng cho một vị thế độc lập mới thì với
cấu trúc thể chính trị hiện nay cộng với những quan hệ có tính “thơng lệ” giữa
NHNN với các cơ quan khác của Chính phủ thì mục tiêu độc lập hồn tồn với
các quyết sách Chính phủ là chưa khả thi.
Khi địa vị pháp lý khơng được độc lập thì khả năng độc lập về mục tiêu
và q trình thực thi chính sách cũng ít nhiều bị giới hạn. Áp dụng cách thức
gián tiếp theo hướng làm tăng tính độc lập của Ngân hàng trung ương trong điều
kiện môi trường kinh tế - chính trị như hiện nay ở Việt Nam, có vẻ là cách thức
có hiệu quả nhất trong ngắn hạn và trung hạn. Bước đi đầu tiên có tính thử

nghiệm cho một Ngân hàng trung ương độc lập là cho phép NHNN được độc lập
trong việc lựa chọn mục tiêu chính sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu được
chọn lựa phù hợp với điều kiện nền kinh tế vĩ mô mà khơng nhất thiết phải phù
hợp với các chính sách khác của Chính phủ.
Về mục tiêu: Luật cần đưa ra một hoặc một nhóm các mục tiêu chính
sách cụ thể, rõ ràng và thống nhất. Quốc hội cần loại bỏ những mục tiêu chung
và không rõ ràng như đảm bảo quốc phòng an ninh hay nâng cao đời sống nhân
dân. Nghiên cứu mục tiêu chính sách của các Ngân hàng trung ương trên thế giới
cho thấy chúng thường tập trung vào các mục tiêu chính như kiểm sốt lạm phát,
duy trì cơng ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, ổn định hệ thống tiền tệ và thị
trường tài chính (Cecchetti, 2008). NHNN nên được trao quyền lựa chọn mục
tiêu cho từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô mà không chịu sự can
thiệp hay chỉ đạo từ phía Chính phủ hay các cơ quan liên quan khác.
Về quyết định thực thi chính sách: Thống đốc phải được trao quyền quyết
định trong việc thực thi các chính sách tiền tệ và tự chịu trách nhiệm về các
quyết định đó chứ khơng nên thơng qua Chính phủ. Điều này khơng những góp
17


phần làm tăng tính chủ động cho NHNN mà cịn làm giảm độ trễ ngồi của chính
sách tiền tệ - một yếu tố quan trọng làm giảm tính hiệu lực của chính sách.
Về quan hệ với ngân sách: Để đảm bảo hiệu quả của chính sách tiền tệ,
những nhiệm vụ khác như tạm ứng chi ngân sách cũng nên được quy định lại để
Thống đốc có quyền từ chối trong mục tiêu thâm hụt ngân sách được Quốc hội
phê duyệt hàng năm và chủ động trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị
trường.
Về tổ chức và cơ chế tài chính: Thực hiện tốt chính sách tiền tệ địi hỏi
NHNN phải thu hút được đội ngũ lớn những chuyên gia đầu ngành về tài chính,
ngân hàng nên cần phải cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong việc thu
hút chuyên gia về môi trường làm việc và chế độ lương thưởng. Hơn nữa, để cho

việc thực thi chính sách có tính phản biện cao, Thống đốc cần được trao quyền
chủ động trong việc thành lập Ban tư vấn chính sách tiền tệ, trong đó quy tụ
khoảng 10 người, gồm những chuyên gia đầu ngành có kinh nghiệm quản lý và
tư vấn tại các Ngân hàng trung ương của các nước phát triển am hiểu về điều
kiện kinh tế Việt Nam.
Thống đốc cần được trao quyền trong việc quy định sử dụng những
khoản thặng dư trong hoạt động ngân quỹ, chuyển tiền điện tử hay quản lý quỹ
dự trữ ngoại hối quốc gia, để có thể có cơ chế tiền lương phù hợp hơn. Hơn nữa,
các khoản thu chi sẽ hợp lý hơn khi NHNN được quyền tự chủ trong thu chi đặc
biệt là trong việc quản lý biên chế các chi nhánh và vụ, cục.
Về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập và tự chủ của NHNN
đối với các mục tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với trách nhiệm giải
trình đầy đủ và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc theo đề nghị
18


phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về các quyết định chính sách trong
giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao phó7.
Ngồi ra, cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt,
giảm bớt biện pháp hành chính hướng đến chính sách lạm phát mục tiêu và một
ngân hàng trung ương hiện đại, độc lập hơn. Không thể phủ nhận rằng trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn cần thiết phải có sự
can thiệp hợp lý từ nhà nước vào hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, nhà nước cũng
cân phải thừa nhận sự vận động của các quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,… Do đó, nhà
nước cần hạn chế can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế bằng các quyết định hành
chính mà thay vào đó Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần tăng cường sử dụng
các công cụ mang tính kinh tế nhằm đảm bảo tính hiệu quả cho việc thực thi
chính sách tiền tệ quốc gia8. Để làm được điều đó, pháp luật cần quy định theo
hướng thắt chặt điều kiện sử dụng các cơng cụ mang tính hành chính của ngân

hàng nhà nước.
KẾT LUẬN
Trên đây là phần trình bày của em. Dù đã chuẩn bị kĩ lưỡng nhưng do
kiến thức còn hạn chế nên bài làm của em chắc chắn cịn tồn tại nhiều thiếu sót.
Vì vậy em rất mong được thầy cơ tận tình chỉ ra những yếu kém để em có thể rút
kinh nghiệm cho những bài tập sau này.
7

Đỗ Thiên Anh Tuấn – Trần Thanh Hằng – Nguyễn Thanh Nhã, Tính độc lập của Ngân hàng trung ương,
tapchitaichinh.vn

8

Nguyễn Thu Hường, Pháp luật điều chỉnh hoạt động của Ngân hàng nhà nước trong việc thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia – thực trạng và phương hướng hồn thiện, Khóa luận tốt nghiệp, Người hướng dẫn: ThS.Trần Vũ
Hải, Hà Nội, 2009

19


Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam,
Nxb CAND, Hà Nội, 2017;
3. TS.Nguyễn Tuyến, Khái quát về cơ chế pháp lý thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia của Ngân hàng nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường
Việt Nam, Tạp chí Luật học số 5/1999;
4. Đỗ Thiên Anh Tuấn – Trần Thanh Hằng – Nguyễn Thanh Nhã, Tính

độc lập của Ngân hàng trung ương, tapchitaichinh.vn;
5. Nguyễn Thu Hường, Pháp luật điều chỉnh hoạt động của Ngân hàng
nhà nước trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia – thực trạng và phương
hướng hồn thiện, Khóa luận tốt nghiệp, Người hướng dẫn: ThS.Trần Vũ Hải,
Hà Nội, 2009;
6. Theo Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Thơng tin về điều hành chính
sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng 5 tháng đầu năm 2017;
7. TS. Nguyễn Đức Độ, Đồng nhân dân tệ giảm giá và những tác động tới
nền kinh tế Việt Nam, Tapchitaichinh.vn;
8. Tú Anh, Tính độc lập của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong thực thi
chính sách tiền tệ, sbv.gov.vn;
9. ThS.Nguyễn Hương Giang, Sự độc lập của Ngân hàng Trung ương và
một số gợi ý chính sách cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 23/2010;
20


10. TS.Mai Thu Hiền, Thực thi chiến lược chính sách tiền tệ ở Việt Nam:
Một vài đánh giá, đề xuất, tapchitaichinh.vn.
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................0
NỘI DUNG........................................................................................................... 0
1. Chính sách tiền tệ quốc gia với vai trò của Ngân hàng nhà nước..................0
2. Cơ chế pháp lí điều hành chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng nhà
nước trong nền kinh tế thị trường.......................................................................2
2.1 Những điểm mới trong Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010..................2
2.2 . Cơ chế pháp lí điều hành chính sách tiền tệ quốc gia............................. 5
3. Thực tiễn thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia ở Việt Nam trong giai đoạn
cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý..........................................9
3.1 Thực trạng................................................................................................. 9

3.1.1 Ưu điểm.............................................................................................. 9
3.1.2 Hạn chế............................................................................................. 11
3.2 Đề xuất ý kiến pháp lý............................................................................ 16
KẾT LUẬN......................................................................................................... 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 20

21



×