TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Bài tiểu luận kết thúc học phần
Môn Triết học Mác – Lênin
ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM TRÊN
Giảng viên
:
Bùi Văn Mưa
Lớp học phần
:
21C1PHI51002326
Sinh viên
:
Phạm Thị Kim Ngọc
Khóa – Lớp
MSSV
:
:
K47 – HT002
31211025769
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 12 năm 2021
Lời cảm ơn
Trước tiên em xin gửi lởi cảm ơn đến trường Đại Học UEH đã đưa môn Triết học
vào trong chương trình giảng dạy. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng
viên bộ môn – thầy Bùi Văn Mưa đã dạy dỗ, rèn luyện và truyền đạt những kiến thức
quý báu cho em trong suốt thời gian vừa qua. Trong thời gian được tham dự lớp học
của thầy, em đã được tiếp thu thêm nhiều kiến thức bở ích, học tập được tinh thần làm
việc hiệu quả, nghiêm túc. Đây thực sự là những điều rất cần thiết cho quá trình học
tập và làm việc sau này của em.
Bộ môn Triết học là môn học thú vị, vơ cùng bở ích đối với mỡi sinh viên. Tuy
nhiên, thời gian học tập trên lớp không nhiều, mặc dù đã cố gắng nhưng chắc chắn
những hiểu biết và kỹ năng về môn học này của em vẫn cịn nhiều hạn chế. Do đó bài
ḷn của em khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và chưa chuẩn xác, kính mong thầy
xem xét và góp ý giúp bài luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Lời nói đầu
Con người là một khách thể hết sức phong phú được rất nhiều ngành khoa học nghiên
cứu như sinh vật học, nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học, y học, triết học, …. Chúng
ta cứ say mê tìm hiểu của mọi vật xung quanh nhưng khi nhìn lại thì bản chất con người
cịn kì bí hơn cả. Vấn đề về con người đã được tiến hành nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác
nhau, song những lĩnh vực đó mới chỉ nghiên cứu những mặt riêng biệt, cụ thể về con
người ( ví dụ: sinh học nghiên cứu các quy luật sinh lý , toán học nghiên cứu tư duy logic
…..). Riêng với triết học , vì có đặc trưng của tư duy triết học là sự phản ánh của
tư duy con người đối với chính bản thân mình , có đối tượng nghiên cứu là những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội nên vấn đề về “Bản chất con người” được nghiên
cứu một cách bao quát và đầy đủ nhất. Hơn nữa, với triết học Mác – Lênin, lần đầu
tiên, vấn đề con người được giải quyết một cách đúng đắn trên quan điểm biên chứng
duy vật.
MỤC LỤC
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và bản chất con người.......1
1.1 Con người là một thự thể sinh học – xã hội................................................................. 1
1.2 Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội........................................ 2
2. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn.......................................................................................................... 3
2.1 Về lí luận....................................................................................................................................... 3
2.2 Về thực tiễn.................................................................................................................................. 4
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và bản chất con người:
1.1. Con người là một thực thể sinh học – xã hội:
Dựa trên kết quả của những thành tựu của khoa học, triết học Mác khẳng định: Con
người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên,vừa là sản phẩm hoạt động
chính của bản thân con người. Con người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và xã
hội. Là thực thể sinh học, con người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự
nhiên (theo thuyết tiến hóa của ĐacUyn). Ph.Angghen cho rằng : “Bản thân cái sự kiện
là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã qút định việc con người khơng bao giờ
1
hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật” . Hay nói cách khác, tiền
đề vật chất đầu tiên quyết định cho sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Con người “với tất cả xương thịt, máu mủ... đều thuộc về giới tự nhiên”, và mãi mãi
phải sống dựa vào giới tự nhiên. Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”, con
người là một bộ phận của giới tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, các
giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người. Con
người tồn tại được trước tiên phải có cơ thể sống - sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài. Mặt
khác, con người phải đấu tranh để sinh tồn và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên,
các quy luật sinh học (Ví dụ: quy luật sinh tử, quy luật đồng hóa, dị hóa…).
Tuy nhiên, đó không phải là yếu tố duy nhất qui định bản chất con người. Ăngghen
đã chỉ ra rằng, bước chuyển biến từ vượn phát triển thành người là nhờ quá trình lao
động. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đởi, cải biến tồn
bộ giới tự nhiên. “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, cịn con người thì tái sản
xuất ra tồn bộ giới tự nhiên”. Vì vậy, ta hồn tồn có thể khẳng định: Lao động là
điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của
con người. Mặt khác, tính xã hội chỉ có trong “xã hội lồi người”, con người không thể
tách khỏi xã hội và là điểm cơ bản mà con người khác với con vật. Xã hội biến đởi thì
mỡi con người cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá
nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
1
Theo C.Mác và Ph.Angghen (1994), Toàn tập, t.20. Sdd. Tr.146
1
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội. Hai mặt này
vừa đối lập nhau, vừa quy định ràng buộc và làm tiền đề cho nhau, trong đó mặt tự nhiên
quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt xã hội quyết định bản chất con người.
1.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội:
Là thực thể sinh học – xã hội, con người khác xa những thực thể sinh học đơn
thuần. Cái khác này không chỉ thể hiện ở chỡ cơ thể của con người có một trình độ tở
chức sinh học cao hơn, mà chủ ́u là ở chỡ con người có một lượng rất lớn các quan
hệ xã hội cực kỳ phức tạp. Có thể nói, con người vượt lên thế giới lồi vật trên cả 3
phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với cộng đồng (xã hội) và quan
hệ với chính bản thân mình. Cả ba mối quan hệ đó đều mang tính xã hội và quan hệ xã
hội giữa người với người là bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác. Bởi vậy,
để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong
tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
2
là tổng hồ những quan hệ xã hội ”.
Mác cho rằng xem xét yếu tố cấu thành bản chất con người phải vạch ra bản chất
con người trong tính hiện thực của nó. Đây là một luận đề hết sức khoa học, đầy đủ.
Với quan niệm đó, Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là
hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử, đồng thời khẳng định con người luôn cụ
thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định.
Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu
tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn, con
người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch
sử của xã hội lồi người. Đó cũng là sự bở khút và phát triển quan điểm triết học về
con người của Phoiơbắc – quan điểm xem con người với tư cách là sinh vật trực quan
và phủ nhận hoạt động thực tiễn của con người với tư cách là hoạt động vật chất, cảm
tính. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người.
Và trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực lẫn tư duy, trí tuệ
2
C.Mác và Ph.Angghen (1995). Tồn tập, t.3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.11
2
của mình. Khi nói bản chất con người là tởng hồ các mối quan hệ xã hội thì điều đó
có nghĩa:
Một là, tất cả các quan hệ xã hội (như quan hệ giai cấp; quan hệ chính trị; quan
hệ cá nhân, …) đều góp phần vào việc hình thành bản chất của con người; song có ý
nghĩa quyết định nhất là các quan hệ kinh tế mà trước hết là các quan hệ sản xuất, bởi
vì các quan hệ này đều trực tiếp hoặc gián tiếp chi phối các quan hệ xã hội khác.
Hai là, khơng chỉ có các quan hệ xã hội đang tồn tại mà cả các quan hệ xã hội
trong quá khứ cũng góp phần quyết định bản chất con người đang sống, vì trong tiến
trình lịch sử của mình, con người dù muốn hay khơng cũng phải kế thừa di sản của
những thế hệ trước.
Ba là, bản chất con người không phải là cái ổn định, hồn chỉnh, bất biến sau
khi xuất hiện, mà nó là một q trình ln biến đởi theo sự biến đởi của các quan hệ
xã hội mà con người gia nhập.
Thế nhưng, khi nghiên cứu luận đề trên cần lưu ý:
Thứ nhất, khi khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa là phủ nhận mặt
tự nhiên trong đời sống con người mà chỉ muốn nhấn mạnh sự khác nhau về bản chất
giữa con người và động vật; cũng như sự thiếu sót trong các quan niệm về con người
trước đó.
Thứ hai, cần thấy rằng, cái bản chất không phải là cái duy nhất mà chỉ là cái chung
nhất, sâu sắc nhất; ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội;
ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng mang tính xã hội. Quan
niệm bản chất con người là tởng hồ những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận
thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
2. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn:
2.1. Về lí luận:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và bản chất con người là cơ sở
phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người. Biểu hiện:
Thứ nhất, quá trình hình thành và phát triển bản chất con người đều chịu sự quy định
bởi các yếu tố thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội. Bởi vì con người trong những điều
kiện khác nhau sẽ có quan điểm, bản chất riêng. Con người cá nhân hình thành con 3
người trong xã hội và người trong xã hội sẽ quay lại điều khiển, tác động lại những
con người cá nhân.
Thứ hai, nhân cách con người là tởng hịa các yếu tố tạo thành giá trị con người
mới. Mỗi con người trong quá trình định hình nhân cách phải hình thành trên các yếu
tố thuộc về tri thức và đạo đức. Đấy là yếu tố để con người phát triển tồn diện bởi vì
theo Bác Hồ nói rằng: “Có tài mà khơng có đức là vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì
làm việc gì cũng khó”.
Thứ ba, q trình hình thành và phát triển nhân cách chịu sự quy định của yếu tố
thuộc về văn hóa – xã hội. Bởi vì giá trị truyền thống của dân tộc qút định đến hành
vi, tình cảm, nhân cách của mỡi con người. Văn hóa – xã hội là tởng hịa các nhân tố
cá nhân, được cấu thành bởi những yếu tố: toàn bộ thế giới quan, chuẩn mực về thẩm
mĩ, đạo đức, chính trị, xã hội. Để đảm bảo được tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời
đại, chúng ta phải giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức để có được con người
của thời đại, xã hội đó, của văn hóa, dân tộc đó trong q trình rèn luyện nên mỗi con
người cá nhân trong xã hội.
Thế nên, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì khơng thể chỉ
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính qút
định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội
của nó.
2.2. Về thực tiễn:
Đảng ta đã quán triệt và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con
người và bản chất con người cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nhân tố con
người, đặc biệt là trong thời kì đởi mới đất nước:
+ Muốn đất nước có thể phát triển bền vững thì phải tập trung vào phát triển nhân tố
con người. Theo C.Mác:“Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tởng
hịa các mối quan hệ xã hội”. Mối quan hệ giữa con người và xã hội rất chặt chẽ, tác
động qua lại với nhau. Mà bản chất con người được quy định bởi môi trường và điều
kiện xã hội. Vì thế, muốn phát triển bản chất con người theo hướng tích cực thì phải
hiểu rõ mơi trường, điều kiện xã hội ở nơi mình đang sinh sống, ở thời đại mình đang
tồn tại. Hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển nhân tố con người, kế thừa quan
4
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng ta đã khẳng
định: nguồn lực q báu nhất, có vai trị qút định nhất là con người Việt Nam; nhân tố
con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh tồn
cầu hố và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một trong những yếu tố quyết định việc
chúng ta có tranh thủ tận dụng thành cơng những thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức,
khó khăn mà q trình đó đặt ra hay khơng phụ thuộc đáng kể vào con người. Báo cáo
tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định: “Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung
tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người
3
phát triển” . Vì thế, Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương phát triển tồn diện các lĩnh
vực văn hóa, xã hội hài hịa với phát triển kinh tế, chính sách về giáo dục, đào tạo; về y tế;
về lao động và việc làm;.... Đảng và Nhà nước cũng đề ra Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định một trong ba khâu đột phá là phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc
đởi mới căn bản và tồn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, cơng nghệ. Có thể nói, những chính
sách của Đảng và Nhà nước là những bước đi đúng đắn và mang tính đột phá trong
việc khai thác và phát huy nhân tố con người.
+ Con người là một thành viên, là một tế bào của xã hội, của đất nước và sẽ phát triển
tốt khi được ở trong một mơi trường tốt. Vì thế, muốn được phát triển một cách tồn diện,
con người trước hết cần phải có trách nhiệm bảo vệ và phát triển xã hội bằng cách:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Có ý thức tập thể, đồn kết vì lợi ích chung, đặt lợi ích chung trên lợi ích cá nhân.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa tôn
trọng kỷ cương phép nước; có ý thức bảo vệ và cải thiện mơi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất
lao động cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), tr.78-79.
5
Kết luận
Trong tất cả những nghiên cứu về bản chất con người cho đến thời điểm hiện tại thì
quan điểm triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề một cách đúng đắn và đầy đủ nhất
trên quan điểm biện chứng duy vật. Theo ông, con người là thực thể sinh học-xã hội; là
chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Song trong đời sống xã hội, khi xem xét con người
phải đặt nó trong tởng thể các quan hệ xã hội, bởi “Trong tính hiện thực, bản chất con
người là tởng hịa các mối quan hệ xã hội.”
Quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người mang lại ý nghĩa vô cùng to
lớn trên nhiều phương diện. Nghiên cứu về vấn đề này, con người sẽ tiến gần hơn một
bước trong việc khám phá về chính mình, từ đó ứng dụng vào đời sống ở những lĩnh
vực khác nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội,….. Hiểu rõ hơn về bản chất của bản than
và những mối quan hệ liên quan , con người sẽ biết tự điều chỉnh hành vi sao cho phù
hợp với những mối quan hệ đó, từ đó có động lực phát triển bản thân nói riêng cũng
như cộng đồng, xã hội nói chung bền vững đi lên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Theo C.Mác và Ph.Angghen (1994), Toàn tập, t.20. Sdd. Tr.146.
[2] C.Mác và Ph.Angghen (1995). Tồn tập, t.3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.11.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), tr.78-79.
Một số nội dung tham khảo từ TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN (HỆ THỐNG CÂU HỎI –
ĐÁP ÁN GỢI MỞ & HƯỚNG DẪN VIẾT TIỂU LUẬN) (2005), Nxb. Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh, tr.435-441 và Sách Tài liệu hướng dẫn ơn tập mơn học Triết học
Mác – Lênin, Nxb.Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2014, tr.203-207. Các tài liệu
sưu tầm từ Internet.